CỬU TRÙNG ĐÀI:
CƠ QUAN QUẢN TRỊ CÀN KHÔN THẾ GIỚI
.Cửu Trùng Đài: Cơ quan quản trị Càn khôn thế giới*Tìm về 4 vị Chưởng pháp đầu tiên:1-Thái chưởng Pháp2-Thượng Chưởng Pháp: Lão sư Nguyễn văn Tương3-Ngọc Chưởng Pháp: Thái Lão sư Trần văn Thụ.4-Ngọc Chưởng Pháp: Thái Lão sư Trần đạo Quang*Tìm về 4 Đầu sư đầu tiên:1-ĐS. Ngọc Lịch Nguyệt2-Thái Đầu sư: Thái Nương Tinh3-Thượng Đầu sư: Thượng Trung Nhựt4-Thái Đầu sư Thái Minh Tinh
Ngôi vị Giáo Tông nếu vẽ bằng hình sẽ thấy:
Vòng tròn tượng-trưng cho cơ-quan Cửu Trùng-Đài.
Tâm 0 là ngôi-vị Giáo-Tông (giữa vòng tròn).
Dưới quyền Giáo-Tông, hàng Tiên vị có hai con số 3: tượng tam Âm tam Dương. Tam Âm tam Dương là gì?
Như đã nói Tam âm tam Dương sẽ vẽ nên hình sao sáu cánh, tức là do hai hình tam giác đều gát chồng lên nhau, đặt nghịch chiều mà thành. Biểu tượng bằng 3 ngôi Chưởng-Pháp và 3 ngôi Đầu-sư:
- 3 ngôi Chưởng-pháp (là người của Hiệp Thiên Đài, tượng Dương) đỉnh tam giác quay lên.
- 3 ngôi Đầu-sư (Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài, tượng cơ Âm) đỉnh tam giác quay xuống dưới.
Tức là trong Âm có Dương; âm dương tương hiệp, tương đắc, tương-hòa. Từ đó mới biến hằng hà sa số.
Mỗi phẩm có ba phái, trừ ngôi Giáo-Tông chỉ có 1 và Ngài mặc sắc phục trắng. (Hình ảnh Ngài khi mặc phẩm-phục xanh là còn ở ngôi vị Thượng Đầu-sư, là phẩm được thọ phong trước. Sau đó Ngài mới được ân-phong thêm một phẩm mới nữa là Quyền Giáo-Tông tức là Giáo Tông chưa vào chánh vị. Giáo-Tông mặc phẩm-phục trắng
Trên hình vẽ làm biểu-tượng cho thấy:
- Chữ A, tượng ngôi Thượng Chưởng-Pháp.
- Chữ B, tượng ngôi Thái Chưởng-Pháp.
- Chữ C, tượng ngôi Ngọc Chưởng-Pháp.
Như vậy, ngôi Chưởng-Pháp thuộc về Đạo, nên đỉnh Tam-giác quay lên trên.
Ba ngôi Đầu-sư là Đời trong Đạo nên đỉnh tam giác quay xuống phía dưới, do đó:
- A’ là tượng cho ngôi Thượng Đầu-sư.
- B’ là tượng cho ngôi Thái Đầu-sư.
- C’ là tượng cho ngôi Ngọc Đầu-sư.
Ba phái: Thái, Thượng, Ngọc tức là đại diện cho Tam-giáo Phật, Tiên, Thánh trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ..
- Chưởng-Pháp thế quyền cho Hộ-Pháp nơi Cửu Trùng-Đài thuộc về Đạo.
- Đầu-sư đặng quyền thay mặt cho Giáo-Tông và Hộ-Pháp trước mặt nhơn-sanh thuộc về Đời trong Đạo.
Hai hình tam-giác này là tam-giác đều nội tiếp trong
trong vòng tròn, gát chồng lên nhau, tượng trưng lý Âm
Dương, Đạo Đời tương-đắc. Đây là hình ảnh “Một Trời”
Thầy dạy: “Ðạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy” không ngoài ý nghĩa Vạn linh hiệp Chí linh.
Quyền Trời là Chí linh, toàn cả nhơn loại và vạn vật ấy là Vạn linh. Thế nên Vạn linh đối quyền Chí Linh. Qua hình vẽ, hai tam giác đặt thuận nghịch đã nói lên lý Đạo nhiệm mầu ấy là: Trời người đồng trị: Người trị xác, trời trị hồn. Ấy cũng là một Đại Ân xá trong cửa Đạo Cao-Đài ngày nay, nên lúc nào “Mắt Trời”cũng luôn luôn soi xét đến mọi hành tàng của người mà luôn giúp đỡ và bố hóa.
- Tại sao lại đặt chữ Thượng trên đỉnh
của tam giác?
- Bởi Đạo lúc nào cũng lấy trung, chánh làm điểm
yếu-trọng, mà ba phái theo thứ tự thì (Thái chỉ về Phật, bên trái; Thượng chỉ về Tiên ở giữa; Ngọc chỉ về Thánh, bên phải: nhìn đối diện). Nếu làm lệch đi Chơn truyền thì gọi là loạn pháp rồi dẫn theo là loạn Đạo, sau hết là thất pháp và kẻ làm thất pháp bị thất đạo. Mỗi hình tam-giác được thành hình là do 1 sanh ba, 3 sanh vạn-vật, thuộc về cơ-quan Chưởng Quản; do đó mà ngôi Giáo Tông ở vào tâm của vòng tròn, mà vòng tròn chỉ Càn Khôn vũ trụ, cho nên Cửu-Trùng Đài là cơ-quan quản trị Càn Khôn Vũ-trụ thuộc về Trời là vậy. Mỗi phẩm có 3 ngôi mà “pháp-luật Tam giáo tuy phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một.” Vốn cũng đồng quyền, đồng đẳng nhau. Thế nên ba cạnh của Tam giác cũng chỉ vào Tam giáo: Phật-Tiên- Thánh, nên dưới mắt Thầy, Tam giáo đồng nguyên là vậy.
Số 3 là hình ảnh của Tam-giác đều có ba cạnh bằng
nhau và ba góc bằng nhau, bằng 600. Tam giác đều nội tiếp
trong vòng tròn và đồng tâm với vòng tròn. Đặc biệt là ba đường phân giác gặp nhau ở tâm của vòng tròn, mà Đạo Cao-Đài biểu tượng bằng “Thiên Nhãn Thầy”. Thầy cũng dạy rằng: Nếu đến ngã ba không biết đường đi nữa thì đứng đó chờ Thầy. Phải chăng thời buổi này nhơn sanh đang chơi vơi, lạc lỏng không biết sẽ đi đường nào? Phải bước tới? Bước lui hay bước ngang ? – Mà thực ra phải đứng tại ngã ba; tức là nhìn vào tâm của Tam giác này tức là phải nhớ câu “Thầy khuyên các con nên nhớ hoài rằng: Thầy của các con là Ông Thầy Trời, nên biết một Ổng mà thôi thì đủ, nghe à!”.
Biết một ổng chính là “Trung với Đạo, hiếu với Chí-Tôn và Phật Mẫu”.Là lúc nào cũng phải nhớ lời Đức Hộ Pháp dạy về phương luyện kỷ đặng vào con đường thứ ba Đại-Đạo (xem câu 5, câu sau cùng trong tập sách) Tổng quát hơn thì Tam giác này do hình ảnh của quẻ CÀN ☰ KHÔN ☷ dựng lên mà thành. Là cánh cửa của Đạo Dịch luôn mở rộng.
Huyền vi của Đạo là luôn có Âm Dương, sáng tối đi liền nhau không bao giờ dứt. Hai lý này để hỗ trợ nhau Dù Pháp Chánh Truyền qui định phần Tiên-vị cho Cửu Trùng Đài là ngoài ngôi Giáo Tông ra, còn lại thì mỗi phẩm có ba vị, là: 3 Chưởng-Pháp, 3 Đầu-Sư (Dịch gọi là Tam Âm tam Dương) Nhưng thực tế mỗi phẩm lại có 4 vị (tức là 4 Chưởng-Pháp, 4 Đầu Sư)
5- Vậy hiện tại đã có 4 Chưởng-Pháp:
1-Thái ChưởngPháp Nguyễn-văn-Tường (1864-1939) Tức là Hòa-Thượng Như Nhãn, được phong Thái Chưởng Pháp ngày 24-7-Bính Dần. Về sau bỏ Đạo.
2-Thượng Chưởng-Pháp Nguyễn-văn Tương (1897-1927) được phong Thượng Chưởng Pháp ngày 24-7-Bính Dần
* Ngọc Chưởng-Pháp có hai vị:
3-Ngọc Chưởng Pháp Trần-văn-Thụ (1857-1927) phái Minh sư, được phong Chưởng Pháp ngày 10-9-Bính Dần.
4-Ngọc Chưởng Pháp Trần-Đạo-Quang (1870-1946). Về sau cũng bỏ Đạo.
- Hiện tại có 4 Đầu-sư:
- Thái Đầu-Sư có hai vị:
1- Hòa Thượng Thiện Minh, Thiên phong Đầu sư phái Thái, Thánh danh là Thái-Minh-Tinh, ngày 13-10-Bính Dần (mất năm 1927) sau bị Đức Lý ngưng quyền, chức.
2- Thái-Nương-Tinh (1870-1929)
3-Thượng Đầu-sư Thượng-Trung-Nhựt (1876-1934) thế danh Lê-văn-Trung. Thiên phong Đầu Sư phái Thượng, ngày 12-03-Bính Dần (dl 23-04-1926)
4-Ngọc Đầu-sư Ngọc-Lịch-Nguyệt (1890-1947) Thế danh Lê-văn-Lịch. Thiên phong Đầu Sư phái Ngọc, ngày 13-10-Bính Dần (Sau lập Chi phái)
Số 4 thuộc Âm phải có mặt (đó là tứ Âm tứ Dương)
Tức nhiên là chỉ “Một đất” mà bài thơ Đức Chí-Tôn đã cho thật là ứng hợp. “Một Trời, một đất, một nhà riêng”
Đức Lý dạy: “Chư Chưởng Pháp, Đầu Sư phải sắm
ấn tín theo Tam Kỳ Phổ Độ: Tỷ như mấy vị Chưởng Pháp
thì ấn lớn hơn ấn của Đầu Sư một thí, phải làm tròn như
con dấu thường, để chung quanh vòng ngoài chữ Lang sa: 3è AMNISTIE DE DIEU EN ORIENT, vòng trong để chung quanh chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, bằng chữ Nho: 大 道 三 期 普 渡
- Phái Thiền thì khắc ngay giữa một cái hình Bình BÁT VU, Đạo thì cây PHẤT CHỦ, Nho thì Bộ XUÂN THU.- Ấn của Đầu Sư cũng in vậy, song chính giữa để chữ Thái 太 Thượng上 Ngọc 玉 (chữ Nho) đem vào Tòa Luật đời cầu chứng cho khỏi mạo nhận. Khá làm các điều ấy, sau Lão dạy thêm nữa”. THĂNG.(ĐS. II. 222)
5- Tại sao lại có con số 4 này ?
Xem ra: con số 3 ở trên là con số Thiên định, nhưng khi hành sự thì đây là sự biến dịch bởi con người, dù biến đổi thế nào cũng trong vòng luật định mà thôi. Vì vậy hình vuông ứng với cơ Âm. Điều này cũng cho ta thấy rằng: Trong hình ngôi sao, thực-tế là sáu cánh, nhưng có tâm ở giữa, cộng chung là 7 điểm.
Đồ hình tiếp theo có hai hình vuông họp lại tuy có 8 góc mà có 1 tâm, thành ra 9 điểm. Đây cũng trở lại số 7, số 9 tức là nằm trong lý “thất phản cửu hoàn” vậy (7+9=16) là hình thành nên hai Bát Quái Cao Đài. Ấy là Bát Quái Đồ Thiên và Bát Quái Hư vô (sẽ bàn sau).
Số 7 này là ứng với 7 khiếu dương ở trên mặt. Thêm hai khiếu Âm ở hạ bộ thành ra 9 khiếu. Đây cũng là định luật “thất phản cửu hoàn” ở con người. Thế nên vạn vật đồng nhất thể là như thế.
Cũng như đã chứng minh Tòa Thánh có bảy chữ SƠN 山 Nhìn ra phía Đại Đồng xã có Cửu Trùng Thiên, đó cũng là mang con số “Thất phản Cửu hoàn” vậy.
Pháp-Chánh-Truyền dạy:
“Giáo-Tông thay mặt cho Thầy mà dìu-dắt các con trong đường Đạo và đường Đời. Có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.”
Do vậy mà chữ “phần xác và phần hồn” là chỉ về Đời trong Đạo, là Thiên Đạo đó vậy. Hay nói khác đi là Thể pháp và Bí pháp của Thiên Đạo đã ứng với hai hình ảnh Âm Dương trên đây: Chính phần hành của Giáo-Tông phải đảm trách.
Thời tiền khai Đại-Đạo Thầy cũng có ban cho Ngài
Lê văn Trung bài thơ ứng với những lời lẽ trên, đồng thời là ban quyền hành cho Ngài đó vậy.
THI
Một Trời, một Đất, một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối Thiên Thơ lo cứu chúng,
Đạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.
(Xem Dịch Lý Cao Đài I cùng Soạn giả, có giải đầy đủ)
6- Bát-Quái thành hình:
Bây giờ hai hình tam-giác và hai hình vuông phối
hợp vào nhau sẽ thành hình thứ 3, là một hình toàn diện, đó là Bát-Quái Đồ Thiên mà ngày nay chính Đức Chí Tôn sử dụng trong Đạo Cao-Đài, mà chỉ riêng Đạo Cao Đài mới dùng Bát-Quái này, nên cũng còn gọi là Bát Quái Cao Đài. Người nắm Bát-Quái này vào tay chính là Giáo Tông. Hình thứ 3 cũng ứng vào chữ “Một nhà riêng” trong câu thơ “Một Trời, Một đất, Một nhà riêng.”
Do vậy mà câu thơ này đã nói lên đầy-đủ cho một BÁT-QUÁI thành hình. Khi đã có một Bát-Quái toàn diện như vậy, chúng ta có quyền đặt tên các quẻ vào các góc cạnh tương-ứng, ta sẽ được hình dưới đây là do lời dạy của Thầy khi Thánh-ý Chí-Tôn dạy sắp 7 cái ngai:
Thầy dạy:
“Tòa-Thánh day mặt ngay hướng Tây là chánh cung Đoài ấy là Cung Đạo. Bên mặt Thầy là cung KHÔN, bên trái Thầy là cung CÀN. Đáng lẽ phải để 7 cái ngai của phái Nam bên trái Thầy là cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn-đạo cho đủ Ngũ chi nên Thầy buộc phải để Cung Đạo là cung Đoài cho đủ số”.
7-Đây: Bát-Quái Đồ Thiên hay Bát-Quái Cao-Đài
Nhìn vào Bát-Quái dưới đây, tức nhiên các Cung được xác-định qua trục đứng là Đông Tây, trục nằm là hướng Nam Bắc, tức là hướng của Đền Thánh Toà-Thánh Tây Ninh hiện giờ:
Đoài ☱ chánh Tây (cung Đạo, ở chính giữa và là mặt tiền của Đền-Thánh).
Càn☰ Tây Nam (trong Đền nhìn ra bên tay trái của Thầy)
Khôn ☷ Tây Bắc (trong Đền nhìn ra bên phải của Thầy) Khi ba Cung đã được định hướng rồi thì những Cung còn lại của Bát-Quái Đồ Thiên cứ theo thứ tự của Bát Quái Hậu-Thiên mà xếp các quẻ còn lại vào vị-trí.
CÀN là hướng khởi ở Tây Nam
(thay vì Tây Bắc của Bát-Quái Hậu-thiên).
Như vậy, Bát-Quái mà Giáo-Tông làm chủ đây là Bát-Quái Đồ-Thiên, chỉ riêng Đạo Cao-Đài mới có; đó là tổng hợp của hai khối Âm Dương hợp lại, tức là âm-dương hỗn-hợp trong cơ sanh biến của Vạn-linh.Vậy là kỳ khai Đại-Đạo này Ngài đã đặt Ly lên Khảm và đặt Khảm lên Ly để tất cả thành quẻ CÀN ☰ Gọi là "Chiết Khảm điền Ly phản vị CÀN"
Đồ hình dưới đây là kết quả của hai hình tam giác và hai hình vuông phối hợp vào nhau mà thành, cũng chính do Đức Giáo-Tông làm chủ ứng với chữ “Một nhà riêng” ấy. Như vậy câu thơ trên mà Đức Chí-Tôn ban cho Ngài trong buổi đầu chính là phân định quyền hành cho Ngài rồi. Làm sao mà có tên các quẻ đặt vào đồ hình ?
Trước đây đã có Bát quái Tiên Thiên (Bí pháp) và Hậu Thiên (Thể pháp), chính đó là của Thế Đạo, mà các tiền Thánh đã tìm ra cho nhân loại hằng 6.000 năm nay rồi. Giờ đây Đức Chí-Tôn đến ban cho nhân loại hai Bát Quái nữa, tức là mở ra con đường Thiên Đạo cũng có Thể Pháp và Bí pháp. Chính Bát quái Đồ Thiên mà chúng ta sắp nói tới đây là Thể pháp của Thiên Đạo. Còn một Bát Quái Hư vô là Bí Pháp Thiên đạo (sẽ bàn sau hoặc xin xem quyển I Dịch lý Cao-Đài cùng soạn giả)
Hân hạnh cho dân tộc Việt Nam được đón nhận trước nhất. Cũng vì sự xướng xuất ra Bát Quái này mà Cụ Trần Cao Vân phải bị án tử hình qua đề tài “Trung Thiên Dịch – Trung Thiên đạo”.
Đây, Bát Quái Đồ Thiên lấy theo thứ tự quẻ của Hậu Thiên là “nhứt Khảm, Nhì Khôn, tam Chấn, Tứ Tốn, ngũ trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn, Cửu Ly”, nhưng với Bát Quái Hậu thiên thì các quẻ xếp trên vòng tròn, thuận chiều với kim đồng hồ; Riêng Bát Quái Cao Đài xếp nghịch chiều với kim đồng hồ. Tại sao vậy ?
Vì thời gian qua là nhân loại hướng về Thế đạo để làm nên nền văn minh vật chất, hay còn gọi là văn minh hóa học. Bát quái Hậu Thiên thuận chiều kim đồng hồ, giống như nước xuôi dòng đổ ra biển cả, nếu cứ thế thì biết bao giờ mới trở lại quê xưa vị cũ ? Nay là thời Thượng nguơn tứ chuyển, tức là cơ qui nhứt, thế nên Bát Quái phải chuyển nghịch chiều với kim đồng hồ, tức là Đức Thượng Đế mở cho nhân loại một nền văn minh tinh thần, là con đường Thiên đạo, các quẻ được định vị theo
các phương hướng sau đây:
Vì vậy người tu theo Đạo Cao Đài cần nhất là phải đủ Tam Lập là lập đức, lập công, lập ngôn, tức nhiên là Thầy mở ra con đường phụng sự:
Đức Chí Tôn ngày giờ này đến lập Đạo muốn phụng sự cho cả toàn nhơn sanh mặt địa cầu 68 này, Ngài phải làm thế nào? Ngài cũng phải mượn loài người phụng sự cho Ngài. Ngài phải dùng loài người đặng làm Thánh Thể cho Ngài là lập triều chính của Ngài.
Chúng ta ngó thấy Đức Chí Tôn đến lập Đạo, lập Đạo phải lập Hội Thánh đặng phụng sự cho Vạn Linh trên mặt địa cầu 68 này. Chúng ta ngó thấy cái quyền rồi, ban cho cái quyền luật định phụng sự, vì phụng sự ấy mới làm chúa như con ong kia, con mối kia, vì phụng sự mới làm chúa. Ông Vua cũng vì phụng sự cho dân mới làm Vua, bây giờ Đức Chí Tôn vì phụng sự cho Vạn Linh mới làm Trời. Ngài phải lập Hội Thánh tức nhiên Ngài lập Thánh Thể của Ngài. Triều chính tức nhiên Thánh Thể của Ngài chớ không có gì lạ. Muốn cho Hội Thánh cầm quyền thống trị đặng phụng sự cho Vạn Linh, Ngài phải lập triều chính, triều chính là ngôi Thần, Tiên, Thánh, Phật đó vậy. Ngài lập Thánh Thể cũng như thế ấy; vì cớ cho nên chúng ta ngó thấy Thánh Thể Đức Chí Tôn tức nhiên Hội Thánh có đủ các phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế này.
Tìm về Tiểu sử của bốn Chưởng Pháp,
4 Đầu sư
***
1. Thái Chưởng Pháp
Hòa Thượng Như Nhãn (1864-1939)
Hòa Thượng Như Nhãn, thế danh là Nguyễn Văn Tường, sanh năm 1864, con của ông Nguyễn Văn Bầu và bà Ðoàn Diệu Hoa, quê quán ở Ðức Hòa (Long An), đi tu từ năm 17 tuổi, qui y với Hòa Thượng Thích Trí Lượng (Minh Ðạt) trụ trì ở chùa Thiền Lâm Cổ Tự (xóm Chùa, tỉnh Tây Ninh) thọ Pháp danh là Thích Từ Phong.
Nguyên vào năm Mậu Tý (1888), tại vùng Phú Lâm Chợ Lớn, (đường Bà Kế, khu vực Chợ Gạo, nay là Bến Phú Lâm, Quận 6), bà Hồ Thị Lộc có xây một ngôi chùa lớn, đặt tên là Chùa Giác Hải, bà giao cho ông Thủ Tọa Nguyễn Minh Sự coi sóc. Ông Sự mất năm 1908.
Sư Thích Từ Phong về đây kế nghiệp, trụ trì Chùa Giác Hải. Năm 1912, Ngài Thích Từ Phong giữ chức Yết Ma và năm 1924, Ngài được phong chức Hòa Thượng, nên các Phật tử tại vùng nầy thường gọi Ngài là Hòa Thượng Giác Hải. Trong lúc trụ trì ở chùa Giác Hải, Hòa Thượng Giác Hải có quyên góp tiền bạc trong bổn đạo để mua đất và lập một cảnh chùa tại vùng Gò Kén, Tây Ninh, lấy tên là Từ Lâm Tự (sau đổi lại là Thiền Lâm Tự). Chùa được xây dựng trên một khu đất gò rộng 4 mẫu, dựa quốc lộ Sài Gòn Tây Ninh, cách quốc lộ khoảng 200 mét và cách thị xã Tây Ninh chừng 5 cây số, phía trước cất chùa, phía sau làm nghĩa địa. Trong số bổn đạo đóng góp tiền mua đất và xây chùa Từ Lâm ở Gò Kén, ông bà Huyện Nguyễn Ngọc Thơ và Lâm Ngọc Thanh đóng góp tiền bạc nhiều hơn cả. Chùa mới vừa xây dựng xong phần chánh, chưa trang trí, chưa làm đường lớn từ quốc lộ vào chùa. Lúc đó là vào năm 1925.
Vào giữa năm Bính Dần (1926), ông bà Nguyễn Ngọc Thơ được Ðức Chí Tôn thâu làm Môn đệ, nhập vào Ðạo Cao Ðài. Hai ông bà cũng muốn Ðức Chí Tôn thâu phục Hòa Thượng Như Nhãn, nên ông bà thuyết phục Hòa Thượng đến dự một đàn cơ cầu Ðức Chí Tôn tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ ở Tân Ðịnh. Ðức Chí Tôn giáng cơ thâu phục được Hòa Thượng Như Nhãn.
Giữa tháng 7 năm Bính Dần (1926), Hòa Thượng Như Nhãn được Ðức Chí Tôn thâu làm Môn đệ. Sau đó, do sự yêu cầu của ông bà Thơ, Hòa Thượng Như Nhãn hiến chùa Từ Lâm (Gò Kén) cho Ðạo Cao Ðài dùng làm Thánh Thất tổ chức Lễ Khai Ðạo.(Có lẽ trong thời gian xây dựng chùa Từ Lâm ở Gò Kén, Hòa thượng Giác Hải lấy hiệu là Như Nhãn).
Ngày 29-7-Bính Dần (dl: 5-9-1926), Hòa Thượng Như Nhãn được Ðức Chí Tôn giáng cơ ân phong là: Quảng Pháp Thiền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Lịnh Diêu Ðạo Sĩ: Chưởng Pháp phái Thái.
Ngày 15-10-Bính Dần (dl: 11-11-1926), Ðại Lễ Khai Ðạo Cao Ðài được tổ chức long trọng tại Thánh Thất Từ Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh), có hằng vạn Tín đồ Cao Ðài dự lễ, số quan khách người đời đến dự rất đông.
Ðêm 14 rạng 15 tháng 10 âm-lịch, tổ chức đàn cơ trong Thánh Thất, Ngài Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt trấn pháp sót một cửa, nên thừa dịp nầy, quỉ nhập vào đàn, một quỉ nhập vào ông Lê Thế Vĩnh xưng là Tề Thiên Ðại Thánh, một quỉ khác nhập vào cô Vương Thanh Chi xưng là Lê Sơn Thánh Mẫu, nói năng lộn xộn, rồi nắm tay nhau nhảy múa, khiến cho nhiều người mới vào Ðạo Cao Ðài mất đức tin. Hòa Thượng Như Nhãn cũng bị mất đức tin luôn. Mặc khác, số đệ tử của Hòa Thượng Như Nhãn yêu cầu Ngài bỏ Ðạo Cao Ðài và đòi chùa lại. Hòa Thượng Như Nhãn nghe theo và quyết định đòi chùa Từ Lâm, không hiến cho Ðạo Cao Ðài nữa, hẹn trong 3 tháng Ðạo Cao Ðài phải dời đi.
Ngày 19-11-Bính Dần, Hòa Thượng Như Nhãn bị thiêng liêng phạt làm cho đau nặng.
Ngày 01-12-Bính Dần, Ðức Chí Tôn giáng cơ quở phái Thái và Hòa Thượng Như Nhãn, tỏ ý muốn phế bỏ phái Thái. Ðức Phổ Hiền Bồ Tát cầu xin Chí Tôn tha thứ phái Thái và đừng truất bỏ phái Thái (phái Phật).
Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ trục xuất Hòa Thượng Như Nhãn ra khỏi Ðạo Cao Ðài.
Tháng 2 năm Ðinh Mão, Ðức Lý Giáo Tông quyết định trả chùa Từ Lâm cho Hòa Thượng Như Nhãn và chỉ dẫn Hội Thánh tìm mua được 96 mẫu đất tại làng Long Thành (Tây Ninh) để dời các cơ sở của Ðạo về nơi đây, lập thành Tòa Thánh Trung ương của Ðạo Cao Ðài.
Hòa Thượng Như Nhãn qui liễu vào ngày 5-12-Mậu Dần (dl: 24-1-1939) hưởng thọ 75 tuổi. Tháp của Ngài được xây ngay trước chùa Từ Lâm Tự (nay là Thiền Lâm Tự) Gò Kén (Tây Ninh)
Trên bia mộ có đề chữ Hán, dịch ra như sau đây: Ngài là Ðại Lão Hòa Thượng Thiền Tông Lâm Tế đời thứ 39. Ngày sanh: 15-3-Giáp Tý (1864). Ngày qui: 5-12-Mậu Dần (1939), thọ 75 tuổi. Tháp của Hòa Thượng Như Nhãn xây ở chính giữa, hai tháp hai bên là của hai vị - Hoà Thượng Minh Ðạt, thầy của Ngài Như Nhãn - Hòa Thượng Hồng Tằng, học trò của Ngài Như Nhãn.
Thầy có dạy riêng Hoà Thượng Như Nhãn
Chùa Giác Hải, Sài gòn.
Ngày 21-9-1926 (âl 15-8-Bính Dần)THÍCH CA MÂU NI PHẬT viết
CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
chuyển Phật giáo Nam phương“Như Nhãn, con nghe Thầy: Khi giáng trần Chí Tôn Phật Tổ, Thầy duy đặng có bốn Môn đệ, chúng nó đều chối Thầy. Khi giáng lập Đạo Tiên, Thầy có một trò là Nguơn Thỉ. Khi lập Đạo Thánh thì đặng mười hai môn đệ, song đến khi bị bắt và hành hình thì chúng nó đều trốn hết, lại còn bán xác Thầy nữa. Còn nay, Thầy đã sắm sẵn Môn đệ cho con cũng đã nhiều, con đừng thối chí.
Thầy thường than rằng: Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh, nên Thầy nôn nóng nhưng Thiên cơ chẳng nghịch đặng. Ma quỉ hằng phá Chánh mà giữ Tà, chư Tiên Phật trước chưa hề tránh khỏi. Còn cái địa vị cao trọng, nó làm cho nhơn tâm ganh gổ. Con phải lấy Phật tâm con mà dòm ngó đám sanh linh bị phạt, luân hồi chưa dứt, thì tưởng đến Thầy mà cam chịu nhục nhã, lòng từ bi có vậy mới xứng đáng là tôi con Thầy.
Nếu Thầy dùng quyền pháp Chí Tôn thì mất lẽ công bình thiêng liêng Tạo hóa. Con cứ lo lập Luật, để công phổ độ cho chư Đạo hữu con hưởng chút ít.
…Như Nhãn, con nhớ lời tiên tri của Thầy, đọc Thánh Ngôn lại. Thăng.”
Thứ ba, 4-1-1927 (âl 1-12-Bính Dần).
Trung bạch về sự Giác Hải và Thánh Thất.
-“Thầy chẳng qua yêu mến đạo Thiền, quyết gom tóm
các con lại làm một nên giữ ThánhThất đến ngày nay, đặng qui tụ các em con đến cho đủ mặt. Như Thiên Cơ phải y như lời xin của Phổ Hiền Bồ Tát thì chẳng ép lòng bỏ chết phái ấy. Thầy sẽ coi ngày Như Nhãn đòi Thánh Thất lại thế nào, rồi mới trả.”
Đức Lý dạy: Ngày 19-2-1927 (âl 18-1-Đinh Mão).
“Chẳng vì Thánh Thất, Như Nhãn phản ngôn mà trễ phổ thông Thánh giáo. Cười…Đã hiểu đời còn mê muội, chẳng phân đặng chơn giả thế nào, thảm thay !Có một điều đáng trách là một phái yêu dấu của Chí Tôn (phái Thái) dám cả gan nghịch Thiên mà phải đọa trầm luân muôn kiếp, xét đến công tu, khó ngăn giọt lụy. Chí Tôn đau đớn bấy nhiêu, Lão càng giận bấy nhiêu. Biết bao phen, Lão cầm viết toan bôi xóa cho rồi trọn phái oan nghiệt mà Chí Tôn nằn nằn xin Lão để cho Người gia công độ rỗi. Ngày nay, Lão nhứt định trả lại chùa nầy. Song, trước khi trả, phải cất Thánh Thất cho xong y như lời dạy. Chư Đạo hữu phải hiệp sức nhau đặng lập thành Tòa Thánh, chi chi cũng ở tại Tây Ninh nầy mà thôi, vì là Thánh Địa, vả lại phong thổ thuận cho nhiều nước ngoại quốc đến đây học Đạo. Lão muốn nơi khác mà Chí Tôn không chịu”
2. Thượng Chưởng Pháp
Lão Sư Nguyễn Văn Tương (1879-1926)
Ngài Nguyễn Văn Tương sanh năm Kỷ Mão (1879) tại làng Hữu Ðạo, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, con của ông Nguyễn Văn Tỵ và bà Cao Thị Huề.
Nhờ có học thức, Ngài được cử làm Hương Bộ trong làng, nên người ta gọi Ngài là ông Bộ Tương. Khoảng năm 30 tuổi, Ngài Nguyễn Văn Tương tu theo Ðạo Minh Sư, thọ giáo với Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang. Ngài Nguyễn Văn Tương theo Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang về hành đạo nơi chùa Linh Quang Tự ở làng Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, Gia Ðịnh. Ngài tu đến bậc Lão Sư. Ngài Nguyễn Văn Tương được Ðức Chí Tôn thâu làm Môn đệ trước Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang. Do đó, Ngài Tương cùng với đệ tử của Ngài là Nguyễn Văn Kinh xin với Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang lập đàn cơ tại Linh Quang Tự - Gò Vấp để Ðức Chí Tôn độ Thái Lão Sư, và được kết quả tốt đẹp.
Trong Phổ Cáo Chúng Sanh có ghi một đoạn như sau "Có hai Ðạo hữu: Tương, Kinh, vẫn trước khi nhập môn thì đã thọ nghĩa thầy trò cùng vị Lão thành pháp danh là Ðạo Quang nơi chùa Minh Ðường (Hạnh Thông Tây).
Nhằm ngày 21 tháng 8 năm Bính Dần, Đức Ngọc Hoàng Thượng Ðế giáng cơ tại chùa ấy dạy việc, luôn dịp có để lời rằng: “Tương, Kinh, hai con phải lạy Ðạo Quang trước mặt Thầy, rồi từ đây gọi là Anh mà thôi, còn Thầy duy có một Thầy”.
Ngày 24-7-Bính Dần (dl: 31-8-1926), Ðức Chí Tôn ân phong cho Ngài Nguyễn Văn Tương là: Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo Sĩ- Chưởng Pháp phái Thượng.
Ngài Nguyễn Văn Tương có người vợ là Bà Võ Thị Tước (1880-1947) và con gái thứ hai là Nguyễn Thị Quyền (1900-1987) cũng đều tùng giáo Cao Ðài. Trongkỳ phong Thánh Nữ phái lần đầu tiên vào ngày 14-1-Ðinh
Mão (dl:15-2-1927) Ðức Chí Tôn ân phong:
- Bà Võ Thị Tước: Lễ Sanh.
- Cô Nguyễn Thị Quyền: Giáo Hữu.
(Trích Ðạo Sử Q.2 của Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu, tr.218)
Ngày 5-11-Bính Dần (dl: 11-12-1926), Ngài Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương thọ bệnh và đăng Tiên, chỉ hưởng được 48 tuổi tại tư gia ở làng Hữu Ðạo. Các Chức sắc cao cấp của Ðạo Cao Ðài đến làm lễ tang cho Ngài rất long trọng. Lúc đó, mới khai Đạo được khoảng 20 ngày, còn tạm tại Chùa Gò Kén, nên thi hài được an táng nơi quê nhà là làng Hữu Ðạo (gần Chợ Thuộc Nhiêu) quận Cai Lậy, Mỹ Tho. Sau những năm chiến tranh, ngôi mộ của Ngài hoàn toàn bị hư hại. Năm 1997, nhân dịp Thanh Minh, một vài vị Ðạo tâm tìm tòi biết được vị trí ngôi mộ của Ngài, nên kết hợp với người cháu nội của Ngài là ông Nguyễn Văn Bá, xây dựng lại trên nền mộ cũ một cái tháp nhỏ cao 3 thước 6 tấc.
(Chúng ta lưu ý trong các Chức sắc cao cấp của Ðạo Cao Ðài thuở đầu tiên có 2 vị tên TƯƠNG: - một là Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương, - hai là Thượng Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Tương, sau được thăng phẩm Quyền Thượng Ðầu Sư, và sau đó tách khỏi Hội Thánh Tòa-Thánh Tây-Ninh để lập ra Ban Chỉnh Ðạo ở Bến Tre và trở thành Giáo Tông chi phái Bến Tre. Ngay sau khi Ngài Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đăng Tiên, ngày 7-11-Bính Dần, Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy hai Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt:
“Thầy, các con. Trung, Lịch! Hai con phải dụng Ðại lễ mà an táng cho Tương nghe. Thầy ngặt một lẽ chẳng thế nào đem Tương vào Tam thập lục Thiên, phải để nó đợi nơi Ðông Ðại Bộ Châu mà chờ Tòa Tam Giáo phát lạc. Thầy có để lời cho Thái Bạch Kim Tinh cầu rỗi, nhưng Người giận Tương không công quả, dâng Bộ Công Thiên thơ ra trống trải lắm, tại nơi Tòa mới cãi chối nỗi gì. Người nhứt định không dự đến. Các con nghe à!
Vậy trong hịch văn Sớ tấu, các con phải thượng nơi Tòa Tam Giáo mà cầu rỗi cho nó thiệt hết lòng, rồi Thầy sẽ rỗi cho nó. Các con hiểu.
Lịch bạch Thầy về sự Ðại lễ . . . . . . .
- Không con! .Ðại lễ là làm theo một lễ với sự an táng bậc Thái Lão nghe ! . ." (trích trong Ðạo Sử II tr. 86)
Ngay Tết Ðinh Mão, ngày 1-1-Ðinh Mão (dl 1-2-1927), Ngài Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương giáng cơ:
Thượng Chưởng Pháp TƯƠNG
"Hỷ chư Ðạo hữu, chư Ðạo muội.
Mừng ... Mừng ... Mừng ... Vui ... Vui ... Vui ...
Ðại phước cho cả nhơn sanh, đại hạnh cho Ðịa cầu 68 nầy! Em còn phải công quả phổ độ mới vào đặng Tam thập lục Thiên, nhờ Ðại Từ Phụ cứu độ Em, khuyên nhủ cùng chư Huynh khá coi Thiên vị mình là trọng, vì là của quí báu vô giá, còn sụt sè đường Ðạo, xin nhớ lấy danh Em cự chống cùng tà ma quỉ mị cám dỗ. Tương đây, công cán chẳng chi mà còn đặng địa vị nầy, huống lựa là mấy anh độ rỗi toàn cả Cửu nhị Nguyên nhơn thì phẩm cựu sẽ đặng trổi thêm thế nào ! Xét lấy đủ vui lòng hành đạo." (TNHT. I. tr 92).
3. Ngọc Chưởng Pháp
Thái Lão Sư Trần Văn Thụ (1857-1927)
Ngài Trần Văn Thụ sanh năm Ðinh Tỵ (1857), tại làng Ðức Hưng, tổng Dương Hòa Hạ, tỉnh Gia Ðịnh.
Thuở nhỏ Ngài học chữ Nho, lớn lên làm nghề dạy học. Năm Ðinh Mùi (1907), Ngài đến chùa Vĩnh Nguyên Tự tại làng Long An, quận Cần Giuộc, thọ giáo với Thái Lão Sư Lê Ðạo Long, thế danh là Lê Văn Tiểng (1843-1913) để học Ðạo Minh Sư. Ngài được Sư phụ Lê Ðạo Long thâu nhận và ban cho pháp danh là Trần Ðạo Minh. Ngài là đệ tử lớn nhứt trong các đệ tử của Thái Lão Sư Lê Ðạo Long nơi Vĩnh Nguyên Tự. Ðến năm Bính Dần (1926), tức là sau khi Thái Lão Sư Lê Ðạo Long liễu đạo 12 năm, Thái Lão Sư giáng cơ cho biết là Ngài đã đắc quả Như Ý Ðạo Thoàn Chơn Nhơn, và khuyên các đệ tử nay tùng giáo theo Ðức Cao Ðài Ngọc Ðế.
Các đệ tử vâng theo lời Ngài và do đó, Vĩnh Nguyên Tự trở thành cơ quan của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ thuở đầu tiên và sau nầy trở thành Thánh Thất của Ðạo Cao Ðài gọi là Thánh Thất Vĩnh Nguyên Tự.
Ngài Trần Ðạo Minh lúc đó đã tu lên đến bực Thái Lão Sư và con trai Ngài Lê Ðạo Long là Lê Văn Lịch tu tới bực Dẫn Ân, đạo hiệu Lê Xương Tịnh, cùng các đệ tử khác tại Vĩnh Nguyên Tự, đều vâng lịnh Ðức Như Ý Ðạo Thoàn Chơn Nhơn, tùng giáo Ðấng Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
- Ngài Trần Văn Thụ (pháp danh Trần Ðạo Minh) được Ðức Chí Tôn giáng cơ ân phong là: Nho Tông Chưởng Giáo Tuyên Ðạo Thiền Sư Ðại Ðức Ðại Hòa Ðạo Sĩ: Chưởng Pháp phái Ngọc, trong đàn cơ tại Vĩnh Nguyên Tự đêm mùng 10-9-Bính Dần (dl: 16-10-1926).
Kể từ khi Ngài Trần Văn Thụ thọ phong Ngọc Chưởng Pháp, Ngài vâng lịnh Ðức Chí Tôn, cùng với các vị Chức sắc Thiên phong khác lo đi hành đạo, phổ độ nhơn sanh. Khi làm lễ Khai Ðạo tại Thánh Thất tạm ở Chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh), ngày 15-10-Bính Dần (1926) thì Ngài Ngọc Chưởng Pháp thường xuyên hành đạo tại đó, để cùng quí Chức sắc cao cấp khác soạn thảo Tân Luật theo lịnh dạy của Ðức Chí Tôn.
Qua năm sau, tức là năm Ðinh Mão (1927), Ngài Ngọc Chưởng Pháp lâm bịnh, Ngài trở về nhà an dưỡng tại làng Trường Bình, quận Cần Giuộc. Sau đó Ngài đăng Tiên vào ngày 14-5-Ðinh Mão (dl: 13-6-1927), hưởng thọ 71 tuổi. Tất cả các Ngài: Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt, Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh, Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh, Phối Sư Thái Ca Thanh, cùng nhiều Chức sắc khác đến thọ tang và phúng điếu. Bởi cơ Ðạo còn sơ khai, đang tạm ở Từ Lâm Tự, nên gia đình Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ đưa linh cữu của Ngài an táng nơi quê nhà ở làng Thới Hiệp, cạnh ngôi chùa cũ của Ngài, nay là Ấp 1 Xã Hiệp Phước, quận Nhà Bè. Năm 1996 (Bính Tý), Ban Cai Quản Thánh Thất Vĩnh Nguyên Tự đã lấy cốt của Ngài Ngọc Chưởng Pháp đem cải táng về đất phía sau Vĩnh Nguyên Tự, nằm cạnh ngôi mộ của Ngài Thái Lão Sư Lê Ðạo Long. Di ảnh của Ngài Ngọc Chưởng Pháp được thờ nơi Hậu Ðiện Vĩnh Nguyên Tự, cùng với di ảnh của Ðức Như Ý Ðạo Thoàn Chơn Nhơn và của Ngài Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt. Ðức Ngọc Chưởng Pháp thường giáng cơ dạy đạo tại Vĩnh Nguyên Tự, xưng hiệu là: Thiết Quang Chơn Nhơn. Trong quyển sách ÐẠO NGUYÊN CHÁNH NGHĨA do Vĩnh Nguyên Tự in năm 1939, có in hình Ðức Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ, đề là: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Ngọc Chưởng Pháp Trần Ðạo Minh
Thiết Quang Chơn Nhơn, Ngọc Chiếu, với hai câu liễn đặtở hai bên ảnh là:
- CHƯỞNG khai Nho phái Tam Kỳ Ðạo,
- PHÁP hóa Thiền Tông Tứ giáo truyền
4. Ngọc Chưởng Pháp
Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang (1870-1946)
Ngài Trần Ðạo Quang, thế danh là Trần Văn Quang (có tài liệu chép là Trần Thanh Nhàn) sanh ngày 10-11-Canh Ngọ (dl: 31-12-1870) tại Ban Dầy, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Ngài là con trai duy nhứt của ông Trần Chí Hiếu và bà Dương Mỹ Hậu. Hai ông bà làm nghề nông và tu theo đạo Minh Sư, tông Phổ Tế. Ngài có lòng mộ đạo từ nhỏ. Năm 12 tuổi, Ngài noi theo cha mẹ, tu theo đạo Minh Sư. Năm 16 tuổi, Ngài bắt đầu ăn chay trường. Thái Lão Sư Trần Ðạo Cửu nhận làm thầy đứng ra khai thị cho Ngài. Năm 21 tuổi, Ngài xuất gia tu hành, bắt đầu tu Nhứt Thừa: Nhứt bộ rồi Nhị bộ và Tam bộ, sau tiến lên tu Nhị Thừa qua bốn bậc: Thiên Ân, Chứng Ân, Dẫn Ân, Bảo Ân; rồi Ngài tiếp tục tu lên Tam Thừa, qua hai bậc: Ðảnh Hàng, lấy đạo hiệu Trần Vận Quang. Thập Ðịa là Thái Lão Sư: lấy đạo hiệu là Trần Ðạo Quang. Năm nầy Ngài được 45 tuổi.
Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang được sự tín nhiệm của 12 vị Lão Sư Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam, nên Ngài về trụ trì chùa Linh Quang Tự là Tổ đình của Tông Phổ Tế ở Việt Nam..Tổ Sư của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư bên Tàu là Thái Lão Sư Trần Ðạo Khánh dự định phong cho Ngài Trần Ðạo Quang làm "Việt Nam Ðệ Nhứt Tổ" của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam. (Tài liệu của Huệ Nhẫn)
Trong lúc đó thì Lão Sư Nguyễn Văn Tương và Nguyễn Văn Kinh đã được Ðức Chí Tôn độ theo Ðạo Cao Ðài, nên hai Ngài xin lập đàn cơ tại Linh Quang Tự để Ðức Chí Tôn độ Ngài Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang luôn thể và Ngài Trần Ðạo Quang được Ðức Chí Tôn độ nên bằng lòng qui hiệp vào Ðạo Cao Ðài.
Khi Ngài Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đăng Tiên tại làng Hữu Ðạo quận Cai Lậy thì khoảng hơn một tháng sau, Ðức Chí Tôn phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Quyền Thượng Chưởng Pháp ngày 12-12-Bính Dần (dl: 15-1-1927). (Theo Ðạo Sử của Bà NÐS Hương Hiếu Q.2 trang 172 và 192)
Phải chăng vì Ngài Thượng Chưởng Pháp Tương qui Thiên sớm, nên phải phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Quyền Thượng Chưởng Pháp để dâng Luật lên cho có đủ số chăng ? Rồi sau đó mới ân phong Ngọc Chưởng Pháp. Khi Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ đăng Tiên ngày 14-5-Ðinh Mão, thì sau đó ít lâu, Ðức Chí Tôn ân phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Ngọc Chưởng Pháp chánh vị. Nhưng Ngài vẫn xuất ra lập Chi phái. Ấy là từ trong cơ Ðạo phân chia ra mới gọi là Chi phái Cao-Đài.
Năm 1931 Phối Sư Thái Ca Thanh rút khỏi Tòa Thánh Tây Ninh về Mỹ Tho lập phái Minh Chơn Lý, Ngài Ngọc Chưởng Pháp hợp tác với Minh Chơn Lý, sau đó thấy ông Ca và ông Phùng sửa đổi hết cách thờ phượng, nên Ngài rút khỏi Minh Chơn Lý, xuống Bạc Liêu hợp với ông Cao Triều Phát mở ra phái Minh Chơn Ðạo năm 1935.
Năm 1937, Ngài Ngọc Chưởng ra hành đạo ở Ðà Nẵng. Lúc đi ra Trung, Ngài Ngọc Chưởng Pháp không có giấy thuế thân, nên Ngài lấy giấy thuế thân của người trong làng tên là Hà Văn Thuần để xin làm căn cước thì mới được phép ra Trung. Cho nên khi hành đạo ở Ðà Nẵng Ngài lấy tên là Hà Văn Thuần. Ngài ủng hộ bổn đạo nơi đây xây dựng được Thánh Thất Trung Thành, để làm cơ sở hoạt động của Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt.
Ngày 17-2-Bính Tuất (dl: 20-3-1946), Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang qui thiên tại chùa Linh Quang Tự ở Gò Vấp, Gia Ðịnh, hưởng thọ 77 tuổi. Thi hài của Ngài được an táng tại nghĩa trang Minh Sư gần Linh Quang Tự. Sau nầy, do nhu cầu mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt, Linh Quang Tự và nghĩa trang đều bị giải tỏa, bổn đạo cải táng Ngài về phần đất ở phía sau Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài vào ngày 15-8-Kỷ Mùi (1956) thuộc xã Thông Tây Hội, cũng thuộc quận Gò Vấp.
�&�
Tiểu sử bốn vị Nam Đầu Sư đầu tiên
Trong năm Khai Đạo, Đức Chí Tôn Thiên phong ba vị sau đây vào phẩm Đầu Sư đầu tiên của Đạo Cao Đài, đặc biệt lấy ba chữ Tam Bửu của trời ban cho Cửu Trùng Đài. Ngoài ra thì tất cả đều lấy chữ tịch đạo là “Thanh”
■ Đầu Sư phái Ngọc: Ngài Lê Văn Lịch, Thánh danh là Ngọc Lịch Nguyệt.
■ Đầu Sư phái Thượng: Ngài Lê Văn Trung, Thánh danh Thượng Trung Nhựt, sau được thăng Quyền Giáo Tông.
■ Đầu Sư phái Thái: Hòa Thượng Thiện Minh, Thánh danh là Thái Minh Tinh.
Ngài Thiện Minh là học trò của Hòa Thượng Như Nhãn, được Thiên phong ngày 13-10-Bính Dần, nhưng Ngài không hành Đạo, nên ngày 12-12-Bính Dần (dl 15-1-1927), Đức Lý Giáo Tông cất chức Thái Đầu Sư của Ngài Thiện Minh.
Cũng trong ngày nầy: 12-12-Bính Dần, Đức Chí Tôn phong Ngài Dương Văn Nương chức Thái Đầu Sư, Thánh danh Thái Nương Tinh. Ngài Thái Nương Tinh cũng không hành đạo.
1- Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt (1890-1947)
Ngọc Lịch Nguyệt là Thánh danh của Ngài Lê Văn Lịch, khi Đức Chí Tôn phong Ngài làm Đầu Sư phái Ngọc. Ngài Ngọc Lịch Nguyệt, cùng một lượt với Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, trong cuộc Thiên phong đầu tiên tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, vào đêm 12-3-Bính Dần (dl: 23-4-1926). Đạo hiệu là Thạch Ẩn Tử, sanh ngày mùng 1 tháng 9 năm Canh Dần (dl: 14-10-1890) tại làng Long An, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thân sinh của Ngài là Cụ Lê Văn Tiểng, tu theo Đạo Minh Sư đến bực Thái Lão Sư, hiệu Lê Đạo Long, là người sáng lập ngôi chùa Vĩnh Nguyên Tự ở Cần Giuộc. Cụ Tiểng tu đắc đạo, sau khi qui liễu, đắc quả Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn. Cụ có lời di chúc: “Lập Vĩnh Nguyên Tự để sau nầy có Thập nhị Khai Thiên đến mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.”
Thân mẫu của Ngài Lê Văn Lịch là Cụ Bà Trần Thị Đắc. Ở đây có sự liên hệ gia đình với Ngài Trần Văn Thụ (Ngọc Chưởng Pháp). Ngài Trần văn Thụ có người con gái quí danh là Trần Thị Khá, được gả cho Ngài Lê Văn Lịch. Ông Bà Lê Văn Lịch hạ sanh một người con gái là Cô Lê Ngọc Trang, Đạo hiệu Bạch Tuyết.
Ngài Lê Văn Lịch thọ nhận từ phụ thân bí thuật huyền môn của Đạo Lão (Tiên giáo) và Y thuật. Sau khi nhập môn vào Đạo Cao Đài, Ngài không dùng bí thuật huyền môn nữa, chỉ truyền lại cho con gái Lê Ngọc Trang về Y học cổ truyền.
Đầu năm Bính Dần 1926, quí Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc được lịnh Cơ Bút dạy xuống Vĩnh Nguyên Tự lập đàn cầu cơ, Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn (Cụ Lê Văn Tiểng, đạo hiệu Lê Đạo Long, thân sinh của Ngài Lịch) giáng cơ dạy Ngài Lịch, lúc bấy giờ đã tu tới bực Dẫn Ân (Minh Đường), phải hiệp với quí Ngài Cư, Tắc để mở Đạo Cao Đài.
Trong thời gian nầy, Ngài Đốc phủ Nguyễn Ngọc Tương đang làm Chủ quận Cần Giuộc đã gia nhập Đạo Cao Đài, nên cũng khuyên Ngài Lê Văn Lịch nhập môn vào Đạo. Đêm 12-3-Bính Dần (dl: 23-4-1926), Ngài Lê Văn Lịch được Đức Chí Tôn giáng cơ ân phong Ngọc Đầu Sư, Thánh danh Ngọc Lịch Nguyệt, cùng một lượt với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, trong cuộc Lễ Thiên phong đầu tiên tổ chức tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn. Trong Thánh ngôn, Đức Chí Tôn có giáng cơ dạy Ngài Ngọc Lịch Nguyệt như sau:
TNHT. I.14: "CAO ĐÀI. Lịch ! Con nghe Phật Như Lai nói chưa ? Tam Kỳ Phổ Độ là gì ? Là phổ độ lần thứ ba. Sao gọi là phổ độ ? Phổ độ nghĩa là gì?
-Phổ là bày ra, độ là cứu chúng sanh.
Muốn trọn hai chữ Phổ độ, phải làm thế nào?
Chúng sanh là gì?
-Chúng sanh là toàn cả nhơn loại, chớ không phải là lựa chọn một phần người, như ý phàm các con tính rối.
Muốn trọn hai chữ Phổ độ, phải làm thế nào? Thầy hỏi? Phải bày bửu pháp chớ không đặng giấu nữa. Con phải luyện lại cho thành, nội trong tháng năm nầy về theo Trung đi truyền đạo. Nghe và tuân theo...
Phải mặc y phục như Trung, mà màu hồng."
TNHT. I. 22:
"Thích Ca Như Lai thị Ngã, dục cứu chúng sanh, tá danh Cao Đài Đại Bồ Tát. Nhữ tri hồ?
Hữu Ngã đồ Thái Đầu Sư tại thử, nhĩ vô thức luyện đạo, Ngã phái Ngọc Đầu Sư chỉ giáo thọ bửu pháp.Tam thập tứ vị chúng sơn bất tri Chơn lý luyện thành. Ngã vi Chủ khảo giáo hóa. Khả tuân Ngã mạng.
Nhữ đẳng tu thọ pháp, tu thọ pháp. Khâm tai!"
Diễn nôm:
Thích Ca Như Lai là Thầy (Ta), muốn cứu chúng sanh, mượn danh Cao Đài Đại Bồ Tát. Con biết không? Có học trò của Thầy là Thái Đầu Sư tại đây, nó không biết luyện đạo. Thầy phái Ngọc Đầu Sư chỉ giáo thọ bửu pháp. 34 vị tăng không biết Chơn lý luyện thành. Thầy là Chủ khảo giáo hóa. Khá tuân lịnh Thầy. Các con tu thọ pháp, tu thọ pháp. Kính vậy thay!
Những ngày đầu Khai Đạo, Ngài Ngọc Lịch Nguyệt đóng vai trò quan trọng không kém Ngài Thượng Trung Nhựt. Ngài được lịnh Đức Chí Tôn sưu tập 3 bài Kinh Tam giáo trong Kinh Tam Thánh Đại Động để làm Kinh của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Ngài cùng với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt phụng soạn và ban hành quyển "TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH", trong đó các bài Kinh Nhựt Tụng của Đạo Cao Đài được viết bằng chữ Nho, chữ Nôm và chữ quốc ngữ, cùng là giải thích ý nghĩa tổng quát của mỗi câu kinh, có phần phụ thêm giải về Nghi tiết phụng thờ của Đạo Cao Đài, in và ban hành vào năm Mậu Thìn (1928).
Khi hai Ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang rút khỏi Tòa Thánh Tây Ninh lập Ban Chỉnh Đạo ở Bến Tre, thì Ngài Ngọc Lịch Nguyệt cũng rời Tòa Thánh, trở
về Vĩnh Nguyên Tự tu hành theo lối “độc thiện kỳ thân”.
Năm 1943, trong công cuộc nhà cầm quyền Pháp khủng bố Đạo Cao Đài, Ngài bị họ bắt đày đi Côn Đảo, đến năm 1945 Ngài mới được trả tự do trở về. Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt bị sát hại trong cuộc chiến chống Pháp xâm lược của phong trào Việt Minh, Ngài qui thiên tại Chợ Lớn ngày 2-9-Đinh Hợi (dl: 15-10-1947) thọ 58 tuổi. Mộ của Ngài đặt tại phần đất phía sau Vĩnh Nguyên Tự, gần mộ của thân phụ Ngài là Cụ Lê Văn Tiểng.
Ngài Ngọc Lịch Nguyệt thỉnh thoảng có giáng cơ tại đàn cơ ở Vĩnh Nguyên Tự. Ngày 7-1-Ất Tỵ (1965), Ngài Ngọc Lịch Nguyệt giáng cơ, xin trích lục ra sau đây:
THI:
NGỌC chiếu khai xuân đã vẹn tròn,
LỊCH trình quí giá đáng vàng son.
NGUYỆT lai sẽ rõ cơ mầu nhiệm,
Mừng thấy đệ huynh chí chẳng mòn.Hỡi chư Hiền đệ, Hiền muội!
THI
Bần Đạo thấy khắp trong huynh đệ,
Gối đã dùn, chẳng nệ mỏi xương.
Bạc màu tóc đã điểm sương,
Mà không nệ nhọc trên đường quả công.
Thiệt quí giá phúc hồng hiếm có,
Bước dặm trường đi đó đi đây.
Phổ thông giáo lý Đạo Thầy,
Thiêng liêng nương đó giải bày thiệt hơn.
Dầu nóng bức chẳng sờn cực nhọc,
Dẫu ngày đêm lăn lóc phụng hành.
Hiệp hòa lớn nhỏ em anh,
Rày đây mai đó chẳng canh cải lời.
Bần Đạo thấy nghĩ thôi quá tiếc!
Mảnh thân phàm bị diệt tiêu tan.
Lấy đâu làm một con thoàn,
Để cùng huynh đệ một đàng thi đua.
Còn ở tục dễ thừa hành đạo,
Nương cõi đời giả, tạo cái Chân.
Có nhiều phương tiện xa gần,
Để mà khuyến thiện dìu nhân trở về.
Như Bần Đạo lỡ bề thoát tục,
Cõi vô hình mấy lúc tiếc thương.
Tùng chung Tiên Phật một đường,
Muốn dìu sanh chúng phải nương cơ huyền.
Vì lẽ đó lời khuyên hơn thiệt,
Để đệ huynh nghiệm biết gần xa.
Ráng mà khắc kỷ xông pha,
Ráng mà giữ tánh để ra giúp đời.
Đừng bê trễ than ôi uổng bấy!
Đời mỏi mòn chẳng phải còn xa.
Trước tiên gìn giữ chữ HÒA,
Tuy rằng số ít mà ra muôn phần.
Đến chùa, Thất, rửa lần tội lỗi,
Nghe kệ kinh tắm gội linh hồn.
Mau chân mà tiến bước dồn,
Quả đầy công đủ bảo tồn nguyên căn.THI
Căn lành gìn giữ chớ buông lơi,
Dù mấy năm qua cũng một đời.
Mải miết mặc, ăn cùng chỗ ở,
Hơi tàn vạn sự thảy buông trôi.
2.Thái Đầu Sư Thái Nương Tinh (1870-1929)
Ngài Thái Nương Tinh, thế danh là Dương Văn Nương, làm Tri Huyện Hàm tại Sa-Đéc, sanh năm Canh Ngọ (1870) tại Sa-đéc và mất ngày 25-10-Kỷ Tỵ (dl 25-11-1929) tại Sa-đéc, hưởng thọ 60 tuổi. Mộ của Ngài hiện ở phần đất dành làm nghĩa trang gia đình của hai họ Dương và Phạm, tại đường Đinh Tiên Hoàng (Tạ Thu Thâu cũ), Thị xã Sa-đéc, cách chợ chừng hơn 1000 thước.
Được biết, trước kia, mộ của Ngài ở Chợ Cồn xã Tân Qui Đông, Sa-đéc, bên bờ sông Tiền Giang. Vì bờ sông bị đất lở, nên con cháu trong gia đình cải táng về đây ngày 21-8-1959. Kế bên mộ của Ngài là mộ của Bà Huyện Dương Văn Nương, nhũ danh Nguyễn Thị Quế (1876-1951) cũng được cải táng về đây ngày 24-4-1960.
Sau đây là Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn liên quan đến quí Ngài: Đầu Sư Thái Minh Tinh, Đầu Sư Thái Nương Tinh và Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh. (Trích trong Đạo Sử quyển II của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, trang 172 và 177).
Ngày 12-12-Bính Dần (dl 15-1-1927)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNGCác con: Nhị Chưởng Pháp, Nhị Đầu Sư tọa vị.
Đạo Quang ! Con phải quyền Chưởng Pháp.
Nương! Thầy dặn con, con chẳng hề nghe đến. Thầy muốn bỏ, song vì cựu vị nên chẳng đành. Từ đây phải lo Đạo nghe. Thầy phong cho con chức Thái Đầu Sư. Phải hành Đạo mà hiệp sức phổ độ phái Thái. Thái Minh Tinh bị Thái Bạch cách chức...
Ngày 14-12-Bính Dần (dl 17-1-1927).
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNGThơ! con đừng lo lắng về chơn thần con lắm vậy nghe! Nhiều phen Thầy nghe con vái, nhưng mà ngày chưa đến, nên Thầy chưa nói, ngày nay Thầy tỏ thiệt cho con hiểu. Con là một chơn linh cùng Quan Âm Bồ Tát, con đã hiểu rồi, vậy từ đây phải biết mình trân trọng mà trau giồi tánh hạnh nghe. Thầy chẳng nói căn cội của Nương, e con giận. Vậy Thầy nói luôn để cho anh em nhìn nhau, thương yêu nhau. Nó là Văn Thù Bồ Tát tái thế, nghe à! Nó lập ngôi vị cho con, nó đi một đường với con mà hành Đạo cho tới ngày hai con đắc quả đặng trở về cùng Thầy.”
3- Thượng Đầu Sư Thượng Trung Nhựt:
Thế danh Lê Văn Trung (1876- 1934)
Ngày 11-3-Bính Dần (dl: 22-4-1926) Đức Chí Tôn phong Ngài Lê văn Trung làm Đầu Sư phái Thượng, Thánh danh Thượng Trung Nhựt.
Ngày 03-10-Canh Ngọ (dl: 22-11-1930) Đức Lý Giáo Tông giáng cơ hiệp với Đức Phạm Hộ Pháp ra Đạo Nghị Định thứ hai, ban Quyền Giáo Tông hữu hình tại thế cho Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, còn quyền Giáo Tông thiêng liêng vẫn do Đức Lý nắm giữ. Kể từ ngày đó, Hội Thánh gọi Ngài là Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung. Như vậy, bấy giờ trong Đạo Cao Đài, quyền hành của Đức Giáo Tông và Đức Hộ Pháp có hai phần: phần hữu hình và phần vô hình.
Đức Lý Giáo Tông nhường phân nửa quyền hành Giáo Tông cho Ngài Lê Văn Trung điều khiển phần hữu hình, còn quyền hành Giáo Tông thiêng liêng vẫn do Đức Lý nắm giữ. Khi Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung đăng Tiên, Đức Lý đem nửa quyền hành Giáo Tông hữu hình ấy giao cho Đức Hộ Pháp, nên Đức Phạm Hộ Pháp lúc đó làm “Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài” Hiệp Thiên và Cửu Trùng. Ngài Lê Văn Trung là một trong 12 Môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn, đã có đại công khai mở, xây dựng và truyền bá Đạo Cao Đài. Khi còn ở ngoài đời, Ngài là một nhân vật chánh trị nổi tiếng binh vực quyền lợi cho dân chúng, làm đến chức Nghị Viên Hội Đồng Thượng Nghị Viện Đông Dương. Để ghi nhớ công nghiệp lớn lao của Ngài, ngôi trường Trung Học do Hội Thánh lập ra ở gần Cửa số 7 ngoại-ô Tòa-Thánh được đặt tên là Trường Trung Học Lê Văn Trung; còn con đường cặp hông Giáo Tông Đường trong Nội Ô Tòa Thánh được Hội Thánh đặt tên là đường Thượng Trung Nhựt.
Đây là Tiểu Sử của Đức Quyền Giáo Tông:
Ngài Lê Văn Trung sanh năm Bính Tý (1876) tại làng Phước Lâm tổng Phước Điền Trung (Chợ Lớn).Thuở Ngài được 3 tuổi thì thân phụ là ông Lê Văn Thanh (1845-1878) đau bịnh từ trần, thân mẫu là bà Văn Thị Xuân (1849- 1912) lúc đó mới 30 tuổi, cư tang thờ chồng, thủ phận ở vậy nuôi con cho đến ngày khôn lớn. Ngài Lê Văn Trung lớn lên có hình dáng đẹp đẽ, cân đối, tánh tình hòa nhã nhưng rất cương quyết, phụng sự mẫu thân rất có hiếu, cư xử tốt đẹp với bà con anh em, Ngài rất ái mộ Nho học. Ngài thi vào học tại trường Lycée Chasseloup Laubat -SàiGòn và tốt nghiệp trường nầy vào năm 1894, lúc đó Ngài được 19 tuổi. (Tuổi tây là 18 tuổi).
Cũng trong năm nầy, ngày 14-7-1894, Ngài Lê Văn
Trung được thâu nhận vào làm Thơ Ký tại Dinh Thống Đốc Nam Kỳ. Ngài làm việc Thơ Ký cho đến năm 1906, tổng cộng được 12 năm. Sau đó, Ngài xin thôi việc và được chấp thuận ngày 6-3-1906. Ngài Lê Văn Trung ra ứng cử và được dân chúng bầu vào Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ (Conseil Colonial de Cochinchine) đại diện cho các tỉnh: Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Gò Công, Tây Ninh, được liên tiếp 2 khóa, tổng cộng 8 năm. (Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ có 10 Hội Viên người Pháp và 6 Hội Viên người Việt. Hội-Viên người Việt do đại diện các Hương chức Nam Kỳ bầu lên). Lúc làm Hội Viên Hội Đồng Quản Hạt, mỗi khi nhóm họp nơi Soái Phủ Nam Kỳ, Ngài Lê Văn Trung thẳng thắng bàn cãi những sự ích nước lợi dân. Ngài rất lưu tâm đến việc mở mang các trường dạy học và công việc thương mãi. Trong những sự bàn cãi, đôi khi làm trái ý quan trên, nhưng Ngài vẫn thẳng thắng vì nhiệm vụ đại biểu của dân, chẳng đoái đến phận mình bị thiệt thòi, cho nên, xa gần, quan dân đều ngợi khen Ngài là người khẳng khái cương trực. Điển hình là vụ Lục Hạng điền, Chánh phủ Pháp phân 6 hạng ruộng để đánh thuế. Ông Outrey, quyền Thống Đốc Nam Kỳ dự thảo luật thuế về Lục Hạng điền, trình ra cho Hội Đồng Quản Hạt thừa nhận để đem ra áp dụng thi hành. Ngài Lê Văn Trung cùng với ông Diệp Văn Cương, Hội Đồng Quản Hạt Bến Tre đứng ra làm đầu 6 vị Hội Đồng Quản Hạt người Việt, đồng phản kháng dự thảo luật nói trên, nhưng khi biểu quyết, số thăm của Hội Đồng người Việt chỉ có 6, còn người Pháp thì 10, nên bị thua thăm và như thế thì dự luật được thông qua với đa số 10/6. Dù thua thăm, nhưng 6 ông cương quyết chống lại luật thuế Lục Hạng điền, nên tất cả 6 ông đều gởi đơn từ chức để phản đối. Dưới thời Pháp thuộc mà 6 ông làm được một việc như thế phải kể là một hành động táo bạo và rất can đảm. Từ chức xong, 6 ông đều ứng cử trở lại, năm ông được tái đắc cử, chỉ có ông Hội Đồng Hoài là bị thất cử, do ông Bùi Quang Chiêu theo phe ông Outrey phá. Nhờ vụ Lục Hạng điền mà tiếng tăm và uy tín của Ngài Lê Văn Trung lên rất cao, khiến cho người Pháp rất chú ý Ngài, chẳng dám xem thường.
Năm 1911, Ngài Lê Văn Trung đề xuất một việc làm rất mới mẻ tại Sài Gòn, nơi đang chịu sự thống trị nặng nề của Pháp, là việc xây dựng một Nữ Học Đường để giáo dục con gái, thực hiện Nam Nữ bình quyền. Chánh phủ Pháp ngoài mặt không dám phản đối, nhưng không ủng hộ việc mở mang dân trí nầy. Ngài Lê Văn Trung vận động với bà Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương và một số trí thức ủng hộ, quyên góp tiền bạc, xây dựng được một ngôi trường Nữ đầu tiên tại Sài Gòn, gọi là Collège des Jeunes filles (có tên là Trướng Áo Tím) về sau đặt tên là Trường Nữ Trung Học Gia Long. Hiện nay, trường nầy vẫn còn tấm bia kỷ niệm ghi tên hai vị sáng lập là bà Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương và Hội Đồng Quản Hạt Lê Văn Trung.
Ngày 18-5-1912, Ngài Lê Văn Trung được Chánh phủ Pháp thưởng cho Bắc Đẩu Bội Tinh Đệ Ngũ Đẳng (Chevalier de la Légion d'Honneur).
Mấy năm đó, Ngài có mở cửa hàng Hạnh Hoa Thôn, giúp đỡ người Việt Nam bổn xứ có nề nếp hưởng nhờ bề thạnh lợi, sanh ý ngày càng phấn chấn, dần dần nên cuộc đại thương, không nhượng ngoại quốc.
Ngày 10-12-1914, Ngài Lê Văn Trung được Pháp cử lên làm Nghị viên Hội Đồng Soái Phủ Đông Dương (Conseil du Gouvernement de l'Indochine), thường gọi là Hội Đồng Thượng Nghị Viện Đông Dương. Nhà cầm quyền Pháp mở hội Thượng Nghị Viện tại Bắc Kỳ, Ngài đi với Nguyên Soái Gourbeil ra bàn việc nước. Quan Thống Soái Bắc Kỳ, Trung Kỳ, với quan Đại Thần An Nam là ông Hoàng Cao Khải, ông Trương Như Cường, đều ngợi khen Ngài là người có khoa ngôn ngữ và rất lễ nghĩa.
Em của Ngài Lê Văn Trung là Lê Văn Diêu, thuở trước làm Giáo Thọ chữ Pháp, sau được ban chức Huyện Hàm, tánh tình hiếu thuận, nối theo đường hướng của Ngài, mà gầy dựng được cuộc buôn bán phát đạt.
Phu nhân của Ngài Lê Văn Trung là bà Đãi thị Huệ, cũng người tỉnh Chợ Lớn, hiền đức, trọng nghĩa, siêng năng buôn bán, lại khéo bề nội trợ tề gia, giúp thêm tiếng tốt cho Ngài. (Sau nầy, bà Đãi Thị Huệ nhập môn vào Đạo Cao Đài, được Đức Chí Tôn phong chức Nữ Giáo Sư, Thánh danh Hương Huệ, trong kỳ Phong Thánh Nữ phái kỳ I ngày 14-1-Đinh Mão, dl 15-2-1927, tại Chùa Gò Kén.
Thi rằng:
Ra tài Quản Hạt bấy thu chầy,
Quan chuộng dân yêu hội hiệp vầy.
Lòng dạ thẳng ngay, gương vặc vặc,
Tiếng tăm khen ngợi, tiết hây hây.
Thương trường mở cuộc buồm xuôi gió,
Thượng Viện gặp thời chí lướt mây.
Nhờ đức thung huyên vun quén sẵn,
Lộc Trời ơn nước, phước gồm may.(Viết theo tài liệu trong quyển Điếu Cổ Hạ Kim Thi Tập của ông Nguyễn Liên Phong soạn, Sài Gòn, năm 1915)
Kể từ năm 1920 trở đi, công việc kinh doanh của Ngài Trung gặp khó khăn, đến cuối năm 1924 thì bế tắc, hoàn toàn bị lỗ lã. Ngài đau buồn, sanh ra hút thuốc phiện và sau đó, thị lực của đôi mắt yếu đi rất nhiều, chỉ thấy mọi vật lờ mờ. Người bà con với Ngài là ông Hội Đồng Nguyễn Hữu Đắc, tu theo Minh Lý, thường vào hầu đàn nơi Chợ Gạo. Nguyên mấy tháng trước đây, tại nhà ông Nguyễn Bá Vạn ở ngã ba Bà Kế thuộc Chợ Gạo, Chợ Lớn, nay là Bến Phú Lâm, Quận 6 Chợ Lớn, có lập một đàn thỉnh Tiên rất linh hiển, thường cho thuốc trị bịnh rất hay. Ông Đắc hướng dẫn ông Trung đến hầu đàn nầy. Tại đây, Đức Lý Thái Bạch giáng khuyên Ngài Lê Văn Trung nên tỉnh giấc mộng trần mà lo việc tu hành. Ngài Lê Văn Trung tỉnh ngộ, bắt đầu ăn chay, bỏ hút thuốc phiện và lần lần đôi mắt của Ngài hết lòa, sáng trở lại. Sau khi đàn Chợ Gạo độ được Ngài Lê văn Trung rồi thì chư Tiên dạy bế, làm cho nhiều người hầu đàn ngạc nhiên, không rõ cớ chi.
Tóm lược tài liệu của Ban Đạo Sử:
- Ngày 23-11-Ất Sửu (dl 7-1-1926) Đức Cao Đài Thượng Đế dạy quí ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đem Đại Ngọc cơ đến nhà ông Lê văn Trung ở Chợ Lớn cho Đức Chí Tôn dạy việc. Quí ông ngần ngại nhưng không dám cải lịnh. Khi đến nhà ông Trung, quí ông trình bày tự sự. Ông Trung vui vẻ chấp thuận và cùng nhau thiết lập đàn cơ. Trong lúc chuẩn bị cầu cơ, nhiều phép lạ hiện ra. Trong đàn cơ nầy, Đức Thượng Đế dạy ông Trung phải hiệp với hai ông Cư và Tắc lo việc mở Đạo.
Đức Cao-Đài Thượng Đế dạy:
"Trung! Nhứt tâm nghe con. Sống cũng nơi Thầy, thác cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy mà đọa cũng nơi Thầy. Con lấy sự sáng mắt của con mà suy lấy.
Một Trời một Đất một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối Thiên thơ lo cứu chúng,
Đạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.Từ đây, ông Trung được Đức Chí Tôn thâu làm Môn đệ. Ông vâng Thánh ý, thu xếp việc nhà, xả thân hành đạo cho đến ngày cỗi xác trần về với Hư vô..
- Ngày 27-11-Ất Sửu (dl 11-1-1926) ông Lê Văn Trung đến viếng ba ông: Cư, Tắc, Sang. Bốn ông hiệp lại cầu cơ. Đức Chí Tôn giáng dạy ông Trung nhiều việc.
- Ngày 14-12-Ất Sửu (dl 27-1-1926), quí ông bạch hỏi Đức Thượng Đế về cách thờ phượng. Đức Thượng Đế dạy các ông đến gặp ông Đốc Phủ Ngô Văn Chiêu để xem cách thức, vì ông Chiêu đã được Đức Thượng Đế dạy đạo từ lâu và bảo xem ông Chiêu là Anh Cả.
- Ngày 15-12-Ất Sửu (dl 28-1-1926), cuộc họp mặt và dự tiệc do ông Lê Văn Trung tổ chức gồm 12 vị môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn và 14 vị khác đã có hầu đàn cơ nhiều lần nhưng chưa được chính thức nhận làm môn đệ.
- Ngày 17-12-Ất Sửu (dl 30-1-1926), ông Lê Văn Trung thượng tượng thờ Thầy rất trọng thể. Đức Thượng Đế giáng cơ dạy và chỉ cách đặt vị trí thờ Đức Quan Thánh, Đức Quan Âm Bồ Tát và Đức Lý Thái Bạch.
- Đêm 12-3-Bính Dần (dl 23-4-1926), Đức Chí Tôn sắp đặt cuộc Thiên phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, ân phong cho Ngài là Thượng Đầu Sư, Thánh danh Thượng Trung Nhựt, cùng một lượt với Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.
Sau đây cũng đã thể hiện được tinh thần “Tam Hội lập quyền” ngay buổi đầu:
- Ngày 23-8-Bính Dần (dl 29-9-1926) Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt vâng theo Thánh ý của Đức Chí Tôn, hiệp cùng chư Chức sắc Thiên phong và chư Đạo hữu, tổng cộng 247 người, họp tại nhà ông Nguyễn Văn Tường ở đường Galiéni, nay là đường Trần Hưng Đạo, quận 1 Sài Gòn, để thảo ra TỜ KHAI ĐẠO, chờ Đức Chí Tôn xem xét trước mới gởi lên Chánh phủ Pháp: Xem như đây là cuộc Đại Hội nhơn sanh
- Ngày 1-9-Bính Dần (dl 7-10-1926), Ngài Đầu Sư
Thượng Trung Nhựt đích thân đem TỜ KHAI ĐẠO đến gởi cho quan Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol, được ông vui vẻ tiếp nhận. Ông khen rằng vì chữ “Thiện”lo cho nhơn sanh.
Trong đơn chỉ có 28 người đại diện, là những người có danh vị, sau là những Chức sắc: đây Đại hội Hội Thánh.
- Chính sự quyết định thời gian gởi đơn lên cho Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol và chỉnh sửa của Thầy là quyền quyết định tối thượng: đây là Thượng Hội vậy.
- Ngày 15-10-Bính Dần (dl 19-11-1926), ngày rằm Hạ nguơn năm Bính Dần, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt hiệp cùng Đức Hộ Pháp và chư Chức sắc Đại Thiên phong, vâng lịnh Đức Chí Tôn mượn chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén Tây Ninh làm Thánh Thất tạm để tổ chức Đại lễ Khai Đạo Cao Đài, đủ các quan chức các cấp của Chánh quyền Pháp thời đó và đại diện các Tôn giáo khác đến dự.
- Ngày 3-10-Canh Ngọ (dl 22-11-1930) Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt được Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban Quyền Giáo Tông hữu hình, do Đạo Nghị Định thứ 2
Nguyên văn Đạo Nghị Định thứ nhì:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ ngũ niên)
Chiếu theo Pháp Chánh Truyền ban quyền hành cho Giáo Tông và Hộ Pháp,
Nghĩ vì chư Chức sắc Thiên phong có quyền đặc biệt ngoài luật đã định, còn quyền hành Hội Thánh nữa.
Nghĩ vì thiếu luật Hội Thánh nên quyền hành chánh chẳng đặng vẹn toàn,
NGHỊ ĐỊNH
Điều thứ nhứt: Ban quyền hành cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Giáo Tông về phần xác, còn phần thiêng liêng có Lão.
Điều thứ nhì: Chức sắc Cửu Trùng Đài, duy bậc Chánh Phối Sư phải tùng quyền mà hành chánh về phần Chánh trị của Đạo, song đặng thế mặt cho Đầu Sư, đương buổi Người cầm quyền Giáo Tông của Lão.
Điều thứ ba: Mọi việc chi thuộc về quyền Chánh trị đều giao cho Chánh Phối Sư.
Điều thứ tư: Chánh Phối Sư đặng trọn quyền thông công cùng Chánh phủ và nhơn sanh, nhưng buộc phải có Hội viên Nhơn sanh và Hội Thánh chăm nom cơ hành động.
Điều thứ năm: Nghị Định nầy sẽ ban hành vào ngày 15-10-Canh Ngọ.
Làm tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 03-10-Canh Ngọ.
GIÁO TÔNG HỘ PHÁP
Lý Thái Bạch Phạm công Tắc
Một số ít Chức sắc Thiên phong sanh lòng đố kỵ Đức Quyền Giáo Tông, nên tìm đủ cách để công kích và buộc tội Ngài. Nào thiết lập Hội Vạn Linh để kết án Ngài, viết Tờ Châu Tri để mạ lỵ, xúi giục tín đồ đem nhiều việc phi lý kiện Ngài nơi Tòa Án tỉnh Tây Ninh, đồng thời vu cáo Ngài làm cách mạng chống Chánh quyền Pháp. Không ngày nào mà Đức Quyền Giáo Tông không bị các viên Thẩm phán Tòa Án đòi ra hỏi cung.
Đang lúc bị khủng bố nguy nan như thế, Đức Ngài vẫn điềm tỉnh đối phó, một mặt hiệp với Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh lo sắp đặt Nữ phái trong Đạo.
Đức Ngài nói: “Lúc trước tôi đã giúp bà Cụ Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương lập trường Nữ học, bây giờ tôi hiệp với Bà Nữ Chánh Phối Sư tổ chức các Nữ Viện, cũng đồng một nghĩa. Tôi chỉ ao ước cho Nam Nữ bất bình đẳng ở ngoài Đời chẳng còn trong Đạo nữa.”
Kết cuộc các vụ thưa kiện Đức Ngài ở Tòa Án tỉnh
Tây Ninh, họ kết tội Ngài: trường hợp công quả đánh xe bò ban đêm không thắp đèn hiệu, bò thiếu dây buộc ách, 34 người Đạo công quả thiếu thuế, họ phạt Ngài 2 ngày tù.
Thật là khôi hài đối với một vị Cựu Thượng Nghị viên thưởng thọ Bắc Đẩu Bội Tinh của Chánh phủ Pháp. Họ biết Ngài vô tội, nhưng cũng cố buộc tội để làm nhục Ngài
Bọn lính sen đầm đem hai án tòa vào Giáo Tông Đường đặng bắt Ngài ra ngồi tù ở khám đường Tây Ninh. Ngài chậm rãi khăn áo chỉnh tề, mang Bắc Đẩu Bội Tinh vào, rồi đi theo sai nha. Đó là buổi sáng ngày mùng 7-Giêng-Giáp Tuất (dl: 20-2-1934), trước lễ Vía Đức Chí Tôn hai ngày. Đức Ngài ngồi tù tại khám đường Tây Ninh hai ngày rưỡi mới được thả về.
Sau khi cúng vía Đức Chí Tôn và lễ rằm Thượng nguơn xong, Đức Ngài liền viết một văn thư đề ngày 4-3-1934 (âl 19-1-Giáp Tuất), gởi cho Chánh phủ Pháp giao trả Bắc Đẩu Bội Tinh, vì nó không còn ý nghĩa gì nữa. Bức văn thư nầy viết bằng Pháp ngữ, trong đó có nhiều chi tiết lịch sử quan trọng, xin ghi lại nguyên văn ra đây và có bài dịch ra Việt văn.
THƠ CỦA ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Gởi cho Giám Quốc Pháp trả Bắc Đẩu Bội TinhBản phiên dịch Việt văn.
Thưa Ông,
Tôi xin hoàn lại nơi tay ông cái Médaille điều của Chánh-phủ Pháp ban thưởng cho Tôi hồi năm 1912.
Ra làm việc quan trong 12 năm, ai ai cũng đều mến yêu và khen ngợi, làm Hội đồng Quản Hạt trong 8 năm, lại có chưn trong ban Hội đồng Thượng Thơ Ðông Dương được 12 năm cả thảy là 32 năm trời. Tôi lấy lòng trung thành lo việc cho Quốc Pháp nên mới có một cái vinh diệu xứng đáng như thế.
Nhiệm vụ của Tôi đối với đời đã mãn hạn, Tôi sắp sửa về nghỉ an dưỡng lão. Bỗng chốc Ðức Chí Tôn gọi Tôi ra gánh vác nền Ðạo-đức để dung hợp cái Giáo lý với thế gian, hầu gieo khắp trên võ trụ, sự ham muốn điều qui thiện và lòng yêu thương đồng loại, sự nhiệt thành đạo đức đặng cho loài người biết công lý và quả báo tương lai. Trót 8 năm nay, Tôi nhiệt tâm mưu kết sự Thương-yêu tình nhân loại trong các chủng tộc, vì Tôi đây nhận chắc Giáo lý tân khai nầy để làm tài liệu cho chúng sanh bước lên Hòa-bình Thế-giới. Ðạo Cao-Ðài ngày nay tính ra trên một triệu Tín đồ, phần nhiều là người Việt-Nam, còn bao nhiêu người Langsa, người Cao-Miên, người Lào, người Sơn-cước và người Tàu; có lẽ Chánh phủ thuộc địa chưa có hiểu tâm lý của chúng tôi, cho nên Tín-đồ của Ðức Chí Tôn thường thường bị người bạc đãi áp chế một cách vô lý, mỗi lần chúng tôi yêu cầu xin xỏ điều chi, thì mỗi lần Chánh phủ lấy võ lực can thiệp khuấy rối người hành đạo.
Trong thời buổi nầy Chánh phủ lại dùng đủ phương sách để đánh đổ người đứng ra sáng lập nền Giáo lý của Ðức Chí Tôn. Tôi xin trích lục nhiều đoạn tôi đã viết một cái thơ gởi cho Tham Biện Vilmont ở Tây Ninh: Ông đã làm ăng-kết (enquête) rồi, vậy xin ông cho chúng tôi biết chừng nào mãn cái qui định cúng tế đã tổ chức ra đây. Còn những chuyện lôi thôi mà ông đã lược thuật cho Tôi biết trong thơ của ông, Tôi xin lỗi, chớ phải chi ông cố cập đến Tôi một chút ít, nghĩa là: Nếu ông không nhìn nhận Tôi là Giáo-Tông, thì ít nữa cũng nhìn nhận Tôi là chủ Thánh Thất Long-Thành, thì đâu có xảy ra mấy vụ lôi thôi như thế! Vả lại chúng tôi đây, không phải là người tổ chức các vụ ấy, cuộc hội nghị tại Thánh Thất, rồi ông có lòng khinh khi miệt thị một người tôi tớ trung thành lão nhược của Chánh-phủ Pháp, người tớ ấy tức là Tôi đây, mà ngặt nỗi Tôi đây có cái hân hạnh được Chánh-phủ Pháp ban thưởng Médaille điều, Tôi vì mạng lịnh của Ðức Chí-Tôn mà tận tâm mưu công ích cho hai nước Pháp Việt, cho dân tộc được đề huề một cách chơn thật, cùng sống mà hưởng lợi quyền như nhau, mà ngày nay lại thấy thân giam hãm vào trong nghịch cảnh nầy, thì thật là khổ tâm cho Tôi là dường nào ? Tôi viết thơ phân trần mọi lẽ mà Chánh phủ đáp lại bằng cách bạo ngược. Mới rồi đây, hôm ngày 22 tháng 2, có 34 người Ðạo của Tôi thiếu thuế mà Chánh phủ lại bắt bỏ tù Tôi, một ông già 60 tuổi có mày-đai điều, vô cớ ngồi tù hai ngày giữa mặt Chánh phủ thuộc địa.
Vậy cái Médaille quí báu kia có giá trị gì ?
Vậy lỗi ấy do bởi Chánh phủ Pháp Quốc không biết chọn người cho xứng đáng. Kể từ đây Tôi không muốn theo cái danh vị gì nữa, danh vị dầu cao trọng thế mấy, Chánh phủ thuộc địa coi cũng không ra gì, mà lại không thể chứng cái lòng trìu mến của Tôi đối với nước Pháp.
Tuy nhiên, Tôi cũng vẫn còn hy vọng đến ông Thần công lý của Pháp Quốc mà bấy lâu thiên chức của Tôi, hầu có ngày tự biết điều quấy của mình và rõ thấy Ðạo Cao Ðài không ngoài cái mục đích đem Thế-giới lên con đường Hòa-bình và thân ái.
Kính chào ông.
LÊ VĂN TRUNG
Bản chánh Pháp văn.
Tây Ninh, le 4 Mars 1934.
A Monsieur le Président de la République Francaise PARIS
Monsieur le Président de la République,
J'ai l'honneur de venir très respectueusement remettre entre vos mains la Décoration de Chevalier de l'Ordre National de Légion d'honneur que ma conférée la République Francaise par Décret du 18 Mai 1912.
Fonctionnaire apprécié et estimé pendant douze ans, Conseiller Colonial ensuite pendant huit ans, enfin Membre du Conseil du Gouverment de l'Indochine pendant douze ans, telles sont les trente-deux années de vie mises loyalement au service de la France, qui m'ont valu cette haute récompense de la République.
Après ma vie publique, je m'apprêtais à finir mes vieux jours dans un coin oublié de terre en Cochinchine, quand soudain (1926) je fus appelé par l'invisible à reprendre ma tâche pour l'unification de toutes les religions existantes, pour "semer parmi les peuples l'amour du bien et des créatures de Dieu, la pratique de la vertu, apprendre à aimer la justice et la résignation: révéler aux humains les conséquences posthumes de leurs actes, tout en assainissant leur âme".
Depuis huit ans je me consacre entièrement à cette oeuvre de fraternisation des races, convaincu que la nouvelle religion constitue un des puissants facteurs indispensables à la réalisation d'une collaboration loyale et sincère de tous les peuples, d'une paix mondiale durable.
Le Caodaisme comprend aujourd'hui plus d'un million de fidèles composé d'Annamites en très grande partie et de Francais, Combodgiens, Laotiens, Mois et Chinois.
Nous ne sommes pas compris peut-être par le gouvernement Colonial?
Toujours est-il que le Caodaisme est sans cesse injustement frappé.
À nos doléances et à nos réclamations, on répond par des actes arbitraires et des persécutions religieuses.
À l'heure qu'il est en fait tout pour atteindre le promoteur de cette nouvelle église dans son honneur.
Dans de nombreux documents, je me permets d'extraire les passages édifiants ci-après d'une lettre que j'ai écrite récemment à Monsieur l'Administrateur Vilmont, chef de la Province de Tây Ninh Cochinchine.
"En ce qui concerne vos récentes instructions, je vous serais très obligé de bien vouloir me faire connaitre jusqu'à quand est applicable cette nouvelle règlementation des cultes.
Quant aux évènements dont vous avez fait allusion dans votre lettre, je me permets de vous faire remarquer que si vous aviez bien voulu tenir compte de mes requêtes et de mes droits sinon de chef du Sacerdoce Caodaisme, du moins de chef du Temple de Long Thanh (Tây Ninh) ces "désordres" n'auraient jamais au lieu. Mieux que tout autre vous saviez que les désordres que vous signalez aujourd'hui ne venaient pas de nous.
Le réunion du 24 Novembre dernier, autorisée par vous à se tenir dans mon Temple, à des personnes tout à fait étrangères à la religion et malgré ma lettre No 394 du 22 Novembre 1933, est un véritable défi, sinon une insulte, jeté sans motif à la face qu'un vieux et loyal serviteur de la France doublé d'un décoré de la Légion d'honneur. Il m'est vraiment pénible de constater ces choses à l'heure où tous mes efforts et tout mon dévouement sont mis sincèrement au service de la cause commune des deux peuples, c'est-à-dire à l'entente cordiale et sincère les deux races applelées par la volonté du tout puissant à vivre en communauté de vie et l'interêts."
Naturellement ces doléances sont restées sans réponse, par contre les persécutions se sont de plus belle.
La dernière en date fut mon emprisonnement, le 22 Février dernier, pour dette due au fisc par trente-quatre de mes coreligionnaires, prétexte tout à fait falicieux.
Le Chevalier de Légion d'Honneur, à l'aurore de sa soixantième d'année, fut jeté en prison sans qu'aucune formalité prescrite par la loi ne fut observée.
J'ai séjourné deux jours et demi dans une cellule de
la prison de Tây Ninh avec mon ruban arboré et la carte de Chevalier sur moi.
Ainsi aux yeux du Gouvernement Colonial, la Légion d'honneur ne signifie rien, l'infâmie peut atteindre.
Tout le tort revient-il à la République qui ne devait pas conférer cet insigne honneur à un pauvre indigène?
J'accomplis mon geste avec d'amers regrets, mais je préfère ne plus porter une très haute distinction à laquelle le Gouvernement Colonial n'a aucun égard et qui ne peut même plus devenir un éclatant témoignage de mon attachement à la France.
Cependant, confiant en la justice de cette France douce et généreuse que j'ai toujours aimée, je poursuivrai jusqu'au bout ma tâche sans passion et sans haine, espérant qu'on voudra bien un jour se rendre compte des erreurs commises et rendre justice à une religion qui n'a d'autre prétention que celle d'apporter au monde la paix et la concorde.
Veuillez agréer, Monsieur le Président de la République, l'expression de mon plus profond respect.
LÊ VĂN TRUNG
LÊ VĂN TRUNG Pâpe Intérimaire
du Bouddhisme rénové ou Caodaisme,
Ancien Conseiller Colonial,
Ancien Membre du Conseil de Gouvernement de l'Indochine.
Long Thành Tây Ninh (Cochinchine).Pièce jointe: Un certificat de Monsieur le Grand Chancelier de l'Ordre National de la Légion d'Honneur.
Ý nghĩ của Đức Quyền Giáo-Tông khi trả
Bắc-Đẩu Bội Tinh?
Sau khi Quan Toàn Quyền ROBIN qua trấn nhậm, Ông đã có vào diện yết Ngài và hai đàng cũng đã điều đình công việc “Tự do tín ngưỡng” của Ðạo. Nhà báo Diệp văn Kỳ nói rằng không muốn nhắc lại chuyện cũ sợ e có hại đến hòa khí của Ông đã đào tạo ra, mà chỉ muốn thêm rằng trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh là một “việc làm” sau hết của cái đời sống của ông và nhắc lại lời của ông đã cắt nghĩa “việc làm” ấy. Ngài nói:
- "Ðừng tưởng tôi trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh mà còn có ý chi phiền Chánh phủ, trách những nhà đương quyền lúc bấy giờ. Danh giá thể thống của Viện Bửu Tinh buộc tôi phải làm như vậy. Tôi mà nói đây chẳng phải vì nghi sợ điều chi mà chỉ vì ước ao ai nấy đều hiểu rằng tôn chỉ, mục đích của Ðạo chúng tôi là Hòa bình, thân ái khắp cả chúng sanh "nhứt thị đồng nhơn” thì chúng tôi đâu được phép phiền trách hờn giận. Huống chi, theo thiển kiến của tôi đối với vấn đề thực dân, thì dầu cho lúc ban sơ nó là "việc làm do ở cường quyền” song dần dần bên cai trị và bên bị cai trị cùng nhau tiếp xúc, rồi biết rõ nhau mà yêu nhau, thì chúng ta lại có thể hy vọng rằng cái "việc làm do ở cường quyền” kia sẽ thành ra một mối dây đoàn thể, thân thiện của dân tộc nầy đối với dân tộc khác”.
Sau khi đối với Ðạo, Ðạo biết Ông vô tội; đối với Tòa, Tòa biết Ông vô tội; cái danh hành đạo của Ông được
trắng như tuyết. (Nhà báo Diệp-văn-Kỳ)
-Ngày 13-10-GiápTuất (dl 19-11-1934) Đức Quyền Giáo Tông lâm bịnh và nhẹ nhàng thoát xác qui Tiên tại Giáo Tông Đường, lúc 3 giờ chiều, hưởng thọ 59 tuổi.
Hội Thánh thông báo cho toàn đạo để tang: Chức sắc Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài từ phẩm Giáo Hữu hay tương đương đổ lên, để tang một năm, còn Lễ Sanh và tín đồ thì tùy ý. Thi hài của Đức Quyền Giáo Tông được liệm vào Liên đài, mỗi khi di chuyển thì đặt lên lưng Long mã, gọi là Liên đài kỵ Long mã. Tang lễ được cử hành rất
long trọng với chương trình:
- Ngày 15-10-Giáp Tuất: Lễ Thành phục.
- Ngày 15 đến 24-10-Giáp Tuất: Liên đài quàn tại Giáo Tông đường.
- Ngày 24-10 Giáp Tuất: Di Liên đài đến Tòa Thánh.
- Ngày 25-10-Giáp Tuất: Di Liên đài ra Cửu Trùng Thiên tại Đại Đồng Xã trước Tòa Thánh.
- Ngày 26-10-Giáp Tuất: Liên đài nhập bửu tháp.
Bửu tháp của Đức Ngài được xây ngay phía sau Bát-Quái Đài của Đền Thánh - Tòa Thánh. Tây ninh.
Mượn lời của ký giả Diệp Văn Kỳ nhận xét về cái chết của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, được đăng lên báo lúc bấy giờ để làm phần kết:
“Chúng tôi chỉ biết rằng, từ hôm ông chết đến nay, ở Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh, số người mỗi ngày đến chịu tang, lấy muôn mà kể: Già trẻ, bé lớn, đàn ông, đàn bà ở Lục tỉnh, ở Nam Vang, ở Lào, thảy đều thương tiếc khóc than, chẳng khác nào như con mất cha mẹ. Nếu có thể lấy những Chuông vải trắng bịt trên đầu để làm thước đặng đo sự nghiệp, công đức của người quá vãng, thì ta có thể nói rằng: sự nghiệp, công đức của Ông Lê Văn Trung là lớn nhất ở Nam Kỳ nầy vậy.”
Nếu kể từ ngày Khai Đạo tại Thánh Thất Từ Lâm Tự Gò Kén 14-10-Bính Dần (dl: 19-11-1926) cho đến ngày qui là 13-10-Giáp Tuất (dl: 19-11-1934) thì đúng 8 năm tròn. Nếu tính từ ngày Đức Chí Tôn thâu nhận Ngài làm Môn đệ 23-11-Ất Sửu (dl 7-1-1926), thì Đức Ngài hành đạo được 9 năm. Đức Hộ Pháp lấy bài thi sau đây của Đức Quyền Giáo Tông làm bài thài hiến lễ Đức Ngài
Càn khôn quen thú phước Linh Tiêu,
Thấy khổ trần gian nghịch Thánh điều.
Mượn xác phàm riêu cây Phất Chủ,
Nương cơ tạo xủ phướn Tiêu Diêu.
Bầu linh khổ hải đưa thiêu cạn,
Gậy sắt nhơn sanh chống dắt dìu.
Muôn dặm cửa Tiên chờ bước tục,
Cỡi lau trở gót ruột trăm chiều.Nguyên căn của Đức Lê Văn Trung:
Nguyên căn của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung là Đại Tiên Lý Thiết Quả, tức là Lý Ngưng Dương, đứng đầu Bát Tiên.Trong con đường Thiêng-Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Pháp có mô tả trận đánh giữa Đức Quyền Giáo Tông trong pháp thân Lý Thiết Quả với Kim Quang Sứ để mở đường đi từ Ngọc Hư Cung đến Cực Lạc Thế Giới:
“Buổi ấy, Bần Đạo đi với cái pháp bửu bằng vân xa, đi ngang qua từ Ngọc Hư Cung đến Cực Lạc Thế Giới. Khi vân xa đi qua đó, bị Kim Quang Sứ đón đường không cho đi. Bần Đạo đương bối rối không biết tính làm sao, liền khi ấy ngó thấy Đức Lý Ngưng Dương trong pháp thân của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt cầm cây gậy cà thọt nhảy ra chiến đấu với Kim Quang Sứ. Bần
Đạo ngó thấy cà ạch cà đuội, chơn cụt chơn dài, nhảy cà quơ cà quơ. Bần Đạo ngồi trên vân xa suy nghĩ, Đức Lý Ngưng Dương có một mình làm sao đánh lại người ta, thấy ban đầu có một mình Đức Quyền Giáo Tông , bên kia Kim Quang Sứ, hai đàng đánh nhau không phân thắng bại, bửu bối không biết bao nhiêu mà bất phân thắng bại. Hồi lâu ngó thấy Đức Lý Ngưng Dương đập Kim Quang Sứ một gậy, đập văng hào quang ra như lọ nồi, như đập vào bình mực văng túa xua ra vậy. Đập thấy biến ra người thứ nhì nữa. Đàng nầy cả trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn có một vị Chức sắc Thiên phong mà Bần Đạo không nói tên ra, cản, đánh người thứ nhì đó. Kim Quang Sứ biến ra bao nhiêu thì bên nây cũng hiện ra bấy nhiêu. Một trận đại chiến náo nhiệt. Bần Đạo ngồi trên vân xa cũng như người ta ngồi trên máy bay mà khán trận vậy. Dòm riết mỏi mòn buồn ngủ, ngủ đã rồi thức dậy thấy cũng còn đánh, ngồi lâu lắm gục xuống ngủ nữa, làm 3 lần như vậy, tới chừng lần thứ ba tỉnh lại thấy mặt trận đầy Càn Khôn vũ trụ, lớn quá, bên mình không biết làm thế nào chiến đấu cho lại, không lẽ ngồi trên vân xa nầy hoài, phải có phương pháp gì giúp tay mới đặng....Đến chừng bay giữa không trung, thấy minh mông không biết làm sao gom lại được, để vậy khó đánh lắm, ai ngờ Bần Đạo cầm cây Kim Tiên, định vẽ vòng gom lại, thì chẳng khác nào vãi cái chài vậy. Bần Đạo cầm cây Kim Tiên định gom lại, vừa gom thì nó thúc nhặt mặt trận ấy lại nhỏ lần lần, thấy đàng ta đã thắng Kim Quang Sứ. Bên Đạo của ta là Đức Lý Ngưng Dương đã diệt được bên Kim Quang Sứ, tới chừng rốt cuộc chỉ còn Đức Lý Ngưng Dương đánh với Kim Quang Sứ mà thôi. Đánh nhau một hồi, Đức Lý
Ngưng Dương đập Kim Quang Sứ một gậy thì Kim Quang Sứ hóa hào quang đằng vân bay mất (TLHS trang 145-146)
Ngài Đầu sư Lê văn Trung
Chuyện liên quan đến Đức Quyền Giáo Tông
* Thuở Đạo còn sơ khai, Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho Đức Quyền Giáo Tông các bài thi sau:
Già trí đừng lo trí chẳng già,
Lương tâm mình biết, hỏi chi xa.
Thềm đầu Trời ngó lòng nhơn đạo,
Hư thiệt rồi đây cũng biết mà.!
(11-1-1926)Đã thấy ven mây lố mặt dương,
Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường.
Đạo Cao phó có tay cao độ,
Gần gũi sau ra vạn dặm trường.
(12-2-1926)Đức Lý Thái Bạch giáng cho Thi:
Có công phải biết gắng nên công,
Tu tánh đã xong tới luyện lòng.
Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục,
Đơn tâm khó định lấy chi mong.
((27-1-1926)* Cũng trong ngày nầy (27-1-1926), có Thất Nương Diêu-Trì-Cung giáng cơ. Đức Quyền Giáo Tông hỏi:
- Có duyên luyện đạo cùng chăng, xin Em mách giùm.
- Đã gặp Đạo ắt có duyên phần. Ráng tu luyện, siêng thì thành, biếng thì đọa, liệu lấy mà răn mình. Phải sớm tính, một ngày qua là một ngày chết. Đừng dụ dự. Em xin kiếu.
*Trong một đàn cơ khác, nhân có Bát Nương Diêu Trì-Cung giáng đàn, Đức Quyền Giáo Tông hỏi thăm Bát Nương về linh hồn của thân phụ và thân mẫu của Ngài có được siêu thăng cùng chăng ? Giờ đây đang ở đâu ?
Bát Nương giáng cơ đáp: Em chỉ nói bằng thơ, nếu Anh giảng trúng thì nói nữa, trật thì lui.
Đức Quyền Giáo Tông năn nỉ: Nếu Qua nói trật thì nhờ Em thương tình mà chỉ dẫn để cho Qua học thêm với.
“Bạch Y Quan nay sanh Cực Lạc.
“Bá phụ cùng Bá mẫu đặng an !”Như vậy là thân phụ và thân mẫu của Qua trước ở cõi Bạch Y Quan, nay đã sang ở nơi cõi Cực Lạc ?
- Đúng đó, ấy là nhờ công tu luyện của Anh nên Bá phụ và Bá mẫu được siêu thăng nơi Cực Lạc.
Đức Quyền Giáo Tông Lê-văn-Trung
Thi văn của Đức Quyền Gíao Tông:
Đức Hộ Pháp xướng: Nhắn Bạn Quyền Giáo Tông
Hồ lô ai để ở nơi đâu?
Ái quốc Việt Nam nhét bể bầu.
Cứu thế hồng ân chưa rải khắp,
Nâng thuyền lòng nước vốn còn sâu.
Nhơn tài nẩy nở tuy trăm bụng,
Dân trí biến sanh bởi một đầu.
Ví nhướng mắt Tiên xem rõ trận,
Cuộc cờ thắng bại tận phao câu.
(11-9-Bính Tuất 1946)1. Đức Quyền Giáo Tông giáng họa, ngày 19-9-Bính.Tuất 1946:
Tách trần tính lại đã là đâu !
Thế giới vân du chỉn một bầu.
Nguồn đạo bấy chừ bao sức lớn,
Tinh thần từ trước đã gần sâu.
Nhơn tâm gầy khối đều nên mặt,
Tình thế trau nên kiểu vở đầu.
Lừa lọc nên hư do phép Tạo,
Hưng suy chỉ định bởi đôi câu.2. Đức Quyền Giáo Tông giáng cơ họa tiếp, ngày 28-4-Mậu Tý (1948):
Đường trần hạnh phúc đã là đâu ?
Chi bẵng Càn khôn quảy một bầu.
Đủ hiểu tâm phàm lòng lạt lẽo,
Dư xem bước tục chí cao sâu.
Thiên Quân ví chẳng ra tiền đạo,
Tướng soái khó toan chiếm địa đầu.
Vạn pháp đem khoe tài Hộ Pháp,
Cũng như đực rựa sánh kim câu.3. Đêm mùng 10 tháng 10 Canh Dần (dl 19-11-1950). Đức Quyền Giáo Tông giáng:
Mừng các em,
Mỗi năm đến kỳ Lễ Hạ Nguơn, kỷ niệm Khai Đạo, thì các em không quên ngày Thánh đán của Anh, và mỗi em đều để tâm lo lắng, nhứt là Hộ Pháp cư xử trọn nghĩa đệ huynh, đến như thi hài của anh đối về phần Đạo thì cũng chẳng trọng hệ chi, nhưng đó là một phần trong Thánh Thể của Chí Tôn, các em lo cho anh được châu toàn, anh có lời cảm ơn trước là Hộ Pháp, sau là tất cả các em. Một điều anh ước mong sao hành trình của mỗi em làm thế nào cho đoàn hậu tấn để tâm kính mến lo cho các em, cũng như các em lo cho anh từ thử. Còn cơ Đạo của Chí Tôn, bước qua năm 26 sẽ phát triển lên cao thượng một cách phi thường, làm cho dân tộc Việt-Nam đều ngạc nhiên và chủ tâm hưởng ứng. Nền Đạo cao lên bao nhiêu thì danh thể của các em tăng tiến lên; trọng yếu và trách nhậm phải thế nào? Các em cần lo trau giồi cho đáng giá, để làm gương mẫu hướng dẫn quần chúng noi bước theo con đường đạo đức và lập quốc buổi tương lai đã đến đây.
Trong phương diện hành đạo, có ba điều nên chú ý như sau nầy, các em khá nhớ: - Một là Quyền. - Hai là Luật, - Ba là Pháp, đều của Đức Chí Tôn vậy.
- Quyền là giáo hóa, dìu dẫn chúng sanh vào khuôn linh của Đạo.
- Luật là thương yêu, rộng dung, tha thứ cho kẻ lỗi biết ăn năn.
- Pháp là giữ công bình chánh trực.
Nếu có kẻ không nghe lời giáo hóa, cố tâm phạm luật, thì người cầm quyền cai trị lấy Thánh đức mà định hình phạt là cốt yếu cạo gọt cho nên hình người, chớ không phải kẻ cầm quyền mà để phạm vào tội ác bất nhơn, bởi Đạo quyền là Thánh trị, chớ không phải Phàm trị, các em nên nhớ. Còn Cơ đời sẽ biến chuyển cho đến ngày liễu kết cuộc chiến tranh hầu có lập lại đời Thánh đức. Đạo và Đời, Quốc và Cộng, như sau nầy: Họa Thi:
Họa lại bài thi của Hộ Pháp, đảo vận:
Lưỡi liềm chi dễ sánh Kim câu, !
Gây sự bởi ai tạo buổi đầu ?
Đông Hải mênh mông còn phải cạn,
Tây Hồ chật hẹp độ bao sâu ?
Tài ba Động Bích bao nhiêu sức?
Quyền phép Côn Lôn sẵn mấy bầu.
Quyết đoán cuộc cờ, ai thắng bại?
Chỉn xem Tiên Phật hướng về đâu ?Anh mừng các em, xin nhắn lời cám ơn Hộ Pháp.!”
Thật ra thi văn của Đức Quyền Giáo-Tông rất nhiều, cả thơ xướng họa nữa. Nhiều nhất là những bài giáng Cơ, Đức Ngài giáng về dạy đủ mọi việc. Xin đọc những đề tài “Tam đầu chế Cửu Trùng Đài” hoặc cuộc đời của Đức Quyền Giáo Tông” cùng Soạn giả.
&
4- THÁI ĐẦU SƯ THÁI MINH TINH
Thế danh Nguyễn Văn Giáp (1883-1927)
Hòa Thượng Thích Thiện Minh, học trò của Hòa Thượng Như Nhãn Thích Từ Phong. Thiện Minh được Đức Chí-Tôn phong Đầu sư phái Thái. Thánh danh là Thái Minh Tinh ngày 13-10-Bính Dần. Ông là một trong 247 vị đứng tên trong Tờ Khai Đạo. Ông mất năm 1927. Trước đó bị Đức Lý ngưng quyền, chức.
Thầy dạy tháng 4 Bính Dần (dl: tháng 5 năm 1926 )
“Thiện Minh, con há ! Mầng con, Con ôi ! Khi Thầy giáng sanh lập Đạo Thánh, Thầy phải đổ máu mà rửa tội cho chúng sanh, đến đỗi phải lấy Thân làm của tế, mà cầu khẩn cho chúng sanh. Hai ngàn năm chưa qua, giọt máu Thầy đã trôi hết. Nay con vì ma khảo, phải đổ máu mà rửa tội cho phái Thái. Chưa vì, sự vinh diệu con trước mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đã đặng so sánh cùng Thầy rồi. Cười! Con phải lấy hiệu Thiên ân là THÁI MINH TINH, làm Đầu Sư đạo Thiền. Con phải trông cậy pháp luật vô biên của Thầy” (TNCT. HH. 82)
Thầy nói với ông Như nhãn: Thầy cậy con một điều là đòi MINH, vì nó là Môn đệ của con, đặng giao chức Thái Đầu Sư cho nó đi Phổ Độ nhơn sanh. Cái trách nhậm ấy đáng lẽ về phần con, song con tuổi đã cao rồi, khó bề cực nhọc, nghe à ! Thầy để con trọn quyền mà Thầy xin con an lòng, Thầy lo chung cùng con, Thầy trông cậy nơi con lắm đó !” (ĐS. II. 238)
Trong năm Khai Đạo, Đức Chí Tôn Thiên phong ba vị Đầu Sư vào phẩm Đầu Sư đầu tiên của Đạo Cao Đài có mang ba chữ: Nhựt, Nguyệt, Tinh là ba bửu của Trời
- Đầu Sư phái Ngọc: Ngài Lê Văn Lịch, Thánh danh là Ngọc Lịch Nguyệt.
- Đầu Sư phái Thượng: Ngài Lê Văn Trung, Thánh danh Thượng Trung Nhựt, sau thăng Quyền Giáo Tông.
- Đầu Sư phái Thái: Hòa Thượng Thiện Minh, Thánh danh là Thái Minh Tinh.
Ngài Thiện Minh được Thiên phong Thái Đầu sư nhưng Ngài không hành Đạo, nên ngày 12-12-Bính Dần (dl 15-1-1927), Đức Lý Giáo Tông cách chức Thái Đầu Sư của Ngài Thiện Minh. Cũng trong ngày nầy (12-12-Bính Dần), Đức Chí Tôn phong Ngài Dương Văn Nương chức Thái Đầu Sư, Thánh danh Thái Nương Tinh.
Ba vị Đầu sư đầu tiên có mang chữ: NHỰT, NGUYỆT, TINH là ba báu của Trời, đó là một đặc ân của
cơ quan Cửu Trùng Đài. Nhưng chắc cũng là trong vòng
hữu định nên khiến như thế, vì mặt trời (NHỰT) cũng như mặt trăng (NGUYỆT) mỗi thứ chỉ có một, nên hai vị này giữ phẩm tước được bền bĩ, còn TINH tức là sao có đến 3.072 sao nên khiến cho vị mang chữ Tinh có đến hai người là Đầu sư: Thái Minh Tinh và Thái Nương Tinh.
Từ đó về sau thì tất cả Chức sắc Cửu Trùng Đài, dù ở phẩm Đầu sư đi nữa cũng lấy Thánh danh là chữ Thanh (cho nam phái), nữ lấy chữ Hương mà thôi, vì còn trong thời Lý Giáo-Tông nên Tịch đạo là THANH HƯƠNG. Qua một thời Giáo-Tông kế tiếp mới đổi Tịch là ĐẠO TÂM. Thử hỏi bao giờ mới đổi Tịch đạo và đã mãn thời Tịch đạo Thanh Hương chưa ?
Thử nhìn vào đôi liễn đối ở trước Báo-Ân-từ sẽ thấy rằng:
- BÁT phẩm chơn hồn tạo thế giới, hóa chúng sanh vạn vật hữu hình tùng thử ĐẠO,
- QUÁI hào Bác ái, định càn khôn phân đẳng pháp nhứt Thần phi tướng trị kỳ tâm TÂM
.png)