* Nguyên tác tiếng Đức
của Rolf Homann
Liên Thanh Suu Tap
(Lê Anh Minh dịch & chú thích )
Chủ đề của Huỳnh
Đình Kinh được khẳng định ngay từ đầu của bản Ngoại Cảnh: «Lão Quân nhàn cư tác thất ngôn, giải thuyết thân hình
cập chư thần.» 老君閑居作七言,解說身形及諸神 (Lão Quân lúc thư nhàn, viết thơ
7 chữ, để giải thích về thân hình con người và các thần linh trong đó). [2]
Sự mô tả về chư
thần trong thân thể con người (nhân thân chư thần 人身諸神) này rất chi
tiết và chiếm phần lớn nhất trong văn bản Huỳnh Đình Kinh. Sự trình bày này và
các lý thuyết liên quan đã ảnh hưởng đến sự phát triển về sau của thuyết nhân
thân chư thần. [3]
Tuy nhiên không
phải thuyết nhân thân chư thần được phát triển đầu tiên trong Huỳnh Đình Kinh,
mà Huỳnh
Đình Kinh cho đến nay được biết đến như là một tác phẩm tối cổ nêu ra danh xưng
chư thần quan trọng nhất trong thân thể con người và mô tả các chức năng của
các ngài.
Từ đời Hán người ta
đã biết đến nhân thân chư thần rồi. Tuy nhiên các lý thuyết dẫn đến sự phát triển
thuyết nhân thân chư thần đã bắt nguồn từ các quan niệm xa xưa về sự hợp nhất
giữa đại vũ trụ (Makrokosmos) và tiểu vũ trụ (Mikrokosmos).
Trong quyển Trung
Quốc Đạo giáo sử 中國道教史, tác giả Phó Cần Gia 傅勤家 đã trình bày sự
phát triển của thuyết chư thần trong thân thể nơi chương Nhân thân trung chi
thần 人身中之神 (thần ngụ trong thân thể con người) như sau: «Thái Bình Kinh 太平經 đã
nói rõ nhân thân chư thần. Thiên Tinh thần huấn 精神訓 của quyển Hoài Nam Tử 淮南子 đã phân khí làm hai loại thần: âm và dương.
Khí là sinh mệnh của vũ trụ, cũng là hoạt động lực. Theo Đạo giáo, nếu khí bên
trong thân thể con người tương giao qua lại liên tục với khí của vũ trụ, tức là
con người sống. Do đó mới có công phu luyện thổ cố nạp tân 吐故納新 (nhả hơi cũ,
nuốt hơi mới), tức là công phu luyện khí, luyện đan. Rồi họ lại xem khí là
thần; nơi ngũ tạng trong thân thể mỗi tạng đều có thần lai vãng. Cho nên muốn
sống lâu thì phải nhìn thẳng (trực quán 直觀) các vị thần này và phải hợp nhất (đồng thể 同體) với các ngài.»
[4]
Phó Cần Gia cũng
giải thích ở đây sự phát sinh nhân thân chư thần là từ cùng một khí mà khí này
tạo ra nhân thân và vũ trụ. Về khía cạnh khí, Porkert đã giảng rõ trong quyển
Thuật ngữ về Khí trong kinh sách y học Trung Quốc:
«Sự biến đổi của sự sinh hóa đặt nền tảng trên khí.
Trong muôn vật của vũ trụ không có gì mà không phát sinh từ khí. Khí bao trùm
vũ trụ và khí tác động vũ trụ từ bên trong. Khí tác động những thứ khác: mặt
trời, mặt trăng, hành tinh, định tinh chiếu sáng; sấm mưa mây gió hình thành;
vạn vật suốt bốn mùa sinh, trưởng, thu, tàng. Sự hiện hữu của con người hoàn
toàn tùy thuộc vào khí.» [5]
Ta có công thức
ngắn gọn:
Khí = năng lực tạo ra đại vũ trụ.
Khí = năng lực tạo ra tiểu vũ trụ. [6]
Một câu phát biểu
tương tự cũng có thể áp dụng với tinh 精. Haloun cũng nhìn
nhận: «Khí tương đối đơn giản. Ý nghĩa ban đầu chỉ là «không khí» (air), là
«không khí dày dặc» (thick air). Chúng ta có giả thuyết là: Khí là nền tảng vật
chất của vũ trụ (the physical basis of
the universe)... Thuyết của người Trung Quốc là: Khí tác động thông qua một tác
nhân gọi là tinh 精, thường được phiên dịch là «tinh túy»
(essence).» [7]
Trong Quản Tử, sự
tạo thành của tinh đối với vũ trụ và con người được nhấn mạnh rõ hơn: «Tinh của
vạn vật ban cho chúng sự sống. Ở dưới đất thì tinh sinh ra ngũ cốc; ở trên trời
thì tinh là la liệt tinh tú. Khi lưu chuyển giữa trời đất, tinh được gọi là quỷ
thần. Khi tàng chứa nơi ngực của con người, tinh được gọi là thánh nhân.» [8]
Vì rằng khí và tinh
chuyển hóa nhau nên tôi thấy không cần tiếp tục khai triển vấn đề này. Porkert
cũng nhận thấy: «Tinh hóa thành khí (Tinh hóa vi khí 精化為氣).» và «Khí hóa
thành tinh (khí hóa vi tinh 氣化為精).» [9]
Hai câu trên đưa
đến kết luận rằng vũ trụ và thân thể con người được tạo thành bằng những chất
liệu giống nhau. Nhưng điều này chưa thể dẫn đến kết luận rằng chư thần trong
nhân thể phát sinh từ cơ sở của các giả thiết trên, mà điều này chỉ dẫn đến
quan niệm về sự thống nhất giữa đại vũ trụ và tiểu vũ trụ. Về khía cạnh này,
Phó Cần Gia đã bảo: «... tức là tạng phủ đều có thần. Theo Đạo giáo, con người
được xem là một tiểu thiên địa, cho nên thần trong trời đất đều hiện hữu trong
thân thể con người chúng ta.» [10]
Phó Cần Gia chỉ nêu
ra mà không giải thích điều này. Tôi muốn thử chỉ ra mối liên hệ giữa đại vũ
trụ và tiểu vũ trụ và thử giải thích chư thần trong thân thể con người đã phát
sinh như thế nào.
Thiên Thiên văn
huấn 天文訓 trong Hoài Nam Tử đã giảng: «Các khiếu (lỗ) và tứ chi của nhân thể
đều có liên hệ với trời. Trời có cửu trùng (trung ương và 8 hướng) thì người có
cửu khiếu. Trời có bốn mùa để bố trí thứ tự 12 tháng thì người có tứ chi để
điều khiển 12 quan tiết.
Trời có 12 tháng để xếp thứ tự 360 ngày thì người có 12 quan tiết để điều khiển
360 lóng xương và khớp xương. Cho nên khi làm việc mà ai không thuận theo trời
tức là đi ngược lại sự sống của bản thân.» [11]
Thiên Tinh thần
huấn 精神訓 trong Hoài Nam Tử còn
giảng chi tiết hơn về sự thống nhất giữa trời và người: «Cho nên đầu tròn tượng
trưng trời, chân vuông tượng trưng đất. Trời có bốn mùa, ngũ hành, cửu giải,
360 ngày; người cũng có tứ chi, ngũ tạng, cửu khiếu, 360 lóng xương. Trời có
gió, mưa, lạnh, nóng; người cũng có tiếp nhận, cho tặng, vui vẻ, giận dữ. Thế
nên, mật là mây, phổi là khí, gan là gió, thận là mưa, tỳ là sấm, để người cùng
kết hợp với trời đất.» [12]
Bên cạnh những «đức
tính» của trời, sự phân chia bầu trời thành từng vùng [13] cũng phóng rọi vào
con người. Rõ rệt nhất là thí dụ về nhật nguyệt và các hành tinh. Chúng không
chỉ được xem là các hiện tượng thiên nhiên mà còn được xem là hệ thống thứ tự
các thiên quan 天官. Theo Karlgren, chữ quan 官 này là: «Nơi công
thự, công sở (official’s residence,
office); chức việc hành chánh (public charge); quan lại (official, officer);
chức vụ (function), thi hành chức năng (to function).» [14]
Lời chú của Sách ẩn
索隱
về thuật ngữ thiên quan 天官 [15] nơi quyển 27 (Thiên quan thư 天官書) của Sử
Ký Tư Mã Thiên đã
giải rằng: «Thiên văn có 5 quan. Quan tức là tinh quan. Chòm sao (tinh tòa) có
tôn ti, nên những quan nơi con người cũng có địa vị khác nhau. Thế gọi là thiên
quan.» [16]
Trong tác phẩm Tuân
Tử 荀子, các thiên quan được chuyển sang cho con người: «Chức vụ của trời đã xác lập, công việc của trời đã
thành, hình đủ thì thần sinh. Ưa, ghét, mừng, giận, thương, vui được chứa cả
trong đó, thế gọi là thiên tình 天情 (tình cảm tự nhiên được trời phú bẩm). Tai,
mắt, miệng, mũi, hình thể đều có thể giao tiếp với bên ngoài nhưng không thể thay thế nhau, thế gọi là
thiên quan 天官. Tâm ở giữa, hư tĩnh, để làm chủ ngũ quan, thế gọi là thiên quân 天君.»
[17]
Quan niệm tương tự
trên đây cũng thấy xuất hiện nơi chương 13 của Quản Tử: «Trong thân thể con
người, tâm là chủ tể. Nhiệm vụ của cửu khiếu là thể hiện các chức năng biệt lập
của các quan năng. Tai và mắt là các giác quan để nghe và nhìn.» [18]
Các quan niệm trên
được Lương Khâu Tử 梁邱子 lập lại trong Huỳnh Đình Ngoại Cảnh: «Mắt
trái là mặt trời (thái dương); mắt phải là mặt trăng (thái âm). » [19]
Trong Hoàng Đế Nội
Kinh Tố Vấn 黃帝內經素問, 12 bộ phận cơ thể được mô tả chi tiết là
12 quan: «Tâm là cơ quan của vua chúa, là nơi thần minh xuất ra. Phổi là cơ
quan của đại tướng, ban ra sự trật tự và điều tiết. Gan là cơ quan của tướng quân, đề ra chiến lược và kế hoạch. Mật là
cơ quan trung chính, cho ra sự quyết đoán. Trong lồng ngực là cơ quan của thần
sứ, phát ra vui vẻ sung sướng. bao tử và lá lách là kho lúa gạo, phát ra năm
vị. Ruột già là cơ quan truyền đi vật uế tạp, biến hóa chúng. Ruột non là cơ
quan nhận lấy nhiều tạp chất để đưa vào ruột già, biến hóa chúng. Thận là cơ
quan làm việc mạnh mẽ, phát sinh kỹ xảo. Tam tiêu là cơ quan dẫn lối âm dương
khai thông ngòi nước cho khỏi bế tắc, nước từ đó thoát ra. Bàng quang (bọng
đái) là cơ quan quản lý thủ đô và châu quận, nước tàng chứa ở đây.» [20]
Những thí dụ ít ỏi
trên đây đã minh xác rằng: trên cơ sở là sự thống nhất giữa đại vũ trụ và tiểu
vũ trụ, các thiên quan trên trời cũng hiện hữu dưới đất và nơi thân thể con
người.
Thiên quan, tức là
các tinh tú, là nơi thần minh cư ngụ: «Nơi cung giữa là sao Thiên cực, là nơi sáng nhất, vốn
là nơi thường trú của thần Thái Nhất.» [21]
Vì thiên quan có
thần minh cư ngụ, nên thiên quan tương ứng ở con người cũng có thần minh cư
ngụ. Quản Tử nói: «Có thần trú nơi thân thể con
người, thần có lúc cũng đi, có lúc cũng đến. Nhưng không ai biết được điều này.
Khi mất thần, con người mê loạn.»
[22]
Quan niệm cụ thể về
nhân thân chư thần đã thấy vào đời Hán, qua lời chú của Hà Thượng Công về «Cốc
thần» 谷神 trong Lão Tử Đạo Đức Kinh:
«Cốc là nuôi dưỡng. Nếu con người có thể
nuôi dưỡng thần thì họ sẽ bất tử. Thần đây là thần của ngũ tạng. Thần của gan
là hồn 魂, thần của
phổi là phách 魄, thần của tim là thần 神, thần của thận là tinh 精, thần của tỳ
là chí 志, ngũ tạng bị thương tổn hết thì năm thần này xuất ra khỏi nhân thể.» [23]
Sự liên hệ ngũ tạng
với ngũ thần (gan-hồn, phổi-phách, tim-thần, thận-tinh, tỳ-chí) được nêu ra
trên đây cũng tương đồng với quan niệm của y học Trung Quốc. [24]
Thần của ngũ tạng
có liên hệ mật thiết với thần của bốn mùa và thần của ngũ hành. Thái Bình Kinh 太平經 có nói như vậy, nhưng không kể chi tiết tên của các vị thần
này:
«Thần của bốn mùa và thần của ngũ hành khi nhập vào
thân thể con người thì thành chư thần của ngũ tạng, khi xuất ra thì trở thành
thần của bốn mùa và thần của ngũ hành.» [25]
Thái Bình Kinh cũng
nói như vậy ở một đoạn khác:
«Khí của bốn mùa và ngũ hành nhập vào bụng
của con người thì sinh ra chư thần của ngũ tạng, có màu sắc tương ứng với màu
sắc của bốn mùa và trời đất.» [26]
Chư thần (ở đây gọi
là «kỵ thần» 騎神) của trung ương và bốn phương hướng được mô tả
trong Thái Bình Kinh như sau:
«Kỵ thần
hướng đông cầm cây mâu, kỵ thần hướng nam cầm cây kích, kỵ thần hướng tây cầm
cung nỏ và cái rìu, kỵ thần hướng bắc cầm cái thuẫn mạ vàng và cây đao, kỵ thần
trung ương cầm kiếm và cái trống. Khi nghĩ đến các vị thần này thì trước tiên
hãy nhìn vào chư thần trong thân mình (nội thần) và hãy nhìn chư thần bên ngoài
mình (ngoại thần); hoặc trước tiên nhìn dương thần, sau đó nhìn nội thần.» [27]
Những quan niệm
xuyên qua ít ví dụ nêu trên đã được khai triển rộng hơn vào đời Đông Hán: Số
lượng chư thần trong nhân thể phát triển đến 36000 vị; những vị thần quan trọng
nhất được mô tả cụ thể về danh xưng, chức vụ, vóc dáng, y phục. Maspero đã viết
rõ: «Thực sự toàn thân con người tràn ngập thần linh. Không những mỗi đan điền,
mỗi tạng, mỗi phủ đều có ít nhiều thần linh mà mọi cơ quan hay nói đơn giản là
mọi thứ có vẻ có nhân tính đều hình thành một thực thể biệt lập, như mắt, tai,
tóc, v.v. Mỗi vị thần này đều có tên họ, biệt hiệu, tước vị. Thần có y phục,
nơi cư ngụ, chức nghiệp, và vai trò trong sự hài hòa chung của sự sống của thân
thể đó.» [28]
Có nhiều phương
hướng khác nhau trong sự phát triển chư thần trong nhân thể: «Nhưng trong tất
cả chư thần trong nhân thể này, người ta phân biệt ngay hai loại khác nhau: một
loại đơn thuần liên quan các bộ phận của thân người (ordre purement
physiologique)… và một loại thần liên quan đến bản thể vũ trụ (ordre
ontologique).» [29]
Loại thần thứ hai
này phân làm hai nhóm: một nhóm ứng với 24 khí tiết và một nhóm được tạo sinh
theo cửu thiên 九天. [30]
Trong loại thần liên
quan đến các bộ phận của thân thể con người (die physiologischen Gottheiten),
ta thấy có 7 vị thần đầu, 5 vị thần của ngũ tạng, và 6 vị thần của lục phủ. Đại
Đỗng chân kinh 大洞真經 còn đặc biệt phát triển tiếp số chư thần
này: từng bộ phận được ấn định có thêm nhiều vị thần nữa. Nhưng số chư thần
được nêu ra trong Đại Đỗng chân kinh thì khác xa với số chư thần được nêu trong
các đạo thư hay đạo
kinh tương tự về sau đến nỗi người ta không thể suy đoán được.
Để minh họa
điều này, tôi trích dẫn Lão Tử Trung Kinh 老子中經:
«8 vị thần
phổi (phế thần) là Thái Hòa Quân 太和君, tên gọi [ở] phủ
Thượng Thư 尚書 của Ngọc Chân Cung 玉真宮.
Các quan tùy tùng
có 3600 người, cỡi chiếc xe bằng khí mây trắng, do bạch hổ kéo hoặc họ cỡi bạch
long (rồng trắng).
9 vị thần tim (tâm
thần) là Thái Úy Công 太尉公, gọi là Nguyên Quang 元光, Thái Thủy Nam Cực
Lão Nhân 太始南極老人, ở Giáng Cung 絳宮.
Các quan tùy tùng
có 3600 người, cỡi chiếc xe bằng khí mây đỏ; chim đỏ tạo thành cái lọng trên
xe, rắn đỏ làm thành tay nắm. Xe do chim đỏ kéo hoặc họ cỡi xích long (rồng
đỏ.) 7 vị thần gan (can thần) là Lão Tử Quân 老子君, tên gọi [ở] phủ
Lan Đài 蘭臺 của Minh Đường Cung 明堂宮.
Các quan tùy tùng
có 3600 người, cỡi chiếc xe bằng khí mây xanh, do rồng xanh kéo hoặc họ cỡi nai
trắng. 5 vị thần mật (đảm thần) là Thái Nhất Đạo Quân 太一道君, cư ngụ nơi Tử
Phòng Cung 紫房宮.
Họ cỡi chiếc xe
bằng khí mây màu ngọc, trên có cái lọng che ngũ sắc, do 6 con rồng bay kéo. Các
quan tùy tùng có 3600 người.» [31]
Về chư thần khác
của đầu và các bộ phận trong thân, Lão Tử Trung Kinh còn cho những chi tiết
tương tự.
Loại thần liên quan
đến bản thể vũ trụ (ontologische Gottheiten) tương ứng với 24 khí tiết được
Maspero mô tả như sau:
«Một
nhóm thần nổi tiếng khác là 24 thần (nhị thập tứ thần) mà mỗi vị cùng một lúc
vừa cai quản một bộ phận trong thân thể con người vừa ứng với 24 khí tiết. Nơi
thân thể con người (=tiểu vũ trụ), 24 khí tiết là 24 vòng tròn chồng lên nhau,
phân đều từ đỉnh đầu xuống lòng bàn chân; và trong đại vũ trụ, chúng là 24 nửa
tháng dương lịch do một năm được chia ra, sao cho tiết Hạ Chí là ngay đỉnh đầu,
tiết Thu Phân và Xuân Phân là ngay rốn, và tiết Đông Chí là ở bàn chân.» [32]
Sự phân loại thông
thường nhất là 3x8=24 thần căn cứ vào 3 bộ (tam bộ 三部 = đầu, ngực,
bụng) của thân thể con người. Mỗi bộ có 8 cảnh thần.
Thượng bộ bát cảnh thần 上部八景神 gồm có:
1. Thần não (não thần 腦神) tên Giác Nguyên Tử 覺元子, tự Đạo Đô 道都;
2. Thần tóc (phát thần 髮神) tên
Huyền Phụ Hoa 玄父華, tự Đạo Hành 道衡;
3. Thần da (bì phu thần 皮膚神) tên
Thông Chúng Trọng 通眾仲, tự Đạo Liên 道連;
4. Thần mắt (mục thần 目神) tên Linh
Giám Sinh 靈監生, tự Đạo Đồng 道童;
5. Thần tủy ở cổ (hạng tủy thần 項髓神)
tên Linh Mạc Cái 靈膜蓋, tự Đạo Chu 道周;
6. Thần xương sống (lữ thần 膂神)
tên Ích Lịch Phụ 益歷輔, tự Đạo Trụ 道柱;
7. Thần mũi (tỵ thần 鼻神) tên
Trọng Long Ngọc 仲龍玉, tự Đạo Vi 道微;
8. Thần lưỡi (thiệt thần 舌神)
tên Thủy Lương Trĩ 始梁峙, tự Đạo Kỳ 道岐.
Trung bộ bát cảnh thần 中部八景神 gồm có:
1. Thần yết hầu (hầu thần 喉神) tên Bách Lưu Phóng 百流放, tự Đạo Thông 道通;
2. Thần phổi (phế thần 肺神) tên Tố
Linh Sinh 素靈生, tự Đạo Bình 道平;
3. Thần tim (tâm thần 心神) tên Hoán
Dương Xương 煥陽昌, tự Đạo Minh 道明;
4. Thần gan (can thần 肝神) tên Khai
Quân Đồng 開君童, tự Đạo Thanh 道清;
5. Thần mật (đảm thần 膽神) tên Đức
Long Câu 德龍拘, tự Đạo Phóng 道放;
6. Thần thận trái (tả thận thần 左腎神)
tên Xuân Nguyên Chân 春元真,
tự Đạo Khanh 道卿;
7. Thần thận phải (hữu thận thần 右腎神)
tên Tượng Tha Vô 象他無, tự Đạo Ngọc 道玉;
8. Thần tỳ (tỳ thần 脾神) tên Bảo
Nguyên Toàn 寶元全, tự Đạo Khiên 道騫.
Hạ bộ bát cảnh thần 下部八景神 gồm có:
1. Thần bao tử (vị thần 胃神) tên Đồng Lai Dục 同來育, tự Đạo Triển 道展;
2. Thần ruột cùng (cùng trường thần 窮腸神)
tên Triệu Đằng Khang 兆騰康, tự Đạo Hoàn 道還;
3. Thần ruột già và ruột non (đại tiểu trường thần 大小腸神) tên Bồng Tống Lưu 蓬送留, tự Đạo Trù 道廚;
4. Thần trong ruột (động trung thần 胴中神)
tên Thụ Hậu Bột 受厚勃,
tự Đạo Hư 道虛;
5. Thần hoành cách mô (hung cách thần 胸膈神) tên Quảng Anh Trạch 廣英宅, tự Đạo Trung 道中;
6. Thần hai hàng xương sườn (lưỡng lặc thần 兩肋神) tên Tịch Giả Mã 辟假馬, tự Đạo Thành 道成;
7. Thần tả dương (tả dương thần 左陽神)
tên Phù Lưu Khởi 扶流起, tự Đạo Khuê 道圭;
8. Thần hữu âm (hữu âm thần 右陰神)
tên Bao Biểu Minh 包表明, tự Đạo Sinh 道生. [33]
Tên 28 vị thần này
không thống nhất với tên các thần thuộc nhóm liên quan các bộ phận của thân
người (physiologische Gottheiten) [đã kể trong Lão Tử Trung Kinh].
Chư thần liên quan bản thể
vũ trụ (ontologische Gottheiten) tương ứng với Cửu thiên 九天 đã bắt nguồn từ
một thuyết của Trung Quốc về sự sáng thế:
«Cửu thiên có vai trò quan trọng trong
việc tạo dựng thế giới và cửu thiên sinh trưởng trong thân người. » [34]
Cửu thiên ở đây là
9 khí hình thành thế giới. Các khí này bắt nguồn từ nguyên khí 元氣. Trước tiên
nguyên khí phân làm 3 khí, rồi phân thành 9 khí:
«Cửu khí biến đổi một loạt . Mặt trời, mặt trăng, tinh
tú, âm dương, ngũ hành, đều tiếp nhận sự sống từ cửu khí.» [35]
Trong thân thể con
người, cửu khí hay cửu thiên thể hiện ra là cửu cung 九宮. Cửu cung tọa lạc
nơi mỗi ba bộ phận. Cửu cung nơi thượng bộ (=đầu) thường được mô tả chi tiết,
còn cửu cung nơi trung bộ (=mình) và hạ bộ (=phần dưới) thì chưa được biết rõ. Chỉ trong một văn bản duy nhất sau
đây là Thượng Dương Tử Kim đan đại yếu 上陽子金丹大要, tôi tìm
thấy sự mô tả chi tiết về cửu cung ở trung bộ:
«Tim
(nơi thần cư ngụ) là Giáng tiêu cung 絳霄宮.
Thận (nơi thần cư ngụ) là Đan nguyên cung 丹元宮. Gan (nơi thần
cư ngụ) là Lan đài cung 蘭臺宮. Phổi
(nơi thần cư ngụ) là Thượng thư cung 尚書宮. Tỳ (nơi thần cư ngụ) là Huỳnh đình
cung 黃庭宮. Mật (nơi thần cư ngụ) là Thiên hoằng cung 天霐宮. Ruột non (nơi thần cư
ngụ) là Huyền linh cung 玄靈宮. Ruột già (nơi thần cư ngụ) là Mộc
linh cung 木靈宮. Bàng quang (nơi
thần cư ngụ) là Ngọc phòng cung 玉房宮.» [36]
Văn bản đời Nguyên
trên đây rõ ràng là một cố gắng muộn màng nhằm hệ thống hóa cửu cung nơi trung
bộ thân người. Qua sự tổng kết các cơ quan của trung bộ và hạ bộ nhưng lược bỏ
cửu cung nơi hạ bộ, sự cố gắng này không có giá trị gì.
Huỳnh Đình Kinh có sự đặc biệt: với tư cách là một đạo kinh
xưa nhất nói về chư thần trong thân thể con người, kinh này dung chứa cả ba sự
khai triển đã nêu trên đây. Trọng tâm của sự mô tả này là chư thần liên quan
đến các bộ phận trong thân người (physiologische Gottheiten). Trong Huỳnh Đình
Nội Cảnh Kinh, thần ở đầu được liệt kê danh tính ở chương 7 (Chí đạo 至道) và các thần ngũ tạng được liệt kê danh tính ở
chương 8 (Tâm thần 心神), nhưng các thần lục phủ thì không kể danh tính ra. Gần
phân nửa của Huỳnh Đình Nội Cảnh Kinh mô tả tỉ mỉ nhất về chư thần ngũ tạng.
[37]
Ở đây tôi muốn nêu
ra một sự khai triển đặc biệt các thần lục phủ theo quan niệm đời Tống: «Theo
một quyển sách khuyết danh tác giả vào đời Tống đã minh họa, mỗi phủ trong lục
phủ của thân người được cho rằng có động vật cư ngụ. Hổ trắng ở phổi, rắn và
rùa ở mật, rồng ở gan, phượng hoàng ở tỳ, chim đỏ ở tim, nai hai đầu ở thận.»
[38]
Thần phổi có hình hổ
trắng
Thần mật có hình rắn và rùa
Thần gan có hình rồng
Thần tim có hình chim đỏ
Thần thận có hình nai hai đầu
Ở đây danh xưng chư
thần ngũ tạng nêu trong Huỳnh Đình Kinh được mô tả thêm hình dáng qua sự trình
bày của Hồ Âm 胡愔 trong Huỳnh Đình Nội Cảnh Ngũ Tạng Lục Phủ Đồ
黃庭內景五臟六腑圖.
Nhóm chư thần tương
ứng với 24 tiết khí được mô tả như sau trong Huỳnh Đình Nội Cảnh chương 23:
«Phép đối trị sự sống thật đơn giản: chỉ cần học theo sách Động Huyền [của Lão
Quân] và sách Ngọc Thiên (tức Huỳnh Đình Kinh).
Ngoài ra,
trong thân hình có bát cảnh thần [ở mỗi bộ trên, giữa, dưới], thống nhiếp khí
toàn thân thì 24 vị thần này hiện ra.» [39]
Sự giải thích chư
thần liên quan đến 24 tiết khí không phải duy nhất chỉ có ở sách này. Chẳng hạn
Lãnh Khiêm 泠謙 trong Huỳnh Đình Kinh Bí Nghĩa đã giảng rằng
bát cảnh tương ứng với bát quái tức là 8 quẻ cơ bản để hình thành 64 quẻ kinh Dịch.
Còn 24 chân nhân
ứng với 24 hào âm và dương của bát quái. [40] Ngoài ra người ta cũng có thể
giải 24 chân nhân này ứng với 24 tiếng đồng hồ của một ngày (bát cảnh thần ứng
với 8 tiếng, nhân với 3 [sáng, chiều, tối] là 24 thần).
Về các thần tương
ứng với cửu cung của trời, chương 7 của Nội Cảnh đã viết: «Chư
thần nơi mặt đều lấy nê hoàn làm tông chủ, [trời có cửu cung mà người cũng thế]
nên nê hoàn [ở trung cung] và 8 cung xung quanh đều có 9 vị thần.» [41]
Đến đây, vấn đề vẫn
còn chưa giải quyết xong: Chư thần
trong thân thể con người để phục vụ mục đích gì?
Theo quan niệm của Thái Bình Kinh, khi chư thần tồn tại trong
thân người mà không bị thương tổn thì con người ta khỏe mạnh, nếu chư thần rời
bỏ thân ta thì ta bệnh hoạn và chết: «Cho nên thần gan đi mất mà không trở về
thân ta, thì mắt ta không sáng. Khi thần tim đi mất thì môi ta xanh tái. Khi
thần phổi đi mất thì mũi ta bị nghẹt. Khi thần thận đi mất thì tai ta điếc. Khi
thần tỳ đi mất thì miệng ta không cảm nhận được vị ngọt. Khi thần đầu đi mất
thì ta mắt ta tối sầm. Khi thần bụng đi mất thì bao tử ta rối loạn, không thể
tiêu hóa thực phẩm. Khi thần tứ chi đi mất thì ta không thể cử động và di
chuyển được.» [42]
Tuy nhiên, khi chư
thần vẫn tồn tại trong thân thể con người thì, theo Thái Bình Kinh mô tả, người
ta sẽ có tình trạng như sau: «Khi
chư thần tồn tại trong thân thể ta, ta sẽ cảm thấy tươi vui, sẽ cảm thấy hạnh
phúc và không truy cầu tài bảo hay ganh đua với đời. Vì không ham danh lợi, sau
một thời gian dài, ta sẽ trông thấy hình ảnh chư thần.» [43]
Sau đó, điều quan
trọng đối với sức khỏe con người chính là tam trùng 三蟲 – kẻ thù tự nhiên của con người cũng như của nhân
thân chư thần – sẽ bị tiêu diệt thông qua sự hành khí và phục thực đúng đắn.
Tam trùng cư ngụ nơi ba bộ phận của con người.
Kaltenmark viết:
«Thượng trùng tấn công mắt và gây tai hại cho đầu. Trung trùng hại bụng và
ruột. Hạ trùng gây bệnh thận, làm cạn tinh tủy, làm khô xương, gây thiếu máu.»
[44]
Tam trùng được mô
tả tỉ mỉ chi tiết và sinh động trong Thái Thượng Trừ Tam Thi Cửu Trùng Bảo Sinh
Kinh 太上除三尸九蟲保生經:
«Thượng trùng Bành Cư 彭琚 có tên trẻ con là A Ha 阿呵 ở trong đầu con
người. Nó tấn công nê hoàn tức thượng đan điền, khiến cho người ta cảm thấy
nặng đầu, mắt tối sầm, khóc chảy nước mũi, tai điếc, răng rụng, miệng hôi,
khuôn mặt nhăn nheo. Nó làm con người mê loạn, yêu thích xe ngựa, say mê âm
nhạc và nữ sắc...
Trung trùng Bành Chất 彭質 có tên trẻ con là Tác Tử 作子, yêu thích ngũ
sắc và ngũ vị. Nó cư ngụ nơi tim và bao tử con người. Nó tấn công tử cung (cung
màu đỏ) và trung tiêu, khiến con người nhầm lẫn và mất trí nhớ. Nó làm giảm
tinh. Khi khí sinh ra, tai họa đến. Mặt khác, nó gây sầu não. Khi âu lo thái quá, miệng khô, mắt trắng,
răng sâu. Ngày đêm nó làm hại lục phủ ngũ tạng. Nó gây ra bệnh tật. Do nó mà
người ta ngủ nhiều và thấy ác mộng...
Hạ trùng Bành Kiểu 彭矯 có tên trẻ con là Lý Tế 李細, cư ngụ nơi bụng
và chân con người. Nó làm hại
khí hải đến nỗi khô cạn và làm cho bách bệnh sinh ra. Nó xúi con người trộm
cướp, ham mê nữ sắc, danh vọng, và ham mê trụy lạc, gây tác hại. Người ta không
thể cản được nó làm hại sinh mệnh của họ. Nó khiến con người kết hợp với ma
quỉ, quay lưng với cuộc sống, cận kề cái chết, cạn kiệt tinh khí. Nó làm khô
tủy, cơ bắp đau nhức, thịt nóng hực, ý chí bạc nhược, thân thể trống rỗng, mông
nặng nề, bàn chân và đầu gối rã rời. Nước tiểu và xú khí thoát ra, và dần dần
tai họa đến...» [45]
Tam thi
(tam trùng) 三尸(三蟲)
Tam trùng đã xuất
hiện từ đời Đông Hán, như trong tác phẩm Luận Hành 論衡 của Vương Sung 王充
đã chép: «Người ta có tam trùng trong ruột. Côn trùng sống nơi đầm lầy gọi là
con đỉa. Chúng ăn chân người, còn ở con người thì tam trùng ăn ruột.» [46]
Về sau, do ảnh
hưởng của thuyết về chư thần tương ứng với cửu thiên, người ta lại phân biệt xa
hơn nữa là tam thi cửu trùng (cũng là kẻ thù của con người). Về cửu trùng thì
Thái Thượng Trừ Tam Thi Cửu Trùng Bảo Sinh Kinh cũng đã mô tả sinh động.
Chư thần trong thân thể con
người là đối tượng của tĩnh tọa, gọi là nội quán 內觀: «Nội quán cũng cho phép người
ta nhìn thấy các thần trong thân thể... Nhiều đạo kinh đã mô tả chính xác chư
thần này, nêu ra danh tánh của thần và thường cho biết hình dáng của thần để dễ
nhìn thấy và giao tiếp với thần.»
[47]
Tuy chư thần theo
quan niệm của Đạo giáo là có cung điện cả trên trời lẫn dưới đất, nhưng chư
thần không thường trú nơi đó, mà luôn dạo chơi khắp nơi, nên thật là khó khăn
cho các đạo sĩ được giao tiếp với chư thần. Điều đó cũng là một điều thực dễ
dàng khi đạo sĩ luôn có khả năng giao tiếp chư thần nhờ tham thiền nội quán chư
thần trong thân thể, mà các vị này tương ứng với chư thần trên trời.
Tóm tắt chư thần nơi ba bộ vị của thân thể
I. Thượng bộ 上部
của thân thể:
a/ Chư thần liên quan các bộ phận thân thể theo Huỳnh Đình Kinh:
1- Thần Tóc = Thương Hoa 蒼華
2- Thần Trán = Tinh Căn 精根
3- Thần Mắt = Minh Thượng 明上
4- Thần Mũi = Ngọc Lũng 玉壟
5- Thần Tai = Không Nhàn 空閑
6- Thần Lưỡi = Thông Mệnh 通命
7- Thần Răng = Ngạc Phong 崿鋒
b/ Chư thần liên quan 24 khí tiết (Đạo
Tạng 1051/W1388: 洞玄靈寶二十四生圖經 Động Huyền Linh Bảo Nhị Thập Tứ Sinh
Đồ Kinh)
1- Thần Tóc = Huyền Phụ Hoa 玄父華
2- Thần Trán = Giác Nguyên Tử 覺元子
3- Thần Mắt = Hư Giám 虛監
4- Thần Mũi = Trọng Long Tử 仲龍子
5- Thần Lưỡi = Thủy Lương Trĩ 始梁峙
6- Thần Da = Thông Tượng Trọng 通象仲
7- Thần Tủy xương sống = Linh Mô Cái 靈謨蓋
8- Thần Xương sống = Ích Lịch Chuyển 益歷轉
c/ Chư thần liên quan cửu cung:
1- Chư thần cung Minh Đường 明堂: ở giữa là Minh Kính Thần
Quân 明鏡神君; bên trái là
Minh Đồng Chân Quân 明童真君; bên phải là Minh Nữ Chân Quân 明女真君. [48]
2- Chư thần cung Động Phòng 洞房: ở giữa là Hoàng Lão Quân 黃老君; bên trái là
Nguyên Anh Quân 元英君; bên phải là Nguyên Bạch Quân 元白君. [49]
3- Chư thần cung Nê Hoàn 泥丸: bên trái là Thượng Nguyên Xích Tử 上元赤子; bên
phải có Đế Hương 帝鄉 (chỉ có 2 thần đồng cư). [50]
4- Chư thần cung Lưu Châu 流珠: Lưu Châu Chân Quân 流珠真君. [51]
5- Chư thần cung Ngọc Đế 玉帝: Ngọc Thanh Thần Mẫu 玉清神母. [52]
6- Chư thần cung Thiên Đình 天庭:
Thượng Thanh Chân Nữ 上清真女
7- Chư thần cung Cực Chân 極真: Thái Cực Đế Phi 太極帝妃.
8- Chư thần cung Huyền Đan 玄丹: Trung Hoàng Thái Ất Chân Quân 中黃太乙真君. [53]
9- Chư thần cung Thái Hoàng 太皇: Thái Thượng Quân Hậu 太上君后.
II. Trung bộ 中部
của thân thể:
a/ Chư thần liên quan các bộ phận thân thể theo Huỳnh Đình
Kinh:
1- Thần Tim = Đan Nguyên 丹元
2- Thần Phổi = Hạo Hoa 皓華
3- Thần Gan = Long Yên 龍湮
4- Thần Thận = Huyền Minh 玄明
5- Thần Tỳ = Thường Tại 常在
6- Thần Mật = Long Diệu 龍曜
b/ Chư thần liên quan 24 khí tiết (theo Đạo Tạng 1051/W1388: Động Huyền Linh Bảo
Nhị Thập Tứ Sinh Đồ Kinh 洞玄靈寶二十四生圖經)
1- Thần Tim = Hoán Dương Xương 煥陽昌
2- Thần Phổi = Tố Linh Sinh 素靈生
3- Thần Gan = Khai Quân Đồng 開君童
4- Thần Thận trái = Xuân Nguyên Quân 春元君
5- Thần Thận phải = Tượng Tha Vô 象他無
6- Thần Tỳ = Bảo Vô Toàn 寶無全
7- Thần Mật = Long Đức Câu 龍德拘
8- Thần Cuống họng = Bách Lưu Phóng 百流放
c/ Chư thần liên quan cửu cung: (không có)
III. Hạ bộ 下部
của thân thể:
a/ Chư thần liên quan các bộ phận thân thể theo Huỳnh Đình Kinh:
- Thần Mật = Long Diệu 龍曜
b/ Chư thần liên quan 24 khí tiết (theo
Đạo Tạng 1051/W1388: Động Huyền Linh Bảo Nhị Thập Tứ Sinh Đồ Kinh 洞玄靈寶二十四生圖經)
1- Thần Bao Tử = Đồng Lai Dục 同來育
2- Thần Ruột già ruột non = Bồng Tống Lưu 蓬送留
3- Thần Ruột thừa = Phi Đằng Khang 非騰康
4- Thần Đầu ruột = Thụ Hậu Bột 受厚勃
5- Thần Cách (Zwerchfell: diaphragm: cơ hoành) = Quảng Anh Trạch 廣瑛宅
6- Thần Mông = Tịch Giả Mã 辟假馬
7- Thần Tả dương = Phù Lưu Khởi 扶流起
8- Thần Hữu âm = Bao Biểu Minh 包表明
Minh
Đường theo
Nguyệt lệnh trong Lễ Ký
Thật ra có nhiều
thuyết khác nhau về Minh Đường. Theo Nguyệt Lệnh 月令 trong Lễ Ký 禮記,
Minh Đường có 9 cung: cung giữa
là Thái Miếu 太廟 hay Thái Thất 太室; 3 cung phía Nam thì chính giữa là Minh Đường, hai
bên là tả cá 左個 và hữu cá 右個; 3 cung phía Bắc thì chính giữa là là Huyền Đường
玄堂, hai bên là tả cá và hữu cá; 3 cung phía Đông thì chính giữa là là Thanh Dương 青陽, hai bên là tả cá
và hữu cá; 3 cung phía Tây thì chính giữa là là Tổng Chương 總章, hai bên là tả
cá và hữu cá. Cung Minh Đường ở phía Nam được lấy làm tên chỉ cho 9
cung. 9 cung này có 36 cửa một cánh (hộ 戶) và 72 cửa sổ (dũ 牖), và mái lợp bằng cỏ mao 茅. (xem: Từ Hải, tr.
632)
Theo Đạo giáo, Minh
Đường là một trong 9 cung nằm trong đầu não. Từ giữa 2 chân mày đi vào một thốn
寸
là Minh Đường, vào một thốn 寸 nữa là Động Phòng. Đái Nguyên Trường, Tiên học từ
điển, Chân Thiện Mỹ xuất bản xã, Đài Bắc, 1970, tr. 94, giải: «Tại Trùng Lâu chi hạ,
Động Phòng chi thượng, vi Hạ Minh Đường, mi tâm nội nhất thốn, vi Thượng Minh
Đường, Minh Đường Động Phòng, quân hữu thượng hạ nhị xứ, cố đặc tường chi.» 在重樓之下,洞房之上,為下明堂,眉心內一寸,為上明堂,明堂洞房,均有上下之處,故特詳之.
(Dưới Trùng Lâu và bên trên Động
Phòng là Hạ Minh Đường, từ mi tâm [=giữa 2 chân mày] đi vào trong 1 thốn là
Thượng Minh Đường. Minh Đường và Động Phòng đều có 2 phần thượng và hạ, do đó
phải đặc biệt hiểu rõ chúng.)
Nơi mục từ Nê Hoàn,
Đái Nguyên Trường (sđd, tr. 99) nói thêm: «Chính lưỡng nhĩ giao thông chi
huyệt, tiền Minh Đường, hậu Ngọc Chẩm.» 正兩耳交通之穴前明堂後玉枕 (Ngay
nơi huyệt giao thông giữa hai tai thì phía trước là Minh Đường, phía sau là
Ngọc Chẩm.)
[49] [LAM chú]
Homann chép nhầm: Vô Anh Công Tử 無英公子, Bạch Nguyên Quân 白元君, Hoàng Lão Quân
黃老君.
[50] [LAM chú]
Homann chép nhầm: Thượng Nguyên Xích Tử 上元赤子; Triệu Lặc Tinh
肇勒精.
[51] [LAM chú]
Homann chép nhầm: Lưu Châu Chân Thần 流珠真神, Nhật Nguyệt
Trung Nữ Tử 日月中女子.
[52] [LAM chú]
Homann chép nhầm: Ngọc Thanh Thần Mẫu 玉清神母, Tam Tố Nguyên
Quân 三素元君.
[53] [LAM chú]
Homann ghi chú nhầm: «Không có tên thần ở cung này.» (Name fehlt).
Từ chú thích 48 đến
53, tôi căn cứ quyển Tồn Tưởng Thiên 存想篇 mà điều chỉnh lại
tên chư thần trong bảng tóm tắt
của Homann. (xem: Lục Cẩm Xuyên 陸錦川 chủ biên, Khí Công Truyền Thống Thuật Ngữ Từ
Điển 氣功傳統術語辭典, Tứ Xuyên Khoa Học Kỹ Thuật xbx, 1991, tr. 60) – Tôi đã điều
chỉnh bảng tóm tắt của Homann. Để độc giả tiện tham khảo, tôi cũng trích lại sau đây bảng tóm tắt của ông (tr. 47-51); chỗ
khác biệt đánh dấu là
· :
Schema der drei
Hauptrichtung der Körpergottheiten
(Sơ đồ ba bộ vị
chính có thân nội chư thần)
I. Obere Abteilung des Körpers =Thượng bộ 上部 thân thể:
a/ Physiologische
Gottheiten nach dem Huang-t’ing-ching: Chư thần liên quan các bộ phận thân thể
theo Huỳnh Đình Kinh: 1- Thần Tóc (Haar) = Thương Hoa 蒼華, 2- Thần Trán
(Gehirn) = Tinh Căn 精根, 3- Thần Mắt (Augen) = Minh Thượng 明上, 4- Thần Mũi
(Nase) = Ngọc Lũng 玉壟, 5- Thần Tai (Ohren) = Không Nhàn 空閑, 6- Thần Lưỡi
(Zunge) = Thông Mệnh 通命, 7- Thần Răng (Zähne) = Ngạc Phong 崿鋒.
b/ 24
Halbmonat-Gottheiten: Chư thần liên quan 24 khí tiết: 1- Thần Tóc (Haar) =
Huyền Phụ Hoa 玄父華, 2- Thần Trán (Gehirn) = Giác Nguyên Tử 覺元子,
3- Thần Mắt (Augen) = Hư
Giám 虛監,
4- Thần Mũi (Nase) = Trọng Long Tử 仲龍子, 5- Thần Lưỡi (Zunge) = Thủy Lương Trĩ
始梁峙, 6- Thần Da (Haut) = Thông Tượng Trọng 通象仲, 7- Thần Tủy xương sống (Mark
der Nackenknochen) = Linh Mô Cái 靈謨蓋, 8- Thần Xương sống (Nackenwirbel) = Ích
Lịch Chuyển 益歷轉.
c/
Neun-Himmel-Gottheiten: Chư thần liên quan cửu
cung: 1- Cung Minh Đường 明堂 (Regierungshalle): Minh Đồng Chân Quân 明童真君;
Minh Nữ Chân Quan 明女真官
· ; Minh Kính Quân 明鏡君
· . 2- Cung Động Phòng 洞房 (Grottenzimmer): Vô Anh Công Tử 無英公子
· ; Bạch Nguyên Quân 元白君
· ; Hoàng Lão Quân 黃老君. 3- Cung Nê Hoàn 泥丸 (Zinnoberfeld): Thượng Nguyên Xích Tử 上元赤子; Triệu Lặc Tinh 肇勒精
· . 4- Cung Lưu Châu 流珠 (Fließende Perlen): Lưu Châu Chân Thần 流珠真神
· . 5- Cung Ngọc Đế 玉帝 (Jade-Kaiser): Ngọc Thanh Thần Mẫu 玉清神母; Tam Tố Nguyên Quân 三素元君
· .6- Cung Thiên Đình 天庭 (Himmlische Halle): Thượng Thanh Chân Nữ 上清真女. 7- Cung Cực Chân 極真 (Äußerste Wahrhaftigkeit): Thái Cực Đế Phi 太極帝妃. 8- Cung Huyền Đan 玄丹 (Dunkles Zinnober): Không có tên (Name fehlt). 9- Cung Thái Hoàng 太皇 (Großer Erhabener): Thái Thượng Quân Hậu 太上君后.
II. Mittlere Abteilung = Trung bộ 中部 thân thể:
a/ Physiologische
Gottheiten nach dem Huang-t’ing-ching = Chư thần liên quan các bộ phận thân thể
theo Huỳnh Đình Kinh: 1- Thần Tim (Herz) = Đan Nguyên 丹元; 2- Thần Phổi (Lunge) = Hạo Hoa 皓華; 3- Thần Gan
(Leber) = Long Yên 龍湮; 4- Thần Thận (Nieren) = Huyền Minh 玄明; 5- Thần Tỳ (Milz)
= Thường Tại 常在; 6- Thần Mật (Galle) = Long Diệu 龍曜.
b/ 24
Halbmonat-Gottheiten: Chư thần liên quan 24
khí tiết: 1- Thần Tim (Herz): Hoán Dương Xương 煥陽昌. 2- Thần Phổi
(Lunge): Tố Linh Sinh 素靈生; 3- Thần Gan (Leber): Khai Quân Đồng 開君童; 4- Thần
Thận trái (linke Niere): Xuân Nguyên Quân 春元君; 5- Thần Thận phải (rechte
Niere): Tượng Tha Vô 象他無; 6- Thần Tỳ (Milz): Bảo Vô Toàn 寶無全; 7- Thần Mật (Galle): Long Đức Câu 龍德拘; 8- Thần Cuống
họng (Schlund): Bách Lưu Phóng 百流放.
c/
Neun-Himmel-Gottheiten: Chư thần liên quan cửu
cung (không có)
III. Untere Abteilung des Körpers = Hạ bộ 下部 thân thể:
a/ Physiologische
Gottheiten nach dem Huang-t’ing-ching: Chư thần liên quan các bộ phận thân thể
theo Huỳnh Đình Kinh: 6 Nebeneingeweide (keine Namen der einzelnen Gottheiten):
Lục phủ (không có tên của từng vị thần riêng lẻ), mit Ausnahme der Galle (ngoại
trừ Đảm thần= Thần Mật (Galle):
Long Diệu 龍曜).
b/ 24 Halbmonat-Gottheiten:
Chư thần liên quan 24 khí tiết: 1- Thần Bao Tử (Bauch): Đồng Lai Dục 同來育; 2- Thần Ruột
già ruột non (Dick-und Dünndarm): Bồng Tống Lưu 蓬送留; 3- Thần Ruột thừa
(Darmansatz): Phi Đằng Khang 非騰康; 4- Thần Đầu ruột (Eingeweide): Thụ Hậu Bột
受厚勃; 5- Thần Cách (Zwerchfell: cơ hoành): Quảng Anh Trạch 廣瑛宅; 6- Thần Mông
(Hüften): Tịch Giả Mã 辟假馬; 7- Thần Tả dương (linkes Yang): Phù Lưu Khởi 扶流起; 8-
Thần Hữu âm (rechtes Yin): Bao Biểu Minh 包表明.
c/
Neun-Himmel-Gottheiten: Chư thần liên quan cửu
cung (không có)
HẾT