Đạo phật vốn không có chủ trương làm chính trị, chính trị và đạo Phật hai lối đi khác nhau. Đạo Phật chủ trương giải quyết vấn đề khổ đau, hướng đến giải thoát sanh tử luân hồi của kiếp nhân sinh, còn chính trị là những hoạt động gìn, giữ, sử dụng quyền lực của một đảng phái hay một đất nước, nghiêng về đấu tranh và dùng các thủ đoạn.
Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, phẩm Kết Cấm, quyển 42, có một quy định Tỳ-kheo không nên thân cận quốc vương, nếu không có thể xảy ra 10 vấn đề bất lợi cho Tỳ-kheo và phương hại đến giáo đoàn (Đ.2.775c).
Kinh Trung A-hàm, quyển 49, kinh Đại Không, quy định rằng, “Sa-môn không nên bàn luận việc quốc vương, và đấu tranh…” (Đ.1.739a26-27).
Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, quyển 43, phẩm Thiện Ác, Phật bảo các Tỳ-kheo rằng: “Các vị không nên khen hay chê việc trị quốc của vua, và không nên bàn luận thắng liệt của vua.” (Đ.2.782c5).
Bởi vì, Phật giáo không có biên giới, không đảng phái, không tham dự đấu tranh chính trị.
Mặc dù chính trị không phải là mối quan tâm của đức Phật, nhưng đức phật quan tâm đến sự bình an và hạnh phúc của tha nhân, nghĩa là quan tâm đến sự thịnh trị hay biến loạn của quốc gia nên hẳn nhiên Ngài đã đưa ra các phương pháp làm chính trị như thế nào để nhân dân được ấm no hạnh phúc, đất nước thái bình thịnh vượng. Hơn thế nữa chúng ta hiểu lý do vì sao mà trong kinh tạng đức Phật đề cập đến chính trị, vì sao đức Phật đưa ra nhiều phương pháp trị nước cho các vị vua đến tham vấn. Để hiểu được điều này, chúng ta phải hiểu qua thực trạng quốc gia và chính trị của Ấn Độ thời đại đức Phật như thế nào.

Ấn Độ vào thời đại đức Phật (thế kỷ thứ năm trước Tây lịch) chia ra mười mấy nước, trong đó những nước lớn mạnh thường muốn thôn tính những nước nhỏ yếu, nên tình trạng giữa các nước rất rối ren. Những nước nhược tiểu tìm đủ mọi biện pháp chống trả để bảo vệ sự sống còn, có khi liên minh với các nước nhỏ khác để tạo thành liên bang cho đủ sức mạnh đối địch lại với các cường quốc.
Nhưng trong tổ chức liên minh ấy nước nào có thế lực hơn thì dành quyền làm bá chủ, thành thử giữa các nước nhỏ cũng lại tranh chấp nhau không dứt. Tình trạng Ấn Độ vào thời kỳ này thật có nhiều điểm tương tự như tình hình Trung Hoa ở thời Xuân Thu Chiến Quốc của Trung Quốc vậy. Nếu nói về tình hình nội chính thì trong hơn mười tiểu quốc đó, có nước là vương quốc, có nước là cộng hòa, chính thể tuy khác nhau nhưng người nắm quyền chính trị thì đai khái là những người thuộc giai cấp Sát-đế-lị.
Những người này vì muốn nắm lấy cơ hội biến động để quật khởi nên một mặt muốn được sự tin tưởng của giai cấp Bà-la-môn, mặt khác lại muốn mua chuộc lòng tin cậy của giai cấp Phệ Xá và giai cấp Thủ -đà-la, đó là một việc không phải dễ dàng, nếu vô ý một chút sẽ bị quần chúng oán thán, do đó mà uy quyền sẽ giảm.
Vì công việc nội chính và ngoại giao phức tạp như thế nên các nhà làm chính trị thường mong đợi ở một nhà làm tôn giáo danh tiếng giúp ý kiến để vượt qua những khó khăn ấy. Đức Phật là một trong những vị đạo sư danh tiếng thời bấy giờ, cho nên người ta không lấy làm lạ khi thấy đức Phật cũng được hỏi ý kiến liên quan đến những vấn đề chính trị. Vì để giải đáp những vấn đề thực tế đó mà đức Phật đã phát biểu quan niệm chính trị của Ngài. Trong số đệ tử hoặc tín đồ của Phật vì có nhiều quốc vương, đại thần đến tham vấn Ngài nên Ngài có nhiều cơ hội để trả lời những câu hỏi của họ về đạo giải thoát cũng như các vấn đề chính trị chủ yếu. Do đó mà Phật giáo có nhiều chính trị quan một cách ngẫu nhiên như vậy.
Chính trị quan của Phật giáo như đã nói ở trên, chủ yếu là những lời giải đáp của Phật về những câu hỏi của các nhà chính trị, đặc biệt là những người lãnh đạo quốc gia. Điểm quy kết là lấy việc vua tôi hòa thuận, trên dưới một lòng làm trọng điểm cho chính trị.
CÁC QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA PHẬT GIÁO:
1. Tư đức và pháp trị của người lãnh đạo quốc gia:
1.1. Tư đức:
Người lãnh đạo quốc gia là người đứng đầu một nước, là đầu não của đất nước, là người có quyền lực cao nhất nắm giữ vận mạng của quốc gia. Vì là người giữ một vai trò quan trọng như thế, nên tư đức của người lãnh đạo rất ảnh hưởng đến sự đi lên hay đi xuống của quốc gia. Nếu người lãnh đạo là người biết đặt quyền lợi của nhân dân và đất nước lên trên lợi ích cá nhân của mình, đem hết tài năng và trí tuệ ra lo cho dân cho nước thì đất nước đó sẽ đoàn kết, thịnh vượng, còn ngược lại nếu người đứng đầu quốc gia là người chỉ biết lợi dụng quền lực và địa vị của mình để lo cho mọi sự hưởng thụ dục lạc mà vơ vét tài sản của dân xây cung vàng điện ngọc, bắt dân phải ra chiến trường đi đánh nhau các nước khác để mở mang bờ cõi, thì đó là một ông vua bạo tàn làm cho dân chúng oán than, đất nước loạn lạc, quyền lực của vua sẽ sớm rơi vào tay kẻ khác. Một ông vua hay người đứng đầu một nước nếu không có tư đức thì dù có xảo quyệt và thủ đoạn đến đâu cũng sẽ không thu phục được lòng dân, sẽ thất bại trong quá trình điều hành đất nước.
Trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế - cũng như hiện nay - có nhiều vị vua cai trị bất công. Sưu thuế bị tăng lên quá đỗi và hình phạt rất tàn ác. Dân chúng bị áp bức, bóc lột, tra tấn, giết chóc.
Đức Phật vô cùng xót xa trước những sự ngược đãi vô nhơn đạo ấy. Kinh Dhammapadatthakathà thuật lại rằng Đức Phật hằng lưu ý đến vấn đề tổ chức một nền hành chánh nhơn đạo. Ý kiến của Ngài được thích dụng trong quy chế xã hội, kinh tế và chánh trị trong thời kỳ ấy. Ngài chỉ cho thấy rằng toàn cả một xứ bị suy vong, đốn mạt và khốn khổ khi những người nắm vận mạng quốc gia, như vua chúa, quần thần, quan lại quá đỗi tham tàn và bất công.
Muốn cho xứ sở được thanh bình thạnh trị thì những người cầm quyền phải công minh, chánh trực. Dưới trí tuệ và lòng từ vô hạn, đức Phật hiểu rất rõ vấn đề này nên mỗi khi nói chuyện với các vị quốc vương về chính sự, đức Phật thường khuyên họ phải trau dồi tư đức.
Trong bộ chú giải Jàtaka I (Chuyện Tiền Thân), tr. 260, 399, - II, tr. 400; - III, tr. 274, 320; - V, tr.119, 378 có ghi lại mười đức của một vị vua như sau:
1. Phận sự đầu tiên là đức tính khoan dung, quảng đại, từ thiện. Vị quốc Trưởng phải là người không tham tham, không luyến ái tiền bạc của cải, mà phải sẵn sàng đem ra bồi đắp hạnh phúc cho dân lành (Dàna).
2. Phải có hạnh kiểm đạo đức cao thượng (Sìla) là không sát sanh, không dối trá, không gian tham, không lợi dụng kẻ khác, không tà dâm, không nói những điều hư ngụy, không uống vật có chất say. Nghĩa là ít nhất phải giữ Ngũ Giới.
3. Hy sinh tất cả cho việc lợi ích cho dân (Pariccàga). Sẵn lòng hy sinh sự sung sướng, tên tuổi, thanh danh và mạng sống cho quyền lợi của dân.
4. Thanh liêm, chánh trực (Ajjava). Không sợ áp lực và cũng không đặc biệt ưu đãi một ai trong khi thi hành nhiệm vụ. Phải chân thật trong ý muốn và không dối gạt quần chúng.
5. Dễ thương, ôn hòa (Maddava). Phải có đức tánh ngọt ngào, mềm dịu.
6. Khắc kỷ, nghiêm túc trong thói quen (Tapa). Phải sống giản dị, không để bị lôi cuốn trong xa xí. Phải biết mình.
7. Không ghen ghét, không ác ý, không thù hằn (Akkodha). Không tích oán, hiềm thù với ai cả.
8. Không bạo động (Avihimsa). Chẳng những không làm hại ai, mà phải tích cực biểu hiện hòa bình, cố tránh và ngăn ngừa chiến tranh cùng tất cả những gì gây ra bạo động và giết chóc.
9. Nhẫn nại, tha thứ, châm chế, hiểu biết (Khanti). Phải có đủ khả năng chịu đựng thử thách, khó khăn, nhục mạ và không giận.
10. Không chống trả, không làm cho bế tắc (Avirodha). Nghĩa là không chống lại ý muốn của dân, không ngăn cản một biện pháp nào có thể đem lại hạnh phúc cho dân. Nói cách khác, phải một mực hòa hợp với dân.
Còn trong kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 42, tr. 449, đức Phật nói đến mười đức của một vị vua như sau:
1. Thanh liêm và khoan dung.
2. Khéo nghe lời can gián của bầy tôi.
3. Hay thi ân cho dân chúng cùng vui.
4. Việc thu thuế phải y theo pháp định.
5. Việc phòng the phải chỉnh túc.
6. Không để rượu làm rối loạn tinh thần.
7. Siêng năng, không cười đùa cợt nhã, phải giữ gìn uy nghiêm.
8. Phải xét xử theo luật pháp, không thiên vị quanh co.
9. Phải hòa hợp với quần thần không cạnh tranh với họ.
10. Luôn luôn phải để ý đến sức khỏe của thân thể.
Mười đức mà đức Phật chỉ dạy cho các vị vua trong các kinh tạng trên đây là mười tiêu chuẩn xây dựng đạo đức của người lãnh đạo quốc gia. Trước hết theo như lời Phật dạy vị vua phải có tính thanh liêm và khoan dung, không tham lam, không luyến ái tiền bạc, đây là một tiêu chuẩn cần thiết của một người lãnh đạo. Vua có thanh liêm, mới không sống xa hoa hưởng thụ, không tham tài sắc, địa vị, tiền bạc chỉ sống thanh bạch giản dị; có khoan dung, vua mới có đủ lòng từ thấu hiểu nổi khổ, và hoàn cảnh của mọi người, nhất là người dân bần hàn cơ cực, mới có những cách xử trí khoan dung độ lượng được. Vị vua đó phải là người hết lòng thương dân, lúc nào cũng đặt quyền lợi của dân lên trên quyền lợi cá nhân mình và phải có những đức tính ôn hòa, mềm mỏng. Bên cạnh đó vua là người sáng suốt, biết nghe theo lời can gián của tôi trung, không độc đoán làm theo ý mình, không ưu đãi một ai trong lúc thi hành nhiệm vụ. Còn việc phòng the, vua phải giữ tiết độ, không đắm say tửu sắc để giữ gìn sức khỏe và không bỏ bê việc nước, lại còn biết hòa hợp với quần thần, không gây xích mích hầu tránh nguy cơ chia bè phái, nhất là phải yêu chuộng hòa bình, tránh bạo động chiến tranh mà gây tang tóc cho đất nước. Nói chung vị vua đó phải kiện toàn đạo đức trên nền tảng giữ Năm giới cấm của đạo Phật. Một vị vua mà thực hiện đúng như vậy mới được xem là bậc minh quân tài đức, anh minh.
Những tiêu chuẩn về tư đức của một vị vua mà đức Phật chỉ dạy trên đây có phần nào giống với các tiêu chuẩn mà Nho gia đã đưa ra. Vua hiền đức, theo Khổng Tử cho rằng muốn trị nước, trước tiên ắt phải sửa cho “chính danh”. Vì nếu không chính danh thì lời nói sẽ không đúng đắn, dẫn đến thi hành sai. Cho nên nhà cầm quyền xưng danh thì phải đúng với phận nghĩa. Đối với quan hệ vua tôi, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết thống và chủ trương “ trọng hiền” không phân biệt đẳng cấp xuất thân của người ấy. Trong việc chính trị, vua phải biết trọng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với kẻ cộng sự.
Ông còn nói nhà cầm quyền phải thực hiện ba điều:
- Bảo đảm đủ lương thực cho dân no ấm; phải xây dựng lực lượng mạnh đủ để bảo vệ dân; phải tạo lòng tin cậy của dân đối với mình” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 7).
Như vậy cái cốt yếu nhất trong đạo trị nước theo tư tưởng nhân chính là lấy nhân nghĩa, xuất phát từ lòng chẳng nỡ của các bậc vương giả làm cơ sở.
Bên cạnh đó, Mạnh tử kiên quyết chủ trương phế bỏ những ông vua vô đạo. Nếu vua là một kẻ bạo chúa, thì có thể giết để đổi mệnh vua. Trong điều kiện xã hội thời bấy giờ, việc Mạnh Tử công khai quan điểm đòi “truất ngôi vua vô đạo” là sự biểu hiện rõ nét lòng dũng cảm, ý chí khẳng khái và tư tưởng nhân bản của ông.
Theo Mạnh Tử, ông vua nhân đức không chỉ là ông vua biết thương dân mà còn là ông vua biết dùng người “quý kẻ có đức, tôn người có học, kẻ hiền tài được ở ngôi, kẻ giỏi được chức vị, nước nhà nhàn hạ, lo sửa sang việc kinh, viêc chính cho phân minh…” (Mạnh Tử, Công Tôn Sửu Thượng).
Tóm lại trong học thuyết về chính trị xã hội với tư tưởng “nhân chính” và “bảo dân”…có ý nghĩa tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu hướng phát triển lịch sử xã hội và có phần nào giống với tư đức của một người làm vua mà đức Phật đã đưa ra. Phàm làm vua phải lấy nhân nghĩa làm trọng, phải thương dân, làm mọi việc có lợi cho dân, phải là một ông vua sáng suốt biết trọng dụng người tài đức.
Nói chung người làm vua phải là người có tài đức để đủ sức gánh vác giang sơn. Tuy nhiên những tiêu chuẩn của vua mà Khổng Tử và Mạnh Tử đưa ra ở trên chỉ giống một phần tư đức vua mà đức Phật đưa ra thôi, chứ chúng ta thấy rõ ràng trong cái tương đồng vẫn có cái khác biệt. Vì chúng ta biết rằng chủ trương của Nho gia không thấy đề cập đến các yếu tố chỉnh túc việc phòng the, ít uống rượu và giữ gìn sức khỏe, nên hầu như đa số các vị vua chúa, đặc biệt là các vua Trung Hoa họ rất thoải mái vấn đề này, họ có rất nhiều vợ nên thọ mạng ngắn ngủi, đó là hậu quả do không biết tiết độ sắc và tửu. Và bên Nho gia cũng không nhấn mạnh việc vua phải tuân giữ Năm giới như của đức Phật. Vì vậy phần tư đức của một người lãnh đạo theo quan điểm Nho gia vẫn chưa trọn vẹn lắm. Cho nên công bằng mà nhận xét, chúng ta thấy so với các quan niệm tư đức của người lãnh đạo đất nước mà các triết gia khác đã đưa ra thì tư đức mà đức Phật đã chỉ bày cho các vị vua hoàn hảo hơn nhiều.
Đạo Phật khuyến khích nền tảng đạo đức và việc sử dụng quyền lực với ý thức trách nhiệm.
Đức Phật tuyên giảng về hòa bình và bất bạo động như là một thông điệp phổ quát. Ngài không chấp nhận bạo lực và hủy hoại sinh mạng. Ngài tuyên bố rằng không có một chiến tranh nào là chiến tranh của công lí. Ngài dạy: "Người thắng tạo căm thù, kẻ thua sống khổ sở. Người nào từ bỏ thắng và bại thì người đó sống an vui và hạnh phúc."
Lời dạy của Đức Phật về các bổn phận đạo đức của vua chúa để sử dụng công quyền, bảo đảm an sinh người dân đã giúp cho vua A Dục (Asoka), vào thế kỉ 3 TCN, cai trị đất nước của ông. Hoàng Đế A Dục, là một thí dụ điển hình của nguyên tắc đạo đức nầy, đã sống và thực hành Chính Pháp cho tất cả mọi người dân trong triều đại của ông. Ông quảng bá chính sách bất bạo động đến các vương quốc lân cận, cam đoan các thiện ý của ông, và gửi sứ giả đi khắp nơi để truyền bá thông điệp hòa bình và bất bạo động. Ông cỗ vũ sự ứng dụng của các nguyên tắc đạo đức trong xã hội, như chân thật, từ bi, bác ái, bất bạo động, nhân từ, không hoang phí, không chiếm đoạt, và không gây sát hại cho mọi loài vật. Ông khuyến khích tự do tôn giáo và bình đẳng tương kính giữa mọi đức tin. Ông thường du hành thuyết giảng Đạo Pháp đến người dân ở tận thôn quê. Ông thiết lập các công trình công cộng như bệnh xá, cung cấp thuốc men, trồng cây gây rừng, đào giếng, các công trình thủy lợi, và nhà tạm trú. Ông cũng đặc biệt ngăn cấm việc đối xử tàn ác với các loài thú vật.
Tóm lại, trị nước bằng đức trị là quan điểm chính trị trọng tâm của đức Phật, làm vua mà thiếu đức chỉ có thể đưa đất nước đến chổ suy tàn hoại vong vì lòng dân oán than, không ủng hộ. Theo đức Phật, bên cạnh trị nước bằng đức độ, vua còn phải biết trị nước bằng các pháp tắc chuẩn mực, mới có thể hội đủ các yếu tố để đưa đất nước đến chổ bình an và thịnh vượng. Thế nên, đức Phật thường hướng dẫn các vị quốc vương hãy điều hành đất nước bằng đức trị và pháp trị.