Tự thân cái chết không đáng sợ. Đáng sợ là khi còn sống, không tu tập, đến khi lâm chung chẳng biết mình sẽ đi về đâu, rơi vào cõi giới nào.-1500x995.jpg)
-1500x995.jpg)
Con người từ cõi sống về cõi chết có thể phải trải qua một giai đoạn trung gian gọi là thân trung ấm, trước khi bị cuốn hút theo nghiệp lực mà luân hồi trôi nổi trong sáu nẻo. Theo tín ngưỡng dân gian, thì đối lập với cõi người sống còn có cõi âm, ám chỉ cho cõi người chết, một thế giới vô hình mà nhục nhãn con người không thấy được. Ta có thể nhận định cõi âm của dân gian có thể gồm các giai đoạn thân trung ấm và các nẻo luân hồi về cõi Quỷ Thần và Địa ngục. Cõi Địa Ngục dành cho chúng sanh địa ngục nghiệp nặng chiêu cảm về, cũng là chánh trú sở của loài Ngạ quỷ, ngoài hai hạng nầy, chỉ có chư Bồ Tát do nguyện lực cứu độ mới vãng lai. Cõi Quỷ Thần là một cõi có chủng loại vô cùng đa dạng, từ phước báu đến trú xứ. Có thể nói, hầu như khắp các cõi khác và dĩ nhiên là cõi nhân gian chúng ta, đều có sự hiện hữu của chúng quỷ thần.
Chuẩn bị cho cái chết là một chuẩn bị trường kỳ từ lúc còn khỏe mạnh, với ý thức minh bạch rằng tâm niệm và hành động của kiếp nầy là nhân tố quyết định cho kiếp tái sinh. Kiếp nầy tạo nghiệp lành tức là đã chuẩn bị xây dựng sẵn sàng cho mình một kiếp sau tốt đẹp. Hạt giống nghiệp theo nguyên tắc lưu trữ thứ lớp trong tàng thức (tức A lại da thức), theo đó nghiệp mới gieo vẫn còn bén nhạy nên dễ hiện hành hơn nghiệp đã lưu trữ lâu xa về trước. Chính vì vậy mà cận tử nghiệp (nghiệp kề cận khi chết) đóng một vai trò tối quan trọng cho nẻo tái sanh: kẻ ác trước khi chết chợt phát sanh niệm lành có thể sanh về chốn an vui còn người có đời sống tương đối hiền lành, giờ cuối cùng bỗng sanh niệm ác mà bị đọa lạc vào cảnh khổ.
Cứu độ vong linh trong giai đoạn thân trung ấm:
Việc cứu độ trong giai đoạn nầy muốn đạt hiệu quả, thiết nghĩ chúng ta cần nghiên cứu đặc điểm căn bản của thân trung ấm để có thể ứng dụng hợp tình lý:
Vài đặc điểm của thân trung ấm:
1. Sau khi chết người cực thiện vãng sanh ngay về cõi lành, kẻ cực ác thì nghiệp lực lôi kéo về cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tức thời, phần đông còn lại phải trải qua giai đoạn thân trung ấm, là giai đoạn tạm thời chờ đợi để chiêu cảm thêm nghiệp lực quyết định cho nẻo tái sanh cho cuộc sống kế tiếp.
2. Thân trung ấm nầy chỉ kéo dài được bảy ngày, nếu chưa tái sinh thần thức phải trải qua một kinh nghiệm chết rồi sống trở lại với thân trung ấm mới trong bảy ngày nữa, diễn tiến sống chết tiếp nối nầy có thể kéo dài thân trung ấm trong thời gian tối đa là 7 tuần tức 49 ngày.
3. Mỗi lần thân trung ấm lập lại cái kinh nghiệm chết, nó phải tái diễn trọn vẹn tình tiết của lần chết chánh thức: người chết an lành trải nghiệm lại cái chết an lành; người chết vật vã, đau đớn kinh hoàng... trải qua kinh nghiệm đau khổ đó mãnh liệt gấp 7 lần khi chết (nguyên nhân vì thân trung ấm thuần tâm linh, không có thân xác thịt ngăn trở nên ý thức khổ đau hay an lạc đều mãnh liệt gấp bảy lần lúc sống). Điểm cần lưu ý khác là trong giai đoạn thoáng qua của Trung Ấm tái sanh, mọi nghiệp ác của các đời trước đều chiếu hiện trở lại, một cách cô đọng cường liệt, làm cho thần thức bối rối tột cùng.
Đây là lý do tại sao có lệ tụng niệm cho người chết liên tiếp “bảy thất”, mỗi thất nếu sắp xếp tổ chức kịp thời vừa trước phút thân trung ấm phải trải nghiệm lập lại cái chết thì quí giá vô cùng, sự kiện đó giúp thân trung ấm cảm nhận niềm bình an, một nhân tố lợi lạc cho việc tái sinh.
4. Có thể nói Thân Trung ấm có thần thông, một trạng thái tinh tế thấy, nghe, hay biết tâm ý người sống, cũng có thể đi khắp nơi trong chớp mắt, xuyên qua tất cả chướng ngại vật, tóm lại tâm người chết ở giai đoạn này hết sức bén nhạy, nhưng cũng rất phân tán và thường bất an. (Do đó, tang quyến nên luôn luôn sanh tâm thương yêu quí kính với người chết, nên nhớ là dầu chỉ móng niệm trong lòng ý khinh bạc, bất hiếu, cũng bị người chết khám phá được mà sanh tức giận đọa vào ác đạo; nếu thân quyến cãi vã tranh chấp nhau thì tình trạng càng tệ hại)
5. Thời gian 49 ngày là giai đoạn quan trọng nhất để người sống giúp đỡ người chết, giúp họ tạo cận tử nghiệp lành, tức là giúp họ chuyển vọng về chơn, chuyển phàm thành Thánh một cách dễ dàng. Theo Dudjom Rinpoche giải thích thì trong 21 ngày đầu của thời gian Trung Ấm, người chết vẫn còn một số ấn tượng mạnh về đời sống vừa qua, vì vậy đây là giai đoạn quan trọng nhất để người sống giúp đỡ người chết. Sau đó, kiếp tái sinh dần dần tượng hình và trở thành ảnh hưởng chính, nên cơ hội chuyển nghiệp cho họ khó khăn hơn 21 ngày đầu.
6. Sau 49 ngày nếu chưa đầu thai, thì thần thức sẽ không còn dưới dạng thân trung ấm nên cũng không còn chịu tái diễn kinh nghiệm sống chết sau mỗi bảy ngày nữa, vì đã chuyển sang kiếp quỷ thần rồi. Từ thời điểm nầy thì việc cứu độ vong linh trở nên khó khăn bội phần.
Thời gian tốt nhất để tu tập cho người chết khi còn giữ dạng thân trung ấm thì 3 tuần đầu là quan trọng nhất vì trong thời điểm nầy người chết còn liên hệ mạnh mẽ với cuộc đời, nên họ dễ dàng nhận sự giúp đỡ của thân quyến, tóm lại sự tu tập của thân quyến ảnh hưởng đến tương lai của người chết rất nhiều, có thể giúp họ giải thoát, hoặc tái sanh tốt đẹp. Thời gian kế tiếp - khoảng từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 49 - thì hình dạng vật lý của họ bắt đầu quyết định, nên cơ hội giúp họ chuyển nghiệp trở nên khó khăn và bị hạn chế.
Về tệ trạng lăng mộ hoành tráng cạnh tranh nhau: Mộ không phải là nhà ở của người chết mà xây dựng kiên cố để trú ngụ dài lâu. Phần lớn, người chết sẽ tái sinh sang kiếp khác trong thời hạn 49 ngày, ngôi mộ chẳng có giá trị thực sự gì cho hương linh, nó chỉ là phương tiện để người sống cạnh tranh khoe hiếu đạo, khoe giàu mà thôi. Ngược lại, tâm lý quá tham luyến ngôi mộ, có thể là một nguyên nhân khiến người chết không siêu thoát, phải lâm cảnh đầu thai sang loài quỷ giữ mồ mả chịu khổ sở lâu dài... Tại các nước có tục lệ thiêu xác như Ấn độ, Tây Tạng... không xuất hiện nhiều chủng loại ma quỷ giữ mồ như Trung quốc, Việt Nam... là nước quá quan tâm đến mồ yên mả đẹp. Thiêu xác quả là một tập tục hay đáng để cho chúng ta noi theo.
- Về tệ trạng chọn huyệt theo thuyết phong thủy: Theo giáo lý “nghiệp quả” thì ai gieo nhân nào phải gặt quả nấy, nên không có việc chỉ cần sở hữu một huyệt tốt thì luật nhân quả không còn hiệu nghiệm, mặc tình sống bất chấp đạo đức lẽ phải cũng giàu sang thành đạt.
- Về tệ trạng gào khóc, thậm chí thuê mướn người khóc cho rậm đám, chỉ nhằm mục đích phô trương hiếu đạo... vừa lố bịch với người, vừa có thể khiến hương linh bất an, não loạn mà đọa lạc...
- Về tệ trạng sát sanh tổ chức tiệc tùng: chủ khách tưng bừng thù tạc rượu thịt... trong ngày đưa tiển mất mát người thân là hành vi bất hiếu kính, huống chi việc sát sanh hại vật trong tang lễ vô tình tạo thêm nghiệp nặng cho người chết, khiến họ càng khó siêu thoát. Chính vì vậy mà Đức Huỳnh Giáo chủ mới dạy: “Giỗ lớn tội lớn, giỗ nhỏ tội nhỏ.” Nếu trong hoàn cảnh phải lo ẩm thực cho khách đường xa, nên tránh tối đa việc sát sanh, và gia chủ nên yêu cầu thực khách lặng lẽ ăn uống để giữ lòng tưởng nhớ đến người vừa qua đời.
- Về tệ trạng thuê phường nhạc bát âm kèn trống rầm rộ gây náo loạn, tạo không khí ồn ào náo nhiệt trong thời điểm cần trang trọng tưởng niệm người thân ra đi quả là điều trái đạo lý.
- Về tệ trạng đốt và rải giấy tiền vàng bạc: Việc bày vẽ ra các loại tiền âm phủ, giấy vàng bạc, lầu kho... cùng các nghi thức như cúng tam sên, mở cửa mả... đều là hủ tục mê tín nên loại bỏ.
Cõi và Thời gian đầu thai tức tái sanh:
1. Diễn biến thông thường:
Như đã trình bày phần về Thân trung ấm, thì sau khi chết người cực thiện vãng sanh ngay về cõi lành, kẻ cực ác thì nghiệp lực lôi kéo về cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tức thời, phần đông còn lại vì nghiệp báo chưa rõ rệt, nên còn chần chờ và có thể kéo dài thêm 49 ngày để chiêu cảm thêm nghiệp lực mới làm yếu tố quyết định để vãng sanh tái sanh vào một trong sáu cõi.
2. Trường hợp đặc biệt:
- Theo Sogyal Rinpoche thì có một số kẹt lại trong thế giới trung gian (tức thân trung ấm) để thành ma quỷ. Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche cũng cho rằng có một số người cứ vất vưởng trong thế giới trung ấm này một thời gian rất lâu, có lúc đến bảy năm mới đi tái sinh, trường hợp bị kẹt lại này thì họ sẽ trở thành ma quỷ.
- Những người đã có cái chết kinh khủng hay đột ngột như trường hợp bị ám sát, tự sát, tai nạn, chiến tranh, thường rất dễ rơi vào sợ hãi đau đớn, hoặc ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết của họ, do đó tuy đã chết rất lâu vẫn không thể tiến đến giai đoạn tái sanh.
- Thiết nghĩ: Sau 49 ngày người chết không còn giữ nguyên dạng thân trung ấm và cũng không còn chịu tái diễn kinh nghiệm sống chết sau mỗi bảy ngày nữa, vì họ đã chuyển kiếp thành quỷ thần một cách đương nhiên, một loại quỷ thần hiện hữu lẫn lộn trong cõi người. Quỷ thần thuộc loại hóa sanh, từ thân trung ấm hóa sanh thành quỷ thần nhanh chóng, không gì thay đổi nên ngay chính đương sự cũng cảm giác như tiếp tục thân cũ. Vì vậy, hồn ma vất vưởng dài lâu ở cõi Ta Bà chính thật là đã đầu thai vào chủng loại quỷ thần, chớ không còn là thân trung ấm nữa. Cứu độ những chúng sanh nầy do đó khó khăn hơn những người chết còn ở dạng thân trung ấm rất nhiều.
Thời gian và thể thức cứu độ sau khi đã đầu thai:
1. Tính chất không giới hạn về thời gian và cõi:
Dầu người chết đã đầu thai bao lâu và ở cõi nào, sự giúp đỡ cho người chết vẫn có thể tiếp tục, tuy khó khăn hơn, nhưng vẫn có kết quả :
- Theo Dudjom Rinpoche thì người đã chết 100 năm về trước, nhưng nếu ta tu tập cho họ, họ vẫn còn được lợi lạc.
- Kinh Tirokudda sutta (Khudaka Patha) có dạy rằng ngay các chủng loại quỉ tức đã chuyển kiếp lâu xa rồi, vẫn có thể hưởng được phước báu mà thân quyến họ đã tạo nên và hồi hướng đến họ.
- Kinh Ưu-bà-tắc có nói: "Nếu người cha chết rồi bị đọa vào kiếp Ngạ quỉ, mà người con vì cha làm những phúc đức, nên biết người cha liền được thọ hưởng”
- Theo Ngài Hư Vân thì nhờ thiền sư Anh Công đời Đường kiến lập đàn tràng Thủy Lục cầu siêu độ, mà vua Tần Trang Nhượng, Phạm Tuy, Bá Khởi, Vương Long Vũ, Trương Nghị, Chẩn Muội, v.v... tuy đã bị trầm luân cả ngàn năm, vẫn được siêu thăng về cõi trời.
- Theo H.T. Thánh Nghiêm thì “Dù cho người chết có bị đọa vào ba đường ác thì công dụng của sự tác phước là làm giảm bớt nỗi thống khổ của người chết, cải thiện hoàn cảnh của ba cõi. Nếu được sinh lên cõi trời thì sẽ làm cho hạnh phúc của họ trên cõi trời thêm an lạc. Nếu được sinh ở cõi tịnh độ thì có thể nâng cao thêm thứ bậc ở đấy".
Xứ sở của Quỷ Thần:
Quỷ Thần có nhiều chủng loại, vì vậy trụ xứ của Quỷ Thần cũng hoàn toàn khác biệt, như chư Thiên Vương thỉ dĩ nhiên xứ sở phải là cõi Thiên. Tuy nhiên, riêng đối với chư Quỷ thần thiếu uy đức thì xứ sở của quỷ thần có hai nơi gọi là chánh trụ và biên trụ:
- Chánh trụ là xứ sở riêng của loài quỷ nghiệp nặng, thuộc về thế giới ngạ quỷ, nằm trong thành Diêm La, nơi ở chánh thức của vô số ngạ quỷ do Diêm La Vương thống lãnh.
- Biên trụ là xứ sở của các quỷ thần nghiệp nhẹ hoặc có phước nghiệp, thuộc về hạng ở lẫn lộn trong loài người. Biên trụ là những chỗ như mé biển, triền núi, rừng bụi, đình miếu, hang hố, đồng trống, mồ mả, cho đến vườn nhà cùng các nơi thanh tịnh lẫn bất tịnh.