Các Cõi trong Vũ Trụ Càn Khôn theo Cao Đài Giáo
Đấng Tạo Hóa ( Đức Thượng Đế ), ngự trong Ngôi Tứ Tượng, dùng quyền Chí Tôn lập phép Vô Vi
Bát Quái mà tác thành Vũ Trụ (Cosmos).
Trước hết, Ngài lập ba cõi Thanh Thiên:
1. Thái Thanh Thiên (Adi), Phật giáo gọi Đại Bát Niết Bàn (Mahaparanirvana).
2. Thượng Thanh Thiên (Anupadaka), Phật giáo gọi Bát Niết Bàn (Paranirvana).
3. Ngọc Thanh Thiên (Atma), Phật Giáo gọi Niết Bàn (Nirvana), tức là Bạch Ngọc Kinh (1).
Lập xong ba cõi Thanh Thiên, Đấng Tạo Hóa lập thêm ba Cảnh giới là: Thượng giới, Trung giới, Hạ giới.
Thượng giới gồm ba cõi Tiên là:
1. Cõi Thiên Tiên, cũng gọi là cõi Bồ đề (Monde Spirituel ou Monde Bouddhique).
2. Cõi Địa Tiên (Monde Mental supérieur - Manas supérieur).
3. Cõi Nhơn Tiên (Monde Mental - Manas).
Mỗi cõi chia làm ba từng, cộng chung là chín từng, gọi là Cửu Trùng Thiên (2).
Trung giới gồm có cõi Thánh (Monde Mental inférieur) và cõi Thần (Monde Astral).
Mỗi cõi cũng chia ra nhiều từng, đây chỉ nói đại lược thôi.
Hạ giới là cõi Phàm trần, có tinh tú và thất thập nhị địa cầu, đều có nhơn loại cùng các thứ sanh vật, mà địa cầu chúng ta ở đây lại đứng vào hạng 68.
Từng cao nhứt cõi Phàm trần chứa đầy một chất tinh khí nhẹ nhàng hơn không khí, người có thần nhãn thấy màu nó vàng vàng. Người Pháp gọi tinh khí là éther, người Trung Hoa dịch âm là dĩ thái.
Tóm lại, trong võ trụ, kể từ trên đổ xuống gồm có: Thái Thanh Thiên, Thượng Thanh Thiên, Ngọc Thanh Thiên, Tiên Giới, Thánh Giới, Thần Giới và Phàm Giới.
Tam Thanh Thiên và Cửu Trùng Thiên gọi chung là: "Thập nhị Thiên".
Trong khi sáng tạo, Đấng Tạo Hóa dùng Chơn linh biến ra mười hai đấng gọi "Thập nhị Thời Thần" (Jayas), mỗi vị lo phận sự trong một phần mười hai của thời gian sáng tạo chia làm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, vân vân.
Cho nên Đức Chí Tôn có nói:
"Thập nhị Khai Thiên là Thầy, nắm trọn Thập nhị Thời Thần trong tay".
Chư Tiên Phật là các Đấng thọ thiên chức Khai hóa "Cửu Trùng Thiên", nên đứng vào hàng "Cửu Thiên Khai Hóa".
(1) Đó là Nhứt Khí hóa Tam Thanh.
(2) Cửu Trùng Thiên sẽ giải trong phần Giáo lý.
Các Cõi Trong Vũ Trụ với Những Danh Từ Theo Thông Thiên Học và Huyền Bí Học SƠ ĐỒ VŨ TRỤ Các cõi trong Vũ Trụ Hồn thể Quả vị Tam Cõi Tối Đại Niết Bàn Chơn Linh với A nậu đa la tam diệu tam bồ đề Cõi Đại Niết Bàn Tam diệu tam bồ đề Cõi Niết Bàn Linh hồn với Kim Thân Phật vị hay Đại giác Kim Tiên Thượng Cửu Cõi Bồ Đề Anh hồn với Pháp Thân Bồ Tát hay Thiên Tiên Cõi Thượng Thiên Nhơn hồn với Cái Trí Địa Tiên Cõi Hạ Thiên Nhơn hồn với cái trí Nhơn Tiên Trung Cõi Trung giới thanh nhẹ Thánh thể với cái Vía thanh nhẹ Thánh vị Cõi Trung giới Chơn thần với Cái Vía bình thường Thần vị Hạ Cõi Phàm Khí thể Thân Tứ Đại với Không khí, Ngũ khí, Hư Vô chi khí, Tam bửu Âm nhơn , các:đồng bóng, ma hiện hình nhờ chất Ether Vật thể : Đất, nước, gió, lửa Phàm nhơn Hai cõi Thái Thanh và Thượng Thanh Thiên rất siêu việt. VŨ TRỤ QUAN VÀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
Từ
ngàn xưa đến nay, các trường
phái triết học và tôn giáo từ đông
sang tây đều có vũ trụquan và nhân sinh quan
riêng mình ; từ đó hình thành lẽ
sống và lối
sống muôn màu muôn vẻ của toàn nhân loại, theo quan điểm phổ thông người ta
thường phân hai chủ thuyết: Thuyết duy
tâm và duy
vật , và từ hai khuynh hướng cực đoan này lịch sử ghi nhận lại chúng
đã pha trộn , cọ sát hình thành nhiều tư
tưởng, các hệ
thống triết
học, tôn giáo khác
nhau, và đã tạo ra các mâu thuẫn nhiều
khi không thể dung hòa và là một
trong nhiều nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến sự kỳ thị, phân biệt đôi khi
dẫn đến những cuộc chiến tranh, thanh trừng thảm
khốc và đẩm máu trên toàn thế giới không
phải chỉ thời cổ đại mà ngay trong thời
kỳ được gọi là văn
minh hiện đại ngày
nay. Vào
giữa thế kỷ 20 , nhà bác học Einstein
đã ăn chay trường
suốt cuộc đời còn lại
của mình và phát biểu :
"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn
giáo vũ trụ,
vượt lên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải
bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn tâm linh, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, xuất phát từ kinh nghiệm tổng
thể gồm mọi phương diệntrên (vật chất và tâm linh) trong cái nhất thể đầy ý nghĩa, Phật giáo đáp ứng đủ các điều kiện ấy”(The
religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend a person
God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual,
it should be based on a religion sence, arising from the experience of all
things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Busdhim answers this
description)-Einstein Testament, và ông nhấn
mạnh: “Nếu có một tôn
giáo thỏa mãn được
những yêu cầu của khoa
học hiện đại, thì tôn giáo đó là Đạo
Phật” –( If there is any religion that would cope with modern scientisfic
needs, it would be Buddhism).-Trích từ ĐẠO PHẬT CÓ PHẢI LÀ TÔN GIÁO HAY KHÔNG? Huyền Chân, PHẬT HỌC CƠ BẢN-Tập 4, trang
311-Nhà xuất bản Tôn giáo-. Năm
2008, Liên hiệp quốc đã
chọn Phật giáo là tôn giáo chính thức của nhân loại và tổ
chức đại hội Vesak tại Việt Nam kỷ niệm
ngày đản sinh Đức Phật Thích Ca … đã đặt
ra những yêu cầu cấp bách trong
việc nghiên cứu và ứng dụng những ý nghĩa thâm sâu mà vũ trụ quan , nhân sinh quan mà Phật giáo đã đem
lại cho các ngành khoa học hiện
đại. A VŨ
TRỤ QUAN PHẬT
GIÁO: Theo quan điểm chúng ta hiện nay, thế giới này gồm có trái đất xoay quanh mặt trời, Thái dương hệ nằm
trong hệ ngân hà, Ngân hà nằm trong hệ Thiên hà và vô số Thiên hà
trongvũ trụ luôn di chuyển và biến dịch và ngành thiên văn học hiện đại đã phát hiện ra số lượng vô cùng lớn “lỗ
đen” trong vũ trụ, được đánh giá là nhiều
hơn thế giới quan sát được. Đó
là “vĩ mô” còn “vi mô” đã có thời
kỳ cùng với việc phát minh ra nguyên tử người ta
tưởng đã tìm được “viên gạch cơ bản của vật chất” ,nhưng các phát hiện hiện đại đã xóa đi
những ảo tưởng này nào
epson, quarks (cái này Bố quên nhiều con bổ xung thêm), phản hạt, không gian nhiều
chiều, “vật chất là năng lượng được
đóng chai”…đã buộc con người phải xét
lại triệt để quan điểm duy vật & thực dụng của
mình. Theo ngành nhiệt động lực học:
“năng lượng toàn vũ trụ không tăng
không giảm mà chỉ biến đổi từ trạng thái này
sang trạng thái khác
(điện năng, hóa năng, nhiệt năng…)”. Các
ngành khoa học khác cũng có những phát hiện vượt ngoài sức tưởng tượng trong đó
đáng chú ý nhất là ngành Tâm lý và Phân tâm học hiện đại, ngoài việc ứng dụng khoa thôi miên vào việc
chữa bệnh, đi sâu vào tiềm thức, vô thức ,các nhà thôi miên và phân tâm học đã đưa
người bệnh trở về ký ức tuổi thơ và “việc
gì đến nó sẽ đến” họ đã đưa người được thôi
miên về kiếp
trước ,các kết quả đã đụng chạm mạnh đến quan niệm “chết là
hết”, Niềm tin vào sự Tái sinh (Rebirth), Luân hồi (Metempsychosis,
samsara-eternal cycle of birth, suffering, death, and rebirth) một thời đã từng
bị nhạo báng, mỉa mai, nay được các
nhà khoa học nghiêm túc xem xét lại và
thuyết Nhân quả (Nhân duyên) không còn
được nhìn với góc độ khô khan duy
vật, theo kiểu tam
đoạn luận (O+H2=H2O)…mà được nhìn lại với góc độ tổng
quát ứng dụng cả với tâm thức & vật chất, nhân quả và luân hồi của đạo Phật đã là cơ
sở căn bản để các nhà
khoa học ứng dụng và triển khai các nghiên cứu của
mình theo nhận thức hiện đại. Những
ai đã từng tìm hiểu về Phật giáo đều
choáng ngợp trước kho tàng Kinh, Luật, Luận …vô cùng phong phú của Đao
Phật và từng có những trình bày khác nhau về Vũ
trụ quan của Phật
giáo, tuy
nhiên “đại đồng tiểu dị”, tất cả đều công nhận “Ứng với hoạt động của tâm thức sẽ có
những thế giới khác nhau
tương thích với nó”, Tổng
hợp từ Kinh Phật, các thiền sư, luận sư (Đức Dalai
Lama)…chúng ta có thể trình bày mô hình thế
giới đó như sau, toàn
bộ thế giới này (Pháp giới chúng sinh) được chia
làm ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Toàn bộ chúng sinh của ba
giới này vẫn phải sinh tử luân hồi,còn
những chúng sinh đã tu luyện đủ công đức sẽ thoát
vòng luân hồi từ Tứ Thánh, quả vị Bồ tát và cho đến khi đạt được sự toàn giác (quả vị Phật)-Chúng
ta cũng cần hiểu rằng chúng sinh theo
nghĩa của Phật giáo không
chỉ riêng con người mà còn
chỉ các chúng hữu tình có tâm thức từ con
virus nhỏ bé đến các Atula(Thần) to lớn che được cả mặt trời, từ hữu hình đến vô
hình, từ địa ngục cho đến cõi trời cao nhất Phi tưởng phi phi tưởng xứ nghĩa
là vô tận, theo Kinh Kim Cang Đức Phật còn có mô tả các loại chúng sinhcó lẽ là chính xác nhất:
"Có tất cả các loài chúng sanh hoặc
loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng thai, hoặc sanh chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có
tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng
có tưởng chẳng không tưởng, ta đều
khiến vào vô dư niết bàn mà
được diệt độ đó…" (Kinh Kim Cang giảng giải- H.T Thích
Thanh Từ),nhưng thông
thường các Phật tử hay gọi sáu cõi luân hồi(Trời,
Atula, người, súc sinh, ngạ quỷ và Địa ngục), chia thành
hai đường: tốt 3 cõi trên và xấu 3 cõi dưới Có
một cách trình bày khác là Dục
giới có 6 cõi, Sắc
giới có 4 tầng (sơ
thiền, nhị
thiền, tam
thiền & tứ
thiền chia ra đến 18 cõi. Cõi Vô sắc giới gồm 4
cõi là Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Cõi Tứ Thánh gồm có: Tư đà hoàn (Nhập lưu,thất lai),Tư đà hàm(Nhất lai),A na hàm (bất lai) và A la hán chia ra
khoảng 17 đến 18 tầng khác nhau, 55 cõi Bồ
tát và vô
số Phật sái (Cõi
Tịnh độ của Phật A-di-đà, cõi Lưu lycủa Lưu ly Quang Vương
Phật, cõi Ta bà của Đức Phật Thích ca …) Nay
ta sẽ điểm qua các thế giới mà các chúng sinh sẽ sống tương ứng với tâm thức của mình
và cũng cần nói rõ theo quan điểm đạo Phật các chúng sinh theo kết quả của nghiệpmình
đã tạo mà sinh ra trong các thế
giới theo bốn cách khác nhau: sinh từ trứng gọi là noãn sinh, từ bào thai gọi thai sinh,
từ ẩm ướt tăm tối sinh ra gọi là thấp sinh và do biến hóa sinh ra
gọi là hóa sinh, Tam hữu hay còn
gọi là Tam giới được
trình bày như sau: I/- DỤC
GIỚI: Chúng sinh trong
cõi này chưa đoạn được ái dục gồm sáu
cõi: Các chúng sinh do tu thiền định mới
đạt cảnh giới này, chúng sinh trong
cõi này do Hóa sinh mà thành tựu, vẫn còn mang
hình dạng thân người, kết cấu được Mật
tông miêu tảbằng Tứ đại vi tế (Bốn chủng tử Đất,
Nước, Gió, Lửa vi tế), gồm 04 bậc chia
18 cõi khác như sau: a/-Sơ thiền: (Ly
sinh hỷ lạc địa) có các cõi: b/-Nhị thiền: (Định sinh hỷ lạc địa) c/- Tam thiền:
(Ly hỷ diệu lạc địa) d/- Tứ
thiền: (Xả
niệm thanh tịnh địa) a/- Vô phiền thiên. III/- VÔ
SẮC GIỚI: 1/- Không vô biên xứ. Ngoài ra, theo Kinh Lăng Nghiêm còn liệt kê mười dạng
Tiên (72 động, ba mươi sáu đảo),gồm
có: 1/- Địa hành Tiên. Những chúng sinh tu Tiên thường xa
lánh sự ồn ào náo nhiệt, ưa thích nơi thanh vắng yên
tĩnh để "Thanh tâm, quả dục", nhằm từng bước đoạn diệt "Thất
tình, lục dục", "Luyện Tinh hóa khí, luyện khí hóa Thần, luyện thần
hòan Hư", khi thành công có
những hiệu quả phi thường tùy theo pháp môn đã chọn,
những vị tu theo Đạo Lão, Yogi có thể
liệt trong dạng này, theo nhận định nhà
Phật những chúng sinh này gần gủi Đạo Phật nhất. Mật
tông Tây Tạng còn liệt kê và xem
trọng một cõi nữa là cõi Trung giới hay còn gọi là Cõi Âm, nơi chuyển tiếp các tâm thức sau khi
thác và trước khi tái sinh vào các
cõi nêu trên. Tóm
tắt vũ trụ quan Phật giáo: “Thế giới này
có nhiều chiều không gian khác
nhau, các chiều không gian đó tương ứng với kết quả hành động
(thân, khẩu ý) của từng cá nhân (biệt nghiệp), tập thể (cộng nghiệp)
; và chủ yếu là từng tâm thức của
cácchúng sinh, loài người của chúng ta là một trong những cõi
đó, mỗi cõi đều có những quy luật, định luật khác nhau nếu nói
theo ngôn ngữ hiện đại, thế giới chúng ta nhận thức hiện tại bằng các giác quan(lục nhập:nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân
và ý) hoặc bằng trợ lực của
máy móc thiết bị hiện đại…kính thiên văn, hiển vi,gia tốc …chỉ là những kiến thức “người mù sờ voi”" Có
một cách trình bày khác về vũ
trụ có thể nói thuần vật
chất; theo Kinh Phật đã phân loại các thế giới thành ba
loại: Tiểu thiên thế giới, Trung thiên thế giới và Đại thiên thế giới (cần
nói rõ chữ thiên ở đây hàm nghĩa số ngàn, không phải nghĩa trời) và vũ trụ có vô số vô biêncác Đại thiên thế giới, thế giới theo
nghĩa này chỉ một thiên thể, một ngàn thiên thể là Tiểu thiên thế giới,
một ngàn Tiểu thiên thế giới là Trung thiên thế giới,
một ngàn Trung thiên thế giới là Đại thiên thế giới. Như
vậy Tiểu thiên gồm 1000 thiên thể, Trung thiên một
triệu và Đại thiên là một
tỷ. Có
người lại đặt vấn đề thế giới là một
thiên hà vậy Tiểu thiên một ngàn Thiên hà, Trung
thiên một triệu Thiên hà và Đại thiên một tỷ.
Các cách trình bày này có phần hơi cực
đoan, có lẽ cách trình bày của Bồ tát Phổ hiền trong Kinh Hoa Nghiêm là
gần gũi với kiến thứcngành thiên văn học hiện đại nhất: Và
trong phẩm "Hoa tạng thế giới" chúng
ta sẽ xem
lại các đoạn kinh văn sau: "Chư Phật tử! Tất cả thế giới chủng đó hình trạng
đều khác nhau: hoặc hình núi Tu di...
hoặc hình nước xoáy... hoặc hình trục xe... hoặc hình hoa sen..., có vô số vi trần hình trạng như vậy" So
sánh với hình trạng các chòm sao, các giải thiên hà, ngân hà mà
khoa học khám phágần đây người ta nhận thấy hình
dạng giống một cách lạ lùng theo mô
tả trên, thí
dụ hình bánh xe, nước xoáy đã quan sát được
trong các chòm sao: Cetus, Pegasus và Hercules, hình sông là giải ngân hà
(Milky) và trong nhiều thiên hà khác; hình dạng hoa là những khối tinh vân trong không gian Liên
thiên hà (intergalatic clouds of gas)... .-Trích từ PHẬT GIÁOTRONG THỜI ĐẠI KHOA HỌC- Trần Chung
Ngọc, PHẬT HỌC CƠ
BẢN-Tập 4, trang 322,323,324-Nhà xuất bản Tôn giáo- Như
vậy ta không thể biết thiên hà chúng
ta hình dạng gì, vì với khả năng hiện tại tàu vũ trụchưa thể bay ra
ngoài thiên hà này quan sát vì bay từ
đầu thiên hà này sang bên khác phải mất hàng triệu năm ánh sáng, nhưng có một mô tả khác trong
Kinh Phật: Cõi Ta bà "ngũ
trược ác thế" này có hình dạng núi
Tu di, Phía Bắc có Bắc
câu lô châu, nam có Nam
thiênbộ châu, đông có Đông
thắng thần châu và tây có Tây ngưu hóa châu. Hình
dạng Thiên hà chúng ta có dạng
núi Tu-di một ý niệm đầy cảm hứng và dĩ nhiên còn chờ
sự xác nhận của ngành Thiên văn học. Đó
là nói về không gian còn thời gian theo các
nhà khoa học: " Thời gian là
sự vận độngcủa vật chất" và một năm tính
theo chu kỳ trái đất quay đúng một vòng xung
quanh mặt
trời, như vậy thời
gian của các thiên
thể, ngân hà và thiên hà sẽ có những cách tính sai biệt rất
lớn, vào thế kỷ 20 những phát hiện của nhà bác
học lỗi lạc Einstein
đã làm lung lay quan niệm phân chia không và thời gian một cách
cơ học bằng công thức nổi tiếng E=mc2 ,
đã thiết lập mối
tương quan mật thiết giữa năng lượng, vật chất và tốc độ
(x/t) cũng có nghĩa là quan hệ chặt chẽ với thời
gian, với c là tốc độ ánh sáng được tính tròn
300.000km/giây, một quan niệm mới ra
đời với Hệ Không-Thời gian bốn chiều, khối lượng vật
chất thay đổi khi tốc độ hay thời gian thay
đổi, và tại sao không? dĩ nhiên đã có không gian bốn
chiều thì sẽ có thể có nhiều chiều không
gian khác nhau mà các nhà khoa học đang miệt mài khám phá...! Phật
giáo thì sao? đã có phân loại như sau: Tiểu kiếp có
16.800.000 năm, Trung kiếp có 336
triệu năm, Đại kiếp có một tỷ
334 triệu năm. Theo nhà Phật vũ
trụ này luôn trải
qua các thời
kỳ sau: Thành nghĩa là sự bắt đầu hình thành vũ trụ tương đương
vụ nổ Big Bang nếu nói theo ngôn
ngữ hiện đại, Trụ nghĩa các
thiên hà, ngân hà và trái đất mới hình thành và là nơi cho các chúng sinh với muôn vàn sai biệt xuất hiện theo luật nhân quả, luân hồi và tiến hóa, Hoại nghĩa là vũ trụ đã già cỗi
và chúng sinh cũng đi vào thời kỳ nhà Phật
gọi là "Mạt Pháp", Không nghĩa là vũ
trụ sụp đổ tương đương thời mặt trời đã phóng
hết năng lượngvật chất của mình
và "lỗ đen" xuất hiện, còn chúng sinh đi vào thời kỳ Ki tô giáo
gọi là tận thế. Nhà
Phật cũng thường diễn đạt không gian bằng
các câu "mười phương chư Phật" trong đó mười phương có
nghĩa tám hướng cộng phương trên và phương dưới là mười phương, thật là
một cách diễn đạt không gian chính xác không
bắt bẻ vào đâu được dù đối tượng khảo sát tọa vị tại bất cứ điểm nào trong vũ trụ, còn "quá
khứ, hiện tại. vị lai" diễn tả tình trạng "vô
thủy, vô chung" của thời gian tương
đương -∞ đến +∞ trên trục thời gian toán
học hiện đại, hiện tại được phật tử quan niệm bao gồm một nửa là quá khứ và một nửa
là tương lai... Có
một cách diễn đạt thời gian khác,
nhất là Thiền và Mật tông, thời gian là một tiểu niệmtương đương
một Sát-na, và cũng tuân theo quy luật Thành,
Trụ, Hoại, Không nhưng với tốc độ cực nhanh trong tâm thức của mỗi chúng sinh, có thể ví như những sóng
của điện não đồ, điều này không phải mơ
hồ, thực tế có những
người "Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại",
có những người ngồi cạnh người yêu "Thời gian sao qua nhanh thế",
hoặc trong khoa học độ dài được xác định bằng bước sóng... vvv và vvv. Theo
Luật Tăng Kỳ thì:
" Một khảy móng tay có 20 cái nháy mắt, một
nháy mắt có 20 đại niệm, một đại niệm có 90 tiểu niệm(sát na)", tức là một khảy
móng tay có 36.000 sát na đã trôi qua. Với quan niệm thời gian là
niệm(Sát-na) của tâm thức thì cùng
với mô hình không-thời bốn chiều với mối liên
quan giữa năng
lượng, vật
chất và tốc độ(Thời
gian) đã biến
đổi thành mối quan hệ mới và ta có thể nói là quan hệ
giữa năng lượng, vật chất và tâm thức đã được thiết lập, điều này mới
có thể lý giải vì sao có những chúng
sinh tu luyện đạt
các khả năng phải nói là phi thường, ngoài sức
tưởng tượng (thần thông) không phải
chỉ trong Kinh sách mà ngay trong thời hiện
tại có người nhập
định không ăn không uống trong một thời gian dài,
hoặc có những người phủ đầy nước đá vẫn không hề hấn gì ..., nhận định này rất
quan trọng- xin nhấn mạnh- vì nó sẽ là căn cứ để giải
thích các phần sau. Và toàn bộ vũ trụ này, theo Kinh Lăng Nghiêm chỉ là
"Bọt nước trong biển lớn" xin trích nguyên văn: "Một phen lầm
cái tướng ấy làm tâm thì quyết định lầm cho
tâm ở trong sắc thân, mà không biết
rằng cho đến núi sông, hư không, đất liền bên ngoài
đều là những vật hiện trong tâm
tính; ví
như bỏ cả trăm nghìn biển lớn trong lặng, chỉ nhận
cái bọt nước rồi cho nó là toàn hết cả nước, cùng tột biển lớn ...", (Trang..., KINH LĂNG NGHIÊM- Tâm Minh dịch-Nhà xuất bản Tp
HCM), hoặc "Nên biết, hư
không sinh ra ở trong tâm ông cũng như chút mây điểm
trên vùng trời, huống là các thế
giới ở trong hư
không..." (Trang752, KINH
LĂNG NGHIÊM- Tâm Minh dịch-Nhà
xuất bản Tp HCM). Hoặc
theo Kinh Viên Giác chỉ là
"hoa đốm" trong hư không và
trong Kinh Kim Cương Đức Phật xác định: "Nhất thiết hữu
vi Pháp. "Tất cả pháp hữu vi . -Trích từ KINH KIM CANG Giảng giải- H.T Thích Thanh
Từ,trang 247,248 -Nhà xuất bản Tp Hồ Chí Minh- Pháp
hữu vi ở đây có thể hiểu là toàn
bộ thế giới (Tam
cõi), bao gồm cả vật chất và tâm thức, hữu hình và vô
hình còn trong cõi luân hồi. Những bí ẩn của vũ trụ là vô tận so với khả
năng và giới hạn của chúng ta, và vũ trụ này “vô tận
cả về chiều sâu lẫn chiều rộng” theo cách diễn
đạt của chủ
nghĩa duy
vật biện chứng và vũ trụ này luôn
dịch chuyển theo Kinh Dịch -một bộ
sách cổ Trung quốc được
các nhà khoa học ca ngợi là công thức của vũ trụ, và Lão tử một triết gia cổ đại Trung quốcđã khẳng định
trong Đạo đức Kinh: Vô danh Thiên Địa chi thủy. B/- NHÂN
SINH QUAN PHẬT
GIÁO: "Chư Phật tử! Nên biết rằng Thế giới hải có Thế giới hải vi trần số kiếp trụ, hoặc có A-
tăng-kỳ kiếp trụ, hoặc có vô lượng kiếp trụ,
hoặc có vô biên kiếp
trụ, hoặc có vô đẳng kiếp
trụ, hoặc có bất khả sổ kiếp trụ, hoặc có bất khả xưng kiếp trụ, hoặc có
bất khả tư kiếp trụ, hoặc có bất khả lượng kiếp trụ, hoặc có bất thuyết kiếp trụ ..., có vi trần số kiếp trụ như vậy".(Trang
323,PHẬT GIÁO TRONG THỜI ĐẠI KHOA HỌC,
Trần Chung Ngọc, PHẬT HỌC CƠ BẢN
-Nhà xuất bản Tôn Giáo- - Lạc xoa = 100.000
= 105 Và
cứ tiếp tục như vậy
là 123 lần, theo cách tính của các nhà khoa học, nếu chỉ Và
Ngài đã giải thích: "Hoặc
chỉ một kiếp hoặc vô số, bởi những tâm nguyện đều
chẳng đồng", Rõ ràng "...bởi
những tâm nguyện chẳng
đồng" đã có nhiều "Thế giới hải" tương thích với nó xuất hiện, với vũ trụ quan đã
trình bày, con người có nhiều
lộ trình để tiếp tục đi sau
khi thác, là con người dù tâm thức cực ác,
ai cũng mong muốn điều tốt đẹp đến với
mình, căn cứ bản đồ vũ trụ quan ta nhận ra rằng nhân loại nằm
trong cõi Dục giới (Thiên, A-tu-la, Nhân, Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục), Theo Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã chỉ
khái quát quá trình phát triển tâm
thức chúng sinh như
sau: (Tưởng có thể hiểu là lý
tưởng và quá trình vô
ngã là mục
tiêu cao nhất của lý
tưởng con
người, Tình có thể hiểu là chấp
ngã hay ái
dục mỗi cá
nhân). "1/-
Thuần là Tưởng bay lên sinh cõi
trời, nếu tâm gồm
có phúc đức trí tuệ cùng với
tịnh nguyện, tư nhiên tâm khai ngộ thấy
tất cả tịnh độ thập phương chư
Phật, theo nguyện vãng sinh.(Chư Thiên, Cõi Tịnh độ...) 2/- Tình
ít, tưởng nhiều, cất lên không xa làm phi Tiên, đại
lực Quỷ Vương, phi
hành Dạ xoa, địa hành La-sát, đi khắp bốn cõi trời, không bị ngăn
ngại. Nếu nguyện, tâm tốt, hộ
trì Phật pháp, hộ
trì cấm giới, theo người trì giới, hộ trì thần chú, hộ trì thiền định, giữ yên Pháp nhẫn, thì những
hạng đó, chính mình được ở dưới pháp tọa Như
lai.(Atula) 3/-
Tình và tưởng cân nhau, không bay lên, không đọa xuống, thì sinh nơi nhân gian; tưởngsáng suốt nên thông minh, tình u ám nên ngu độn. 4/-
Tình nhiều, tưởng ít, đi vào các loại hoành
sinh, nặng làm giống có lông, nhẹ làm giống có cánh (Súc
sinh). 5/-
Bảy phần tình, ba phần tưởng, chìm xuống dưới thủy
luân, sinh nơi mê hỏa
luân chịu khí phần của lửa hồng, thân làm Ngạ quỷ, thường bị đốt
cháy, vì nước có thể hại mình, nên trải trăm nghìn kiếp không ăn, không uống(Ngạ Quỷ). 6/-
Chín phần tình, một phần tưởng, xuống thấu qua hỏa
luân, và giữa giao giới phong
luânvà hỏa
luân, nhẹ thì sinh vào hữu
gián, nặng thì sinh vào vô
gián (Địa
ngục). 7/-
Thuần là tình, chìm sâu vào ngục A-tỳ; nếu trong tâm chìm sâu đó, lại có hủy
báng Đại thừa, phá cấm giới của Phật,
lừa dối nói Pháp để tham cầu tín
thí, lạm nhận cung
kính hoặc phạm ngũ
nghịch, thập trọng thì lại còn sinh vào địa ngục A-tỳ thập phương. (ở ngục A-
tỳ này nếu thiên hà sụp đổ, lại có thiên hà khác thành
lập và một A-tỳ khác dành chỗ cho các chúng sinh này cho đến khi hết
nghiệp tái sinh lại cõi giới khác)".
(Trang 697,688,689- KINH LĂNG NGHIÊM- Tâm Minh
dịch-Nhà xuất bản Tp HCM) I/- Cõi Nhân: Những chúng sinh thọ Tam quy(Phật,Pháp,Tăng); trì ngũ giới(sát, đạo,vọng,
dâm, nghiện ngập) sẽ tái sinh cõi người, dĩ nhiên còn nhiều
nhân khác quyết định từ hình
dạng(thân, khẩu, ý hoặc tốt hoặc xấu) bao
gồm Thân: đẹp, xấu; Khẩu: tiếng nói dịu dàng, thanh tao, sư tử hống hoặc Phạm âm;Ý có thể thông minh hoặc
ngu dốt, và còn những nhân quả khác quyết định nơi
chốn sinh ra từ gia đình(giàu,nghèo), đô thị hay thôn
quê, rừng núi, từ dân tộc cho đến quốc gia, và từ trái
đất thậm chí ngân hà hoặc thiên hà nếu hiểu theo nghĩa
baoquát. Có
một cách trình bày khác Thiện, ác khác: 1/-
Thân: có ba không sát (giết hại chúng
sinh), đạo (trộm
cắp), dâm (tà
dâm) là thiện, ngược lại là ác. 2/-
Khẩu có bốn không vọng ngữ (nói dối...), hai lưỡi
(đâm thọc ...), ác khẩu (nói với ý địnhnão hại chúng sinh...), ỷ ngữ (nói thêu dệt, nhằm mục đích hại người
lợi mình...) 3/-
Ý : cũng có ba không tham (ái dục), sân (nóng
giận) và si (tà kiến: chết là hết,
không lo tu mong có vị thần toàn
năng cứu rỗi...) là thiện, ngược là ác. (Trang 164, TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH trong PHẬT TỔ NGŨ KINH-
HT Thích Hoàn Quan-Nhà xuất bản Tp HCM). IV/- Cõi Thánh (A-La-Hán):(Thanh văn thừa trước
đây còn gọi là Tiểu thừa nghĩa là
cổ xe nhỏ) Những chúng sinh đi theo lộ trình
này lấy mục tiêu giác ngộ bản thân là chủ
yếu, có bốn quả vị là: Nhập lưu(Dự lưu, Nghịch lưu) hay còn gọi
thất lai nghĩa là tái sinh bảy lần
nữa(Tu đà hoàn), Nhất lai tái sinh một lần nữa(Tư đà hàm), Bất hoàn (A na hàm) không tái sinh thiết lập chỗ ở cõi trời cao nhất
(cõi 19) của sắc giới để tu luyện, A la Hán (Vô sanh, Sát tặc, Ứng cúng) là
"những vị có thể phi hành biến hóa, mạng sống lâu dài, an trụ ở đời
động cả trời đất" (Trang 143, TỨ
THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH trong PHẬT TỔ NGŨ KINH-
HT Thích Hoàn Quan-Nhà xuất bản Tp HCM) Nền
tảng căn bản đạo lộ này
lấy Tứ Diệu Đế(Khổ, Tập,
Diệt, Đạo) mà các nhà nghiên cứuphương Tây
thường gọi là Tứ Thánh Đế làm đề mục căn bản, pháp môn tu tổng
quát gồm 37 được gọi là ba mươi bảy phẩm trợ Đạo Bồ đề, trong đó Bát chánh Đạo và ngũ lực.chiếm vị trí quan trọng,
theo Đức Đạt-lai Lạt-ma trong buổi thuyết
giảng tại trường Đại
Học Havard tháng 8 năm 1981, có khoảng 17 đến 18 cõi
dành cho Đạo lộ này. Ba
mươi bảy phẩm trợ Đạo Bồ
Đề chia bảy nhóm: 1/- Tứ niệm xứ: nghĩ bốn
đối tượng quan trọng thân, thọ, tâm và pháp. 2/- Tứ chánh cần: 3/- Tứ như ý túc: 4/- Thất giác chi: Bảy món giác ngộ 5/- Ngũ căn: Gồm có Tín, Tấn,
Niệm, Định, Huệ. 6/- Ngũ Lực: Tức là Ngũ căn, nhưng đứng về phương diện tu hành đối trị 7/- Bát chánh Đạo: Tám con đường chân
chánh, cũng gọi là Bát thánh đạo. V/-Cõi Bồ
Tát, Độc giác: (Duyên giác, Bích chi Phật) - Duyên giác: Ra đời gặp
Phật dạy, quán 12 nhân duyên mà được ngộ đạo. Những chúng sinh tu theo
Đạo lộ này, lấy mục đích "Tự
giác, Giác tha" nghĩa là tu
tập đạt giác
ngộ và phát đại
nguyện cứu giúp chúng
sinh, pháp
môn tu thường được gọi là Thập nhị nhân duyên gốm
có: Nghiên
cứu sâu xa hơn, những chúng sinh tu hành Bồ Tát đạo còn lấy
sáu pháp Ba la mậtđa làm tôn chỉ: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, theo Kinh Lăng nghiêm các
vị này lần lượt tu đạt 55 quả vị sau: 1/- Càn
tuệ địa: 2/- Thập
tín: 3/- Thập
trụ: 4/- Thập
hạnh: 5/- Thập
hồi hướng: 6/- Tứ
gia hạnh: 10/- Thập
địa: 11/- Đẳng
giác: Đồng giác
tính bình đẳng với Như lai. Các
Đạo lộ trên đây cũng được gọi là ngũ
thừa Phật giáo: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Bồ tát thừa và Độc giác. Với
người xuất gia chỉ có tam thừa: Thanh văn, Độc giác và Bồ tát. Tại
sao cùng với một tâm đó mà chúng
sinh có quá nhiều hình trạng và thế giới khác nhau
như vậy?, theo quan điểm nhà
Phật, Điểm Linh quang(theo cách
nói của Mật Tông) hayPhật tánh hoặc Tâm thức bắt đầu chấp ngã, mà Kinh Viên Giác gọi là Vô minh, thì với Tâm thức đó không gian được thành lập và Tâm
hay thức phàm tình xuất hiện, một khi đã chấp ngã thì theo Kinh Kim Cang sẽ
chấp Nhân, chấp Chúng sinh và chấp Thọ mạng, từ
đó "thế giới hải" cũng thành
lập. Kinh Viên giác xác định
rất rõ chấp ngã chính là vô minh, và chấp ngã nghĩa là
nhận thân tứ đại và tâm
đang suy nghĩ(tâm phàm tình) chính là
mình(KINH VIÊN GIÁC Giảng Giải, Trang 22;23, HT Thích Thanh Từ, Nhà xuất bản
Tôn Giáo) , từ chấp
Ngã thì tất nhiên đối cảnh sinh tình, cái gì hợp thì
yêu thích..., ngược lại thì ghét bỏ..., và đối tượng của chấp ngã chính là
người(nhân) và mọi người(chúng sinh), và còn chấp thọ mạng(thời gian) nghĩa là
phải có khởi đầu và có kết thúc. Từ đó con người đến một
lúc nào đó tuyệt vọng như
trong tác phẩm Hiệp
khách hành: "Ta là ai, ta từ đâu tới và sẽ đi về đâu?" của Kim dungTiên sinh, cũng là câu
hỏi trăn trở ngàn đời của nhân loại. "Tâm
viên, ý mã", điều này khoa học và Đạo
Phật đồng qui tại một điểm, tư tưởng chúng taluôn biến động liên tục, nó làm chúng ta tiêu ma hết năng
lương, có thể nói kết cấu suy tư chúng
ta là âm
thanh và hình
tượng, ai sử
dụng ngôn ngữ nào
thì cũng suy nghĩ theo âm thanh ngôn ngữ đó, các hình ảnh của quá khứ, hiện tại và vị lai liên tục xuất hiện trong bộ
óc chúng ta, ai chấp ngã càng nặng
thì khi lục căn(nhãn, nhĩ, tỉ,
thiệt, thân và ý) tiếp xúcsáu trần(sắc, thinh,
hương, vị, xúc và pháp) thì hỉ, nộ, ái, ố, bi, ai, sầu, cụ; thể hiện tình cảm con người cũng xuất hiện, từ đó thông
qua khẩu và thân chúng ta tạo
nghiệp(tiếng Phạn gọi là Kama). Nó là nguyên
nhân lôi kéo chúng
sinh vào sinh
tử, luân hồi. Ngành Tâm lý học chúng ta thường
phân ra: lý trí, tình cảm và ý chí, và Phân tâm học cònnghiên cứu thêm về Tiềm thức, Vô thức. Trong Đạo Phật có ngành Duy Thức học, tương
truyền Đức Phật vị lai là Đức Di lặc và Duy Thức học sẽ là pháp môn chủ yếu
của ngài, như tên gọi pháp môn này chú
trọng về tâm, theo Duy thức tam thập tụng của
ngài Thế thân thì tâm
có Thức A-lại-da(Tàng thức) tương đương Tiềm thức hay Vô thức, theo nhà Phật
thức này chứa đủ các việc thiện, ác và vô ký(không thiện,
không ác) của chúng sinhtừ vô thủy; Mạt-na thức tương
đương tình cảm, ý chí; ý thức tương đương lý trí ngoài racòn có các thức
khác là Nhãn thức(do mắt tiếp xúc đối tượng
sinh ý thức), Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức và Thân thức, tổng cộng là bát thức. Nhà Phật xác
định tuy nhiều Thức như vậy nhưng cùng một Tâm sinh ra, chia ra như vậy tùy vào công năng của
chúng. Theo
nhà Phật khi Tâm càng lúc càng định thì Trí
huệ, Từ bi và năng lực(thần thông) càng phát
triển để đạt điều đó, nghiên cứu sâu vào
các pháp môn chủ yếu
hiện nay: Tịnh độ tông(Trì Kinh
là chủ yếu, Thiền tông (Thiền định là chủ
yếu) và Mật tông (Thiền, trì chú ...) ta nhận thấy các Bậc
thầy đã áp dụng quy luật phản xạ
có điều kiện cho chúng sinh tu tập: Tịnh thì miệng tụng kinh, tai nghe
thân thúc liễm. Thiền thì Chỉ(cột tư
tưởng vào đề tài) và Quán (luôn quán sát đối
tượng, chẳng hạn quán thân bất tịnh...). Mật tông (Thiền,
tay bắt ấn, miệng trì chú...), cho đến khi Tâm đã trở thành phản xạ
vô điều kiện hay nói cách khác
Tâm tự nhiên và trải qua các trạng thái tâm của Sắc giới(Ly sinh hỷ lạc, Định sinh hỷ lạc, Ly hỷ sinh diệu lạc và Xả niệm thanh tịnh địa),
từ đó tiến tiếp trạng thái tâm của
bốn quả vịThánh, 55 quả vị Bồ tát hướng đến
tâm Viên giác và quả vị Phật. Có
người ví von người tu phải luyện tâm như luyện thân
thể hàng ngày để sức
khỏe của Thân, Tâm ngày càng tráng kiện. Trong
nhà Phật còn quan điểm có 3 lực
: Tự lực( Tự thân tu luyện), Tha lực(Sự trơ lực các
vị Phật, Bồt tát, Thánh) và Phương
tiện lực(năng
lực vũ trụ thông qua âm thanh, ấn quyết, các Mạn đà la...), và chúng ta thấy rằng
trong Tịnh vẫn có Mật, Thiền
và các Pháp mônkhác cũng tương tự, nghĩa là tổng
hợp và trong đó chú trọng Tự lực,
"Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi"."Chiến thắng vạn quân
không bằng chiến thắng chính mình, chiến thắng chính mình là chiến công oanh
liệt nhất". Và dĩ nhiện Phật
tổ là con
người đã chiến thắng chính mình oanh liệt nhất!. Cần
nói rõ hơn về Chú trong nhà Phật, những ai có kinh
nghiệm cuộc
đời đều công
nhậnbùa phép là có thật, dĩ
nhiên chúng
ta chỉ chứng
kiến dạng bùa phép nhảm
nhí, Đạo Phậtcấm tu luyện thần thông, mà chú
trọng tu đạt Trí huệ Vô ngã(Bát nhã), phát triển Bồ đề tâm(Bodhi Citta)
còn các năng lực khác sẽ
tự nhiện đạt đươc theo mỗi cảnh
giới thực chứng. Quả thật một người chấp ngã nặng nề
mà nắm quyền lực thì khác
gì con nít cầm súng đạn. Là Phật tử ai cũng
biết thần chú Đại Bi của ngài Quán Thế Âm: Án Ma Ni Bát Di Hồng được
phiên âm từ Hán tự Trung quốc, mà âm Trung quốc này lại
được phiên âm từ tiếng Phạn:OM MANI PADME HUM do
đó phát qua âm tiếng Việt hơi sai lệch, "sáu âm này tịnh hóa tất cả sáu phiền não gốc,
biểu hiện của vô minh khiến chúng ta làm những ác nghiệp của
thân, khẩu và ý tạo ra luân hồi, sinh tử trong đó: Kiêu mạn, ganh tị, dục vọng, ngu si, thèm khátvà giận dữ, nhờ thần chú này mà
được chuyển hóa về bản chất thực của
chúng, trí giác của sáu bộ tộc Phật thể
hiện trong tâm
giác ngộ" . Tương
tự Kinh Lăng Nghiêm: "Mầu
nhiệm thay là âm thanh siêu việt của Quán Thế Âm, Đấy là âm thanh tối sơ
của vũ trụ... Đó là tiếng thì thầm âm ỉ của
thủy triều trầm lắng. Tiếng nhiệm mầu ấy đem lại giải
thoát bình
an cho tất cả chúng
hữu tình đang kêu
cứu trong cơn đau
khổ, và đem lại một sự an
trú thanh tịnh cho tất
cả những ai đang tìm sự thanh tịnh vô biên của Niết
bàn". (Trang 444,445,446 TỬ THƯ TÂY TẠNG,quyển 2, Sogyal Riponche, Trí Hải dịch) Tại
sao Chú lại có hiệu lực như vậy,
theo các Đại sư Ấn độ, tiếng
Phạn(Sancrit) được các vị có công
phu tu tập tạo ra theo hình tượng các
Luân xa và âm thanh rung động của nó,
do đó khi trì Chú âm thanh từ miệng
và tâm thức sẽ rung
theo khiến các Luân xa khai mở tiếp
nhận những năng
lực mà âm Chú đó đem lại nhằm kết nối Tiểu ngã với Đại ngã của vũ trụ. Chúng ta cũng nhận thấy tiếng và
chữ Trung quốc chỉ
tượng hình và tượng thanh trong bộ óc chúng
ta và tiếng La tinh chỉ tượng thanh kèm theo ý nghĩa, rõ ràng chữ Phạn
căn cứ trên kết cấu vi tế nhất của con người nên công năng đặc biệt khi sử dụng và làm chủ
nó sẽ là điều tất nhiên. Có
một qui trình nghiêm ngặt mà người Phật
tử khi tu
tập dù bất cứ pháp
môn nào phải thực
hiện qua Ba giai đoạn chủ yếu: Tu tập(hoặc làm phước), hồi hướng và quán Không, điều này
trong Tử Thư Tây Tạng (Sogyal Riponche, Trí hải dịch)
ngài Longchenpa Riponche mô tả là:
"trái tim, con mắt và sức sống của sự thực
hành chân chính" và Nyoshul Khenpo: "Muốn
đạt toàn giác, nhiều hơn
thế thì dư, mà ít hơn thì thiếu", Phật
giáo Việt Nam còn bổ xung thêm phần Chú Đại Bi của
ngài Quán Âm trước thời kỳ tu tập nhằm phát
triển Tâm bi, càng làm phong phú quá
trình tu tập trên. trên
bước đường tiến hóa Tâm linh mỗi người
phải tự lựa chọn các pháp môn phù hợp căn cơ của mình. Để
hiểu điều này chúng ta sẽ tìm hiểu về hồi hướng, theo Kinh Kim cương đại thừa khởi tín luận và
bài giảng của Đức Đạt lai lạt ma tại
Havard, khi hồi hướng thì 6
đến 7/10 công đứcthực hiện được sẽ chuyển hóa đến chúng sinh, có lẽ đây
cũng là quy luật vũ trụ, nếu khôngcó quy luật này chúng sinh sẽ mãi
ân ân, oán oán không thể giải nghiệp thoát vòng luân
hồisinh tử.
Nhà Phật còn phân biệt công đức do tu tập mà có(hướng
nội), còn phước đức do : bố thí, tế bần, ....mà có(hướng
ngoại) trong đó chú trọng phần tu
tập, phần này Lục
tổ Huệ Năng đã giải
thích rõ trong tác
phẩm Kinh điển --Pháp
Đàn Bảo Kinh.- , nổi tiếng với pháp môn Thiền Đông Sơn, chú trọng Đốn ngộ với câu
nói nổi tiếng: "Bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật" . Tại
sao phải quán Không? rõ ràng; ai hồi hướng?
Ta . Ai nhận hồi hướng? Chúng sinh. còn chấp ngã là còn luân hồi, do đó Kinh Lăng Nghiêm vẫn liệt kê Bồ tát vào ngũ ấm dù đại nguyện các
ngài vô cùng to lớn. Ai
độ ai! Ta ! rõ ràng chấp ngã dù vi tế vẫn chưa đạt chân lý rốt ráo. Không ở đây
không phải là không có gì mà là Tánh
Không theo tinh
thần Kinh Bát
nhã, thậm chí những ai tu theo pháp môn: Cho và Nhận
(Tonglen), nghĩa là nhận tất cả đau
khổ của chúng
sinh và cho đi tất cả công và phước đức của
mình, có người còn gọi pháp môn này là pháp môn của Chúa,
Ai cho; ai nhận? Ta và chúng sinh ! vẫn
là chấp ngã do đó sau
khi tu tập các pháp môn đó, phải
hướng tiến trình tâm đến giai đoạn quán
Không nhằm phát huy Trí
tuệ vô ngã. Tạm chấm dứt phần nhân sinh quan tại
đây để chúng ta có thể đi
tự định hướng cho mình và cho các ngành khoa học, dĩ nhiện có ngành Sinh học, nếu không có người
quá sốt ruột!!!!!!! Theo
Kinh Bát Nhã, có ngũ Ấm: Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức chia làm hai nhóm: 1/
Sắc: 2/- Thọ, tưởng, hành, thức - Thái cực (Âm,Dương): (a +
b)0 = 1 Các sách tham khảo: - Kinh Kim Cang giảng giải HT Thích Thanh Từ, Nhà XB Tôn Giáo.
Thanh
Thiên
Le plan Nirwana
Cõi nầy làm bằng Đệ nhất nguyên tử hay
Hư Vô chi Khí (Prana = TAO = Huyền Khí) hay Nguyên tử của Thái Cực
Kim Thân
giới
Le plan mental
Trùng
Thiên
Le plan mental supérieur
Le corps mental
Le plan mental inferieur
giới
Le Plan astral
(Cõi Sáng)
Le plan astral
giới hay Cõi Phàm trần
Le plan physique
Cõi vật chất hữu hình
Muốn biết rõ quả vị, xin xem bài luận về "Kiếp luân hồi" cuốn khác,
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU MỚI TRONG NGÀNH SINH HỌC
Liên Thanh Sưu Tập
1/- Cõi Thiên: gồm 6 bậc nữa khác nhau thường gọi
là lục dục thiên được
diễn
đạt bằng các từ dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán:
- Tứ Thiên vương Thiên.
- Tam thập tam Thiên.(Đao lợi Thiên)
- Tu diệm ma Thiên. - Đâu
xuất Đà Thiên.
- Lạc biến Hóa Thiên.
- Tha hóa tự tại Thiên.
2/- Cõi Atula: gồm bốn giống:
- Từ trứng sinh ra, Thuộc loài quỷ.
- Từ thai sinh ra,
thuộc loài người đã lên cõi trời nhưng đức
kém
phải sa đọa.
- Từ biến hóa sinh ra,
thuộc về loài trời.
- Từ thấp khí sinh ra, thuộc về loài súc
sinh.
3/- Cõi Nhân(Người):
4/- Cõi Súc vật:
5/- Cõi Ngạ quỷ:
6/- Cõi Địa ngục:
Theo Kinh Lăng Nghiêm mô tả khái quát có
: Nặng nhất có Ngục A-Tỳ, 8 Địa
ngục vô gián, Địa
ngục hữu gián, Thập bát địa ngục(10),
Tam thập lục địa(36)
ngục,nhất bách linh bát địa ngục(108),
còn Kinh Địa Tạng mô tả chi tiết hơn nữa
các hình phạt của các địa ngục khác nhau
khiến ai nghiên cứu đến đều
cảm khái cho thân phận của các chúng hữu tình.
II/- SẮC GIỚI:
- Phạm chúng thiên.
- Phạm phụ thiên.
- Đại phạm thiên.
- Thiểu quang thiên.
- Vô lượng quang thiên.
- Quang âm thiên.
- Thiểu tịnh thiên.
- Vô lượng tịnh thiên.
- Biến tịnh thiên.
- Phúc sinh thiên.
- Phúc ái thiên.
- Quảng quả thiên.
- Vô tưởng thiên.
Ngang cõi tứ thiền có năm
cõi gọi là Tịnh cư thiên hay Bất hoàn thiên, là
chỗ ở của các chúng sinh tu luyện đạt quả vị Thánh, bậc nhị thừa gọi là A na Hàm (Bất lai-
không quay lại),Nghĩa là không sinh tử luân hồi nữa. gồm có:
b/- Vô nhiệt thiên.
c/- Thiện kiến thiên.
d/- Thiện hiện thiên.
e/- Sắc cứu kính thiên.
Từ cõi trời cao nhất
của Sắc giới, các chúng sinh có hai
đường trẽ:
- Các chúng sinh phát minh trí tuệ sáng suốt viên thông ra khỏi cõi trần đắc
A-la-hán, vào Bồ tát thừa gọi là Hồi tâm Đại
A-la-hán hoặc Bất hồi tâm độn Ala
hán
- Còn lại có 4 cõi cho các chúng
sinh chưa thoát sinh
tử luân hồi, gồm
có
2/- Thức vô biên xứ.
3/- Vô sở hữu xứ.
4/- Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
2/- Phi hành Tiên.
3/- Du hành Tiên.
4/- Không hành Tiên.
5/- Thiên hành Tiên.
6/- Thông hành Tiên.
7/- Đạo hành Tiên.
8/- Chiếu hành Tiên.
9/- Tinh hành Tiên.
10/- Tuyệt hành Tiên.
"Lúc đó Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng: Chư Phật tử! Thế giới hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc
tròn...hoặc hình nước xoáy...hoặc hình như hoa...có vô số vi trần sai khác như vậy"
Như mộng, huyễn, bào, ảnh.
Như lộ diệc như điện.
Ưng tác như thị quán".
H.T Thích Thanh Từ người nối tiếp và phục
hồi Thiền phái Trúc
Lâm Việt Nam đã
dịch:
Như mộng, huyễn, bọt, bóng.
Như sương cũng như điện.
Nên khởi quán như thế".
Hữu danh vạn vật chi mẫu.
Nguyên thủy của
trời đất là không tên .
Có tên là mẹ của vạn vật.
Hoặc vũ trụ biến đổi biến đổi theo quy luật “Thành,
Tựu,Hoại, Không” nếu nói theo ngôn
ngữPhật giáo mà
các Phãt tử gọi là vô thường, một trong
những phát hiện quan trọng nhất của Phật
giáo là sự biến
đổi trong tâm
thức của chúng
ta quyết định vận mệnh của chính
mình và sự tương quan thế giới, và Áo nghĩa thư một bộ kinh văn cổ của Ấn độ đã xác định
"sự xoay chiều của tâm thức" hay Đạo
Phật; "Hồi đầu thị ngạn", quay lại là thấy bến
bờ mới là mục đích của từng cá nhân, của cả dân
tộc, của từng quốc gia, của toàn thể nhân loại và các thế giới khác còn trong vòng luân hồi sinh tử, sự tương quan
giữa các tâm thức và thế giới theo kinh Hoa Nghiêm như
lưới Phạm võng (lưới trời) có thể ví như mạng lưới
kết nối của các phân tử và trước một vũ
trụ quan sinh
động như vậy Đức
Phật vẫn tuyên
bố "chân lý đó chỉ là lá trong nắm tay trước
cánh rừng chân lý vũ
trụ" nhưng cũng đủ "giúp các ngươi giải thoát" -xin nhấn
mạnh- và mỗi cá nhân hay chúng sinh đều là
một vị Phật tiềm năng.
Thông thường các Phật tử đều quan niệm vũ trụ kết cấu bởi Tứ đại: Đất, Nước, Gió,
Lửa, nghĩa là thuần vật chất, nhưng nghiên cứu sâu Kinh Lăng nghiêm ta
thấy Đức Phật đã xác
định vũ trụ luôn tiềm ẩn và kết cấu
bởi Thất đại (các chủng tử hình
thành các thế giới): Địa đại, Thủy đại, Phong đại, Hỏa đại, Không đại, Kiến đại và Thức
đại, trong đó Thức đại có vai trò cực
kỳ quan trọng và quan niệm này gần gủi với khoa
học nhất
Và để khỏi lạc đề chúng ta hãy xem xét trước cấu
trúc vũ trụ quan bao
quát như vậy Đức Phật đã xây
dưng một nhân sinh quan cho nhân loại như thế
nào? Tại sao mỗi người đều có tiềm năng Phật
tính mà vẫn mãi trôi
nổi luân hồi trong lục
đạo?-"Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành".
Nghiên cứu sâu các
Pháp mộn tu của Đạo phật, có 84.000
pháp mộn tương ứng 84.000 tâm thức chúng sinh, dù là Thiền tông, Mật tông, Tịnh độ tông... , ta nhận thấy Đức Phật đã vận
dụng phương pháp mà
khoa học hiện nay gọi là tối ưu hóa, vận trù học.. trong các pháp môn của mình, ứng dụng được cho
bất cứ hoàn cảnh nào, và
bất cứ cá nhân, hoặc tập thể
nào khác.
Chúng ta có thể xem lại đoạn văn
trong Kinh Hoa nghiêm Đức Phổ Hiền Bồ tát đã tuyên thuyết:
Với cách trình bày trên ngài đã cho ta thấy sự vô
tận của vũ
trụ, vi trần theo
một số Kinh văn đã trình bày là lấy một hột cát sông
Hằng chia nhỏ như toàn
bộ số cát sông Hằng hiện có , và lấy
hột cát đã được chia lại chia nhỏ như toàn
bộ số cát sông Hằng lần
hai , cứ thế tiếp tục gọi là
"vi trần", với phương pháp sư
phạm trực quan sinh động như vậy Đức Phậtquả là nhà sư phạm tiêu biểu, và nếu chia
như vậy vi trần có thể đã
tiến đến đơn vị theo cách diễn đạt ngày nay
là nguyên tử thậm chí là điện tử hoặc các hạt đã được phát hiện, Thế giới hải chúng ta có thể
hiểu là mô hình vũ trụ quan đã nêu
trên,Trụ là giai đoạn kế sau giai đoạn hình thành của quy luật Thành,
Tựu(Trụ), Hoại, Không của vạn sự vạn vật, Kiếp khoảng thời gian của giai
đoạn thành, trụ, hoại, không, A-Tăng-kỳ là con số vô cùng lớn, vô lượng không hạn
về số lượng, vô biên là không hạn chế về không gian, vô đẳng là không
bằng hoặc không giống nhau, bất khả sổ là không thể đếm hết được, bất khả xưng là
không thể nêu hết được, bất khả tư không thể nghĩ nhớ hết được dĩ nhiên bằng trí
óc thông thường của chúng ta, bất khả lượng
không thể tính toán
được, bất khả thuyết là
không thể nói ra hết được.
Theo Kinh Phật :
- Câu chi =
10.000.000 = 107
- A-Giu-Da = 100.000.000.000.000. =1014
- Na-do-tha = 10 tỷ tỷ tỷ = 1028
- Tần-Bà-La = 1056
lấy 9 con số lẻ , A-Tăng-Kỳ khoảng = 107.098843361x10lũy thừa 3 nghĩa là
con số 1 tiếp theo bởi hơn
7.000 tỷ tỷ tỷ con số 0 ở sau !!!, trong khi con số các nhà khoa học hiện đạicó lẽ chỉ dùng
khoảng 40 số lẻ ở sau. (Trang 325,326, PHẬT GIÁO TRONG THỜI ĐẠI KHOA HỌC, Trần Chung Ngọc -PHẬT
HỌC CĂN BẢN- Nhà xuất bản Tôn Giáo-)
Để đạt các cõi giới tốt đẹp mà theo
cấu trúc vũ trụ đã trình
bày, thông thường nhà Phật có các Đạo lộ sau:
II/- Cõi A-Tu-La:
Những chúng sinh đã tạo
ít nhiều công đức (bố thí, cứu người, chẩn tế ...),
nhưng vẫn còn ít nhiều sân hận thì sau
khi thác sẽ tái sinh cõi này,
có lẽ các vị thần thuộc cõi này.
III/- Cõi Thiên: (Mười điều Thiện)
Những chúng sinh tu Thập Thiện sẽ tái sinh cõi này,
cần nhấn mạnh các vị
Thánh, Bồ tátcũng lấy Thập thiện làm căn bản tu tập của mình.
Theo Kinh Thập Thiện gồm có các đề mục sau:
"Những gì là mười? -Là hằng lìa sát
sinh, trộm
cắp, tà hạnh, vọng ngữ, hai lưỡi,ác khẩu, ỷ ngữ. tham dục, sân khuể và tà kiến"(Trang 48, KINH THẬP THIỆN trong PHẬT TỔ NGŨ KINH- HT Thích Hoàn
Quan-Nhà xuất bản Tp HCM).
- Quán Thân bất tịnh.
- Quán Thọ thị khổ. - Quán Tâm vô thường.
- Quán Pháp vô ngã.
- Điều Ác đã sanh cần trừ dứt.
- Điều Ác chưa sanh đừng cho sanh. - Điều Thiện chưa sanh cho sanh ra.
- Điều Thiện đã sanh rồi làm cho lớn lên.
Gồm bốn phép thần thông do đại định sinh ra:
- Niệm: Nghĩ nhớ.
- Dục: Ưa muốn. - Tấn: Tinh tấn.
- Huệ: Trí huệ.
a/- Trạch pháp: Lựa chọn pháp.
b/- Tinh tấn: siêng năng.
c/- Hỷ: Vui mừng.
d/- Khinh an: nhẹ nhàng, an tĩnh. e/- Niệm: Nhớ,
nghĩ.
f/- Định: Thiền định.
g/- Hành xả: Lòng tu hành bình đẳng, không vướng mắc.
a/- Chánh kiến: Cái thấy
chân chánh
b/- Chánh tư duy: Suy nghĩ chân
chánh.
c/- Chánh ngữ: Lời nói chân
chánh.
d/- Chánh nghiệp: Hành vi chân chánh
e/- Chánh mệnh: Sinh hoạt chân
chánh.
f/- Chánh tinh tấn: Siêng
năng việc tốt.
g/- Chánh niệm: Nghĩ nhớ
chân chánh.
h/- Chánh định: Thiền định chân
chánh.
1/- Vô minh
2/- Hành
3/- Thức
4/- Danh sắc
5/- Lục nhập
6/- Xúc
7/- Thọ
8/- Ái
9/- Thủ
10/- Hữu
11/ Sanh
12/- Lão tử
Không quán thành tựu(A la hán), căn bản trí xuất hiện nhưng
chưa viên mãn
- Tín tâm trụ.
- Niệm tâm trụ.
- Tinh tiến tâm.
- Tuệ tâm trụ.
- Định tâm trụ. - Bất thối tâm.
- Hộ pháp tâm.
- Hồi hướng tâm.
- Giới tâm trụ.
- Nguyện tâm trụ.
- Phát tâm trụ.
- Trị địa trụ.
- Tu hành trụ.
- Sinh quý trụ.
- Cụ túc trụ. - Chính tâm trụ.
- Bất thối trụ.
- Đồng chân trụ.
- Pháp vương tử trụ.
- Quán đỉnh trụ.
- Hoan hỉ hạnh.
- Nhiêu ích hạnh.
- Vô sân hận hạnh.
- Vô tận hạnh.
- Ly si loạn hạnh. - Thiện hiện hạnh.
- Vô trước hạnh.
- Tôn trọng hạnh.
- Thiện pháp hạnh.
- Chân thật hạnh.
- Cứu hộ nhất thiết chúng sinh,
Ly chúng sinh tướng hồi hướng.
- Bất hoại hồi hướng.
- Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng.
- Chí nhất thiết xứ hồi hướng.
- Vô tận công đức tạng hồi hướng.
- Tùy thuận thiện căn hồi hướng.
- Tùy thuận đẳng quán nhất chúng sinh hồi hướng.
- Chân như tướng hồi hướng.
- Vô phược giải thoát hồi hướng.
- Pháp giới vô lượng hồi hướng.
- Noãn địa.
- Đỉnh địa. - Nhẫn địa
- Thế hệ đệ nhất địa
- Sơ địa, hoan hỷ địa.
- Ly cấu địa.
- Phát quang địa.
- Diệm tuệ địa.
- Nan thắng địa. - Hiện tiền địa.
- Viễn hành địa.
- Bất động địa.
- Thiện tuệ địa.
- Pháp vân địa.
12/- Diệu giác: Thành đạo vô thượng.
- Độc giác: ra đời không
gặp Phật, hoặc quán 12 nhân duyên, hoặc quán hoa rơi, lá
rụng mà tự ngộ đạo.
C/- ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU NGÀNH SINH HỌC HIỆN ĐẠI:
Bồ tát Phổ Hiền: "Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô số, bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng",
Einstein : E = mc2 ,
quan hệ năng lượng, khối lượng
và thời gian trong
thể thống nhất; David Bohm cho rằng vũ
trụ biểu hiện ba phương
diện liên kết nhau Vật chất, Năng lượng và Ý nghĩa: "...Như
vậy, một điều khá thông thường là năng
lượng bao
gồm vật chấtvà ý nghĩa, trong khi vật chất cũng bao gồm năng lượng, ý nghĩa ..., nhưng ý nghĩa cũng phải bao gồm vật chất, năng lượng...Vậy mỗi
khái niệm căn bản ấy
bao hàm luôn cả hai cái kia." (Trang 371 TỬ THƯ TÂY TẠNG,quyển 2, Sogyal Riponche, Trí Hải dịch từ
Bohm,Unfolding Meaning, trang 90)
Nhà Phật có mô hình Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Cùng với cấu
trúc của Einstein Năng lượng, vật chất và thời gian có mối
quan hệ chặt chẽ, xin nhắc lại nhà Phật xem thời
gian là sát-na(tiểu
niệm) của tâm
thức thì ta có mối quan hệ mới: Năng lương, vật chất và tâm thức, có thể thấy
sự tương đương Pháp thân chính là Tâm thức, Ý nghĩa hay nói theo cách
khác chính là Phật tánh, Viên giác, Như lai tạng tiềm ẩn của Vũ trụ và trong
mỗi chúng ta, Báo thân chính là Tánh Không trong
Kinh Bát Nhã (năng lượng chỉ là
một thuộc tính của Báo thân), và Hóa thân chính là vật chất thì điều
này sẽ làm đảo lộn các quan điểm vẫn tồn tại của các
ngành khoa học trong đó có ngành Sinh học.
Nếu chúng sinh cùng một Thể tánh hay Ý nghĩa, quan niệm chỉ có con người "là động vậtbiết suy
nghĩ" và loài vật chỉ hoạt
động theo bản năng sụp
đổ hoàn toàn, câu nói cửa
miệng "Tôi tư duy , tôi tồn
tại" mất ý nghĩa, đã đến lúc có
cái nhìn toàn thể. Chỉ riêng hệ thống kinh mạch
và huyệt đạo theo y lý Trung hoa đến
nay ta vẫn trong dạng chấp
nhận ứng dụng mà không giải thích
được bản chất của hệ thống đó và hệ thống Luân xa
và luồng kundalini (Hỏa xà) của các nhà
yoga tu luyện vẫn còn
là một bí ẩn, thì Hệ thống kinh mạch
và khí mô tả của Mật Tông Tây Tạng còn xa
tầm với của chúng ta như thế
nào: "Tâm là người cưỡi ngựa, kinh mạch như đường giao thông thành
phố...mai tiếp...!!!buồn ngủ rồi!!!) thì khoa học phải bó tay!!!!!!!!!!!
Cần nói thêm về Kinh mạch của Trung
quốc gồm hai hệ
thống chính: Kỳ kinh bát mạch và Thập nhị kinh
mạch, trong đó cả hai hệ thông đều coi mạch Nhâm, Đốc là quan trọng, mạch Đốc
bắt đầu từ Đan điền(Huyệt dưới rốn
khoảng 3 phân) chạy vòng theo cột sống sau lưng lên huyệt Đốc (Một trong hai
huyệt quan trọng để thông sinh tử huyền quan của các
nhà luyện võ công), vòng qua huyệt bách hợp(đỉnh đầu) đến huyệt Nhâm (sinh tử huyền quan) trước ngực
để vòng về đan điền cứ thế tiếp tục. (Hệ thống này
là nguồn cảm hứng cho Kim Dung tiên sinh trong tác phẩm hư cấu Lục Mạch Thần
Kiếm khi ông tách 6 kinh của tay liên quan đến tâm, can, tỳ,
phế, thận,..để cấu tạo nên
bộ võ công tuyệt đỉnh trong
trước tác của mình), và trước đây các nhà Y lý của Trung quốc chỉ
biết hơn 3000 huyệt đạo thì nay với sự trợ giúp của khoa học số huyệt đạo được
phát hiện đã tăng lên rất nhiều lần, hiệu
quảcủa nó đã được phát huy tối đa khi các nhà khoa học Trung quốc mổ sọ
người, không cần gây tê và người bệnh vẫn nói chuyện được với bác sĩ, và điều này lý
giải trường hợp Quan Thánh bị
trúng tên độc vẫn tỉnh bơ đánh cờ để Hoa
Đà nạo xương cho mình, trong tác phẩm Tam quốc chí. Nói
đến hệ thống này là
phải nói đến Kinh Dịch một
trong tứ Thư và ngũ Kinh của Trung quốc: "Dịch
quán quần Kinh chi thủ" nghĩa là Kinh
Dịch đứng đầu trong
các Kinh, dĩ nhiên là Kinh
của Trung quốc, Kinh Dịch là cơ sở
để các bộ môn Y lý, Phong thủy, Võ công, Thiên
văn, Quân sự, Khí tượng, Hôn
nhân, Triết
học ... phát triển.
Hệ thống Kinh mạch
theo các nhà Yoga gồm 3 kinh chính chạy
theo cột sống, những nút thắt tạo thành thường là 7
Luân xa(Chakras) chính, khi tu
luyện luồng Kundalini tức là hỏa hầu tiến lên mở khóa
các luân xa sẽ đạt những khả năng thần
thông như: Thiên
nhãn thông, túc
mạng thông ..., Dĩ
nhiên các cách tu
luyện vừa nêu đều phải có Sư phụ.
Hệ thống Khí theo mật tông Tây Tạng còn vi tế hơn nhiều,
đã được mô tả trong tác phẩmTử thư Tây Tạng của
sogyal Riponche (Trí hải dịch,
trang161, tập 2) như sau: "Thân người được
các bậc Thầy ví như một đô thị, các kinh mạch giống như
đường xá, gió(khí) như ngựa, tâm như người cỡi. Có 72.000 kinh mạch vi tế trong thân thể, nhưng có ba kinh mạch
chính: Trung ương, chạy dọc cột sống , và trái phải có hai kinh chạy hai bên
kinh trung ương. Hai kinh mạch phải, trái cuộn quanh kinh mạch giữa tại một số
điểm để làm thành một dãy "gút". Dọc theo kinh mạch chính có một số
"luân xa", trung tâm năng lượng, từ đây những kinh mạch
phân ra như những cọng dù. Qua những kinh mạch ấy "khí" tuôn chảy,
còn gọi là nội khí. Có năm khí gốc và năm khí ngành ngọn. Mỗi khí gốc nâng đỡ một đại chủng và chịu trách nhiệm về một vận hành của cơ thể con người. Những khí ngành ngọn giúp
cho các giác quan hoạt động. Những khí nào chạy qua
tất cả các kinh mạch ngoại trừ kinh mạch giữa, thì được gọi là bất tịnh, vì gợi lên những mẫu tư duy nhị nguyên, tiêu cực. Những khí ở huyệt đạo trung ương gọi là "khí
của trí tuệ. Tinh chất chứa đựng trong các
huyệt đạo. Có tinh đỏ và tinh trắng. Chỗ chứa chính thức của tinh trắng là
cái đỉnh đầu, và tinh đỏ ở nơi lỗ rốn". (Trang 161,162 TỬ THƯ TÂY TẠNG, quyển 2, Sogyal Riponche, Trí Hải dịch) .
Ngành Sinh học chúng ta có thể nghiên cứu vẽ bản
đồ các kinh mạch đô thị như lập bản
đồ gien được không?.
Tứ đại: đất, nước, gió,
lửa
- Thọ: Ngũ quan tiếp ngũ trần có nhãn,
nhĩ, tỉ, thiệt, thân thức
- Tưởng: lý trí,ý thức.
- Hành: Tình cảm, ý chí.
- Thức: A-lại-da thức, tiềm thức, vô thức.
Theo khoa học hệ thống con người chúng ta kết cấu
bởi một hệ thống tâm-vật
lý phức tạp, nhưng rõ ràng ngành sinh
học mới chỉ nghiên cứu về sắc,
hay vật lý nghĩa là
thiếu một định hướng tổng thể trong nghiên
cứu, thậm chí chúng
ta ngày càng phân
chia sắc ra nhiều ngành nhỏ hơn: sinh học phân tử,
nguyên tử, sinh học cha,con,ông,bà,vợ,cháu,chắt gì đó
cái này bố không rành nhưng chắc
chắn là như vậy nhớ bổ xung............buồn ngủ thật rồi
,bai!!!!!!!3.30g sáng nguy thật? và các ngành khoa học khác cũng tương tự.
Cuối thế kỷ 20 ngành Sinh học đã có những bước tiến vượt bậc, đã có những công trìnhnghiên cứu về chu
kỳ sinh học về sự tương tác giữa con
người với mặt
trăng, mặt
trời và các hành tinh khác. Ảnh hưởng của các
tia vũ trụ với con người , phát hiện ra Trường sinhhọc của
không những động vật mà cả thực vật, ảnh hưởng của màu
sắc, âm thanh, nhiệt độ,
hương vị, đến sức khỏe của con người và động vật, một trong
những phát minh quantrọng đó chúng ta đã nghiên cứu được
cấu trúc và sự vận hành của gien di truyền và từng
bước tiến hành lập bản đồ gien cho con
người cũng như động
vật, sự lai tạo vô
tính đã đặt con
người trước những thử
thách về mặt đạo
đức cũng như những ứng
dụng thực tiễn của
nó, Nhiên liệu Sinh học góp phần làm giảm áp
lực năng lượng toàn
cầu..., đã đến lúc nhân loại không
thể coi thường những
phát hiện trong kiến thức nhân loại cổ xưa
của các bậc Thánh nhân bằng trí tuệ vô ngã đã lưu truyền đến
ngày nay, nếu không muốn là
"người mù sờ voi" và hiện rất nhiều nhà khoa học lớn đang tiến hành
từng bước nối liền các tri thức đó với
khoa học hiện đại.
Một trong những tác phẩm quan
trọng là KINH DỊCH VÀ MÃ DI TRUYỀN được Bs
Đỗ sơn và Đức minh biên dịch từ tác phẩm: "The I Ching & the Genetic code " của Dr .Martin
Schoenberger" đã làm cầu nối đó, Kinh
Dịch tương truyền của vua Phục hy sáng tạo, được xây dựng trên ký
hiệu Dương và biểu diễn bằng một vạch liền(—) và Âm biểu diễn bằng vạch
đứt (– –) gồm tượng và số, các chú thích của quẻ và hào tương truyền do Văn vương và Khổng tử san định.
Hệ lưỡng cực Âm, Dương được thống nhất trong đồ hình tròn gọi là Thái cực và trong Thái Âm Có Thiếu
dương, và trong Thái Âm có Thiếu
Dương tạo ra Tứ tượng, chồng Tứ tượng lên nhau
ta được bát quái, và chồng bát quái lên nhau
theo qui luật thống kê ta được 64 quẻ biểu diễn mọi sự, mọi việc trên cõi
đời này. Các nhà khoa học đã thấy cơ cấu trên tương
ứng với cơ cấu nhị phân nếu coi số không là Âm và
Dương là số 1, hệ nhị phân đọc từ trái qua, hệ quẻ đọc từ dưới lên, ví dụ quẻ
khôn được biểu tượng sáu
vạch đứt , nếu đọc từ dưới lên ta có hệ nhị phân 000000 tương đương số 0 hệ
thập phân, quẻ Càn sáu vạch liền, nhị phân là 111111, tương đương số 63 thập
phân. Sự tương thích Kinh dịch với Đại
số làm kinh ngạc các nhà
khoa học. Nếu âm là a, Dương là b ta có nhị
thức Newton như sau:
- Lưỡng nghi (Âm +
Dương): (a + b)1 = a+b
- Tứ tượng: (a +
b)2 = a2 + ab + ba + b2
- Bát quái: (a +
b)3 = a3 + a2b + aba + ba2 + bab + b2a + b3
- 64 quẻ : (a + b)4 = a6 + 6a5b + 15a4b2 + 20a3b3 + 15a2b4 +
6ab5 + b6
Thay a và b bằng vạch liền và đứt ta sẽ có mô hình Kinh Dịch từ Thái cực đến 64
quẻ.
Và quan trọng nhất tác phẩm này đã so sánh mô hình Kinh Dịch với Mã di truyền có những
sự tương đồng đáng kinh ngạc, Ký hiệu Kinh Dịch đồng thời cũng là hình ảnh cụ thể của vòng
xoắn ADN, 32 từ mật mã của nửa vòng xoắn ốc đi
xuống và 32 nữa bổ xung vòng xoắn kia có 12 tầng để
chứa 32 codon và 32 anticodon tổng cộng 64 tương đương 64 quẻ của kinh dịch mỗi quẻ
3 tượng tương đương bộ ba codon trong trong 4 base căn bản U(T), C,
G, A. rõ ràng Kinh Dịch có tính
tổng quát hơn, sẽ khảo cứu sâu hơn sau này.
Tuy nhiên, chính mô hình Pháp thân, Báo thân và Hóa thân của Đạo Phật hay nói cách khác Năng lượng, khối lượng
và tâm thức hoặc mô
hình Ý nghĩa, Vật chất và năng lượngcủa Bohm mới
là định hướng cho ngành Sinh học hiện
đại, mối
quan hệ tác động qua
lại giữa tâm thức và vật chất có những biến đổi như thế nào?,
sẽ là mục tiêu nghiên cứucho ngành
sinh học tương lai, trong đó ta không thể bỏ qua các phương pháp Thiền
và sự cộng tác giữa các Thiền sư với các
nhà Khoa học nhằm tiến hành các thí nghiệm thuyết
phục nhất trên cơ sở các chúng sinh cùng một Thể tánh
Các nhà nghiên cứu khoa
học Nhật bản đã cộng tác với các Thiền sư tiến hành nghiên cứucác trạng thái Thiền định, các kết quả
thu được từ biểu đồ sóng của a,b,d thu đượclàm kinh ngạc mọi người, làn sóng đó
được đánh giá là
"dịu hơn" so với người không tu
tập, vậy ta có thể tiến hành xa hơn khi dùng
các thiết bị hiện đại nghiên cứu các trạng thái tâm của
các tầng tâm thức từ Sắc giới: Sơ Thiền (Ly sinh hỷ lạc), Nhị Thiền (Định
sinh hỷ lạc) ... và cao hơn
nữa, và có các nghiên cứu tổng
hợp ảnh hưởng tốt đẹp từ các tu tập này đối với thể chất con người, thậm chí các biến đổi về gien
cùng các diễn biến Tâm sinh lý, các biến chuyển tốt hơn khi ứng dụng chữa
bệnh, điều này sẽ thuyết phục hơn
với mọi người khi ứng dụng nó trong
cuộc sống hàng ngày.
Đã có các thí nghiệm ảnh hưởng người tu Thiền đến mội trường vật chất
thậm chí động vật, thảo mộc ...của Trung quốc, Nhật bản, Hàn quốc ...
- Kinh Viên Giác giảng giải HT Thích Thanh Từ, Nhà XB Tôn Giáo.
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Minh dịch, Nhà XB Tp HCM.
- Phật tổ Ngũ Kinh, HT Thích Hoàn Quan, Nhà XB
Tp HCM.
- Tạng Thư Sống Chết, Sogyal Riponche Trí Hải dịch, Nhà XB Tp HCM.
- Tiền kiếp và luân hồi, Du hành qua các vùng Tâm thức, Bs Brain L. Weiss, Thích TâmQuang Dịch. Nhà XB Tôn Giáo.
- Phật học cơ bản, 4 tập, Ban hoằng Pháp Trung ương, Nhà XB Tp HCM.
- Kinh Dịch và Mã Di truyền, dịch Đỗ văn Sơn và Đức Minh theo tác phẩm "I Ching & Geneticcode"
của Dr Martin Schoeberger, Nhà XB Tp HCM.
- Einstein & Đức Phật gặp gỡ tư tưởng, Huy thông, Nguyên hạ, Nhà
XB Văn nghệ HCM.
- Khi nào chim sắt bay, Ni sư Ayya Khema, Nhà XB Tổng hợp HCM.
- Kinh Pháp Bảo Đàn, HT. Thích Thanh Từ, Nhà XB Tp HCM.
- Qui trình tâm pháp-Ốc đảo tự thân, Ni sư Ayya Khema, Nhà XB Tổng hợp
HCM.
-The key to Buddhism, HT Thích Thanh Từ, Phúc
anh & Hiển Mật dịch,Free
distributrion.