ĐẤNG CAO ĐÀI TÁ THẾ
Từ xưa, con người đã từng biết : Phật Đạo, Tiên Đạo, Thánh Đạo, Thần Đạo và Nhơn Đạo. Ngày nay có thêm Đạo Trời. Đó là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay gọi ngắn gọn là đạo Cao Đài.
Nền tân tôn giáo nầy do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ dạy đạo và khai đạo tại Việt Nam vào năm Bính Dần ( 1926 ). Chính Ngài là Giáo Chủ và tá danh là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Với danh xưng nầy hàm chứa sự hiện hữu của ba nền tôn giáo lớn ở Đông Phương :
Cao Đài: chỉ về Nho giáo. Nghĩa là cái đài cao vô đối, là Thái cực, ngôi của đấng Chúa Tể Càn Khôn mà Nho giáo sùng bái với danh hiệu là Thượng Đế.
Tiên Ông : chỉ một vị Đại Giác Kim Tiên thuộc Tiên giáo.
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát : chỉ một vị Phật thuộc Phật giáo.
Trong danh xưng: “ Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” đủ chỉ rõ sự qui nguyên Tam giáo thành một giáo lý và hai tiếng Cao Đài cũng còn là danh xưng của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngoài ra Ngài còn tự xưng là Thầy và gọi các môn đồ là “ Các con”.
Với danh xưng Cao Đài được Đức Chí Tôn giải thích trong bài Thánh Ngôn như sau:
Nhiên Đăng Cổ Phật thị Ngã,
Thích Ca Mâu Ni thị Ngã,
Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã,
Kim viết Cao Đài.
(Trích Phổ Cáo Chúng Sanh)
Nghĩa là:
Nhiên Đăng Cổ Phật là Ta,
Thích Ca Mâu Ni Phật là Ta,
Thái Thượng Nguơn Thỉ là Ta,
Nay gọi là Đấng Cao Đài.
Các Đấng vừa kể trên là những vì Giáo Chủ của các tôn giáo thuộc hai thời kỳ được liệt kê như sau:
Thời Thượng cổ hay Thời Thượng Nguơn:
Đức Nhiên Đăng Cổ Phật khai Phật giáo
Đức Hồng Quân Lão Tổ khai Tiên giáo
Đức Văn Tuyên Đế Quân khai Nho giáo
Đó là Tam giáo Đại Đạo, là Đại Đạo Nhứt Kỳ Phổ Độ
Thời Trung cổ hay Thời Trung Nguơn:
Đức Thích Ca Mâu Ni chấn hưng Phật giáo
Đức Lão Tử chấn hưng Tiên giáo ( Đạo giáo )
Đức Khổng Phu Tử chấn hưng Nho giáo.
Đức chúa Jésus Christ lập Thánh giáo bên Thái Tây
Đức Khương Tử Nha chủ trương Thần Đạo ở Trung Hoa
Đó là Ngũ chi Đại Đạo, là Đại Đạo Nhị Kỳ Phổ Độ
Từ đó chúng ta hiểu được rằng : Tất cả các vì Giáo Chủ của các tôn giáo thuộc Nhứt Kỳ Phổ Độ và Nhị Kỳ Phổ Độ đều do sự phân tánh của Đức Chí Tôn hay nói rõ hơn, quí Ngài là hiện thân của Đức Chí Tôn giáng trần để mở Đạo.
Nay đến thời Hạ Nguơn Mạt Pháp, Đức Chí Tôn lại khai sáng thêm nền tân tôn giáo: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Sở dĩ vào các thời Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn cho mở ra nhiều mối Đạo, nay lại mở thêm Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, qua cơ bút Ngài giải thích rằng:
“ Vốn từ trước, Thầy lập Ngũ Chi Đại Đạo là: Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thámh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo. Thầy tùy theo phong hóa của nhơn loại mà gầy chánh giáo, vì trước thế giới chưa thông đồng, nhơn loại chỉ hành đạo nơi tư phương của mình mà thôi, Còn nay, thế giới đã tận thức, nhơn loại hiệp đồng thì lại bị phần nhiều các Đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy nhứt định qui nguyên, phục nhứt”
Tóm lại, Đức Chí Tôn qui nguyên Tam giáo thành một học lý, còn hiệp Ngũ chi nhằm vào phần thực hành. Khi nhập môn, người tín đồ thực thi Nhơn Đạo, rồi tiến lên Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo rồi Phật Đạo.
Ngoài ra Đức Hộ Pháp còn giải thích thêm:
“ Khi khai Thánh giáo bên Thái Tây, Đức Chí Tôn có nói trước rằng: Còn nhiều chuồng Chiên, Người sẽ đến đem về làm một, Nghĩa là còn nhiều Đạo đang nuôi nấng, ung đúc tinh thần con cái của Đức Chí Tôn đặng chờ ngày Người đến hiệp chung lại một. Lời ấy ngày nay đã quả như vậy.
Các chuồng chiên Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn là:
PHẬT ĐẠO: có Bà La Môn, Thích Ca Mâu Ni, Pythagore giáo.
TIÊN ĐẠO: có Lão Tử, Dương Châu, Mặc Địch…
THÁNH ĐẠO: Thiên Chúa giáo, Gia Tô, Tin Lành, Hồi Hồi…
THẦN ĐẠO: có Trung Hoa Phong Thần, Hi Lạp Phong Thần và Ai Cập Phong Thần.
NHƠN ĐẠO: có Socrate, Esobe, Platon…ở Hi Lạp. Còn ở Trung Hoa thì có Khổng Tử , Mạnh Tử, Nhị Trình Giáo…
Vì nhơn tâm bất nhứt nên năm mối Đạo kể trên phân chia làm cho nhơn loại nghịch lẫn nhau, Đức Chí Tôn đến đặng hiệp lại một nhà, ước mong sao cho con cái của Ngài biết thương yêu, hòa thuận và nhất là để các tôn giáo biết nhìn nhau trong đường hành thiện, làm cho thế giới hòa bình, thoát cơ tận diệt”. Đó là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một nền đạo lớn, khai lần thứ ba, Phổ độ tất cả nhơn sanh không phân biệt màu da, sắc tóc, không phân biệt tôn giáo hoặc nói trắng ra là đứng trước Đức Thượng Đế, cả chúng sanh đều là con một cha, đều được Đại Từ Phụ cứu rỗi như nhau.
Đức Chí Tôn dạy rằng: “ Thầy khuyên các con nên học Từ Bi, Bác ái của Phật Đạo, nên rèn luyện Tu Tâm, Dưỡng Tánh thư nhàn của Tiên Đạo, thực thi Nhơn Nghĩa của Nho Đạo hầu về cùng Thầy”
Lời Thánh huấn nầy bao hàm sự qui nguyên Tam giáo và đã nói lên phần nào chánh yếu của giáo lý Cao Đài.
Nói tóm lại, giáo lý Cao Đài được chia ra làm hai phần:
1/ Phần Thế Đạo: Lấy tinh túy Nho giáo làm nền tảng để đưa con người đến Chân, Thiên, Mỹ, để sửa đời mất Đạo Đức thành đời có Đạo Đức. Đó là phương hướng dùng Nho Tông Chuyển Thế. Vì vậy, người tín đồ Cao Đài ai ai cũng đặt phần tu Nhơn Đạo lên hàng đầu. Chính chiếc khăn đóng đội trên đầu của người tín đồ Cao Đài với lằn xếp chữ NHƠN bằng Hán tự trước trán cũng đã nói lên điều đó. Đồng thời thực tế cũng đã chứng minh rằng:
“ Dục tu Tiên Đạo, tiên tu Nhơn Đạo. Nhơn Đạo bất tu , Tiên Đạo viễn hỷ !” nghĩa là: Muốn tu Tiên Đạo, trước tu Nhơn Đạo. Nhơn Đạo không tu, Thiên Đạo xa vời lắm vậy.
hoặc:
Buông trôi ví chẳng tròn Nhơn Đạo,
Còn có mong chi đến Đạo Trời.
Hoặc:
Vượt ra khỏi lãnh vực cá nhân, là xã hội, là quốc gia, là cộng đồng nhơn loại, có thể nói phần Thế Đạo của tôn giáo Cao Đài được gói ghém trong hai câu liển ở cổng Chánh Môn Tòa Thánh Tây Ninh và ở cổng các Thánh Thất như sau:
CAO THƯỢNG CHÍ TÔN ĐẠI ĐẠO HÒA BÌNH DÂN CHỦ MỤC
ĐÀI TIỀN SÙNG BÁI TAM KỲ CỘNG HƯỞNG TỰ DO QUYỀN.
Quả nhiên, nếu từ cá nhân, đến gia đình, rồi ra ngoài xã hội, phần Nhơn Đạo được thực thi chu đáo, thì gia đình nào không hạnh phúc? Thế giới nào không thái bình ? thiên hạ làm sao không sống đời Thánh Đức?
2/ Phần Thiên Đạo: Đức Chí Tôn truyền Bí Pháp tu luyện cũng như ban Hồng Ân Đại Ân Xá Kỳ III để tất cả con cái của Ngài vào thời Hạ Nguơn Mạt Pháp chỉ trong một kiếp tu cũng được qui hồi cựu vị trên cõi Thiêng Liêng Hằng sống.
Tại Hiệp Thiên Đài Tòa Thánh Tây Ninh là nơi làm trung gian hiệp thông giữa Thượng Đế và con người có hai câu liễn cũng nói lên cứu cánh về phần Thiên Đạo như sau:
Giáo lý Cao Đài mặc dầu có sự phân chia hai phần : Thế Đạo và Thiên Đạo, tuy nhiên người tín đồ Cao Đài luôn luôn phối hợp cả hai trong đời sống hằng ngày. Nói rõ hơn giữa phần Thiên Đạo và Thế Đạo có sự liên kết chặt chẽ . Thiên Đạo trỏ cái Chân lý, Thế Đạo trỏ con đường phải theo để đạt cái chân lý ấy.
Nói tóm lại, Đức Chí Tôn lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ngài cho nhơn loại biết: Tất cả chúng sanh đều là con một cha, là anh em một nhà.Đã là con một cha và là anh em một nhà thì phải thương yêu nhau, cùng dìu dắt và chỉ bảo cho nhau mà tiến hóa để trở về hiệp nhứt cùng Ngài.
Từ nền tảng nầy:
Người tín đồ Cao Đài có được tinh thần khai phóng, luôn luôn coi tôn giáo của mình là tôn giáo của mọi người và tôn giáo của mọi người cũng là tôn giáo của mình.
Tất cả nhơn loại cùng hường về một đức tin duy nhứt ở một Đấng Tối Cao, Đấng Cha Lành của toàn nhơn loại. Đó là bước khởi đầu cho loài người tiến đến một Cộng Đồng Nhơn Loại thái bình, thịnh trị và sau cùng là đời Thánh Đức được hình thành như Thánh Ý của Đức Chí Tôn đã tiên liệu khi mở đạo Cao Đài.
Ngoài ra, Đức Chí Tôn còn lập ra luật Thương Yêu và quyền Công Chánh để làm Chơn Pháp cho nền Đại Đạo và còn cho nhơn loại biết: Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh. Nếu các con không thương yêu nhau được thì đừng mong gì được chuyển hóa về đời sống Thượng Nguơn Thánh Đức chứ đừng nói chi đến quả vị Tiên Phật.
Để kết thúc bài viết nầy, chúng tôi xin trích đoạn Thánh Ngôn do Đức Chí Tôn giáng cơ ngày 15/11/ Bính Dần ( 1927 ) như sau:
“ Chúng sanh chưa rõ nền Đạo quí trọng là dường nào. Đạo cũng do nơi phàm mà phát ra và tiếp lấy cái Thiêng Liêng của Thầy mà hiệp đồng, rồi mới sanh sanh, hóa hóa, thấu đáo Càn Khôn. Người mà biết Đạo, ấy là kẻ hữu phần, còn người chưa hiểu thấu đáo nền Đạo, ấy là kẻ chưa gặp được duyên may…”
Chúng tôi thành tâm cầu nguyện cho mọi người hữu huệ duyên gặp được Đạo để có đời sống thăng hoa, linh hồn được cứu rỗi và giải thoát nơi trầm luân khổ hải nầy.
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Tát.
HT PHẠM VĂN KHẢM
Từ xưa, con người đã từng biết : Phật Đạo, Tiên Đạo, Thánh Đạo, Thần Đạo và Nhơn Đạo. Ngày nay có thêm Đạo Trời. Đó là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay gọi ngắn gọn là đạo Cao Đài.
Nền tân tôn giáo nầy do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ dạy đạo và khai đạo tại Việt Nam vào năm Bính Dần ( 1926 ). Chính Ngài là Giáo Chủ và tá danh là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Với danh xưng nầy hàm chứa sự hiện hữu của ba nền tôn giáo lớn ở Đông Phương :
Cao Đài: chỉ về Nho giáo. Nghĩa là cái đài cao vô đối, là Thái cực, ngôi của đấng Chúa Tể Càn Khôn mà Nho giáo sùng bái với danh hiệu là Thượng Đế.
Tiên Ông : chỉ một vị Đại Giác Kim Tiên thuộc Tiên giáo.
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát : chỉ một vị Phật thuộc Phật giáo.
Trong danh xưng: “ Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” đủ chỉ rõ sự qui nguyên Tam giáo thành một giáo lý và hai tiếng Cao Đài cũng còn là danh xưng của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngoài ra Ngài còn tự xưng là Thầy và gọi các môn đồ là “ Các con”.
Với danh xưng Cao Đài được Đức Chí Tôn giải thích trong bài Thánh Ngôn như sau:
Nhiên Đăng Cổ Phật thị Ngã,
Thích Ca Mâu Ni thị Ngã,
Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã,
Kim viết Cao Đài.
(Trích Phổ Cáo Chúng Sanh)
Nghĩa là:
Nhiên Đăng Cổ Phật là Ta,
Thích Ca Mâu Ni Phật là Ta,
Thái Thượng Nguơn Thỉ là Ta,
Nay gọi là Đấng Cao Đài.
Các Đấng vừa kể trên là những vì Giáo Chủ của các tôn giáo thuộc hai thời kỳ được liệt kê như sau:
Thời Thượng cổ hay Thời Thượng Nguơn:
Đức Nhiên Đăng Cổ Phật khai Phật giáo
Đức Hồng Quân Lão Tổ khai Tiên giáo
Đức Văn Tuyên Đế Quân khai Nho giáo
Đó là Tam giáo Đại Đạo, là Đại Đạo Nhứt Kỳ Phổ Độ
Thời Trung cổ hay Thời Trung Nguơn:
Đức Thích Ca Mâu Ni chấn hưng Phật giáo
Đức Lão Tử chấn hưng Tiên giáo ( Đạo giáo )
Đức Khổng Phu Tử chấn hưng Nho giáo.
Đức chúa Jésus Christ lập Thánh giáo bên Thái Tây
Đức Khương Tử Nha chủ trương Thần Đạo ở Trung Hoa
Đó là Ngũ chi Đại Đạo, là Đại Đạo Nhị Kỳ Phổ Độ
Từ đó chúng ta hiểu được rằng : Tất cả các vì Giáo Chủ của các tôn giáo thuộc Nhứt Kỳ Phổ Độ và Nhị Kỳ Phổ Độ đều do sự phân tánh của Đức Chí Tôn hay nói rõ hơn, quí Ngài là hiện thân của Đức Chí Tôn giáng trần để mở Đạo.
Nay đến thời Hạ Nguơn Mạt Pháp, Đức Chí Tôn lại khai sáng thêm nền tân tôn giáo: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Sở dĩ vào các thời Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn cho mở ra nhiều mối Đạo, nay lại mở thêm Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, qua cơ bút Ngài giải thích rằng:
“ Vốn từ trước, Thầy lập Ngũ Chi Đại Đạo là: Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thámh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo. Thầy tùy theo phong hóa của nhơn loại mà gầy chánh giáo, vì trước thế giới chưa thông đồng, nhơn loại chỉ hành đạo nơi tư phương của mình mà thôi, Còn nay, thế giới đã tận thức, nhơn loại hiệp đồng thì lại bị phần nhiều các Đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy nhứt định qui nguyên, phục nhứt”
Tóm lại, Đức Chí Tôn qui nguyên Tam giáo thành một học lý, còn hiệp Ngũ chi nhằm vào phần thực hành. Khi nhập môn, người tín đồ thực thi Nhơn Đạo, rồi tiến lên Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo rồi Phật Đạo.
Ngoài ra Đức Hộ Pháp còn giải thích thêm:
“ Khi khai Thánh giáo bên Thái Tây, Đức Chí Tôn có nói trước rằng: Còn nhiều chuồng Chiên, Người sẽ đến đem về làm một, Nghĩa là còn nhiều Đạo đang nuôi nấng, ung đúc tinh thần con cái của Đức Chí Tôn đặng chờ ngày Người đến hiệp chung lại một. Lời ấy ngày nay đã quả như vậy.
Các chuồng chiên Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn là:
PHẬT ĐẠO: có Bà La Môn, Thích Ca Mâu Ni, Pythagore giáo.
TIÊN ĐẠO: có Lão Tử, Dương Châu, Mặc Địch…
THÁNH ĐẠO: Thiên Chúa giáo, Gia Tô, Tin Lành, Hồi Hồi…
THẦN ĐẠO: có Trung Hoa Phong Thần, Hi Lạp Phong Thần và Ai Cập Phong Thần.
NHƠN ĐẠO: có Socrate, Esobe, Platon…ở Hi Lạp. Còn ở Trung Hoa thì có Khổng Tử , Mạnh Tử, Nhị Trình Giáo…
Vì nhơn tâm bất nhứt nên năm mối Đạo kể trên phân chia làm cho nhơn loại nghịch lẫn nhau, Đức Chí Tôn đến đặng hiệp lại một nhà, ước mong sao cho con cái của Ngài biết thương yêu, hòa thuận và nhất là để các tôn giáo biết nhìn nhau trong đường hành thiện, làm cho thế giới hòa bình, thoát cơ tận diệt”. Đó là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một nền đạo lớn, khai lần thứ ba, Phổ độ tất cả nhơn sanh không phân biệt màu da, sắc tóc, không phân biệt tôn giáo hoặc nói trắng ra là đứng trước Đức Thượng Đế, cả chúng sanh đều là con một cha, đều được Đại Từ Phụ cứu rỗi như nhau.
Đức Chí Tôn dạy rằng: “ Thầy khuyên các con nên học Từ Bi, Bác ái của Phật Đạo, nên rèn luyện Tu Tâm, Dưỡng Tánh thư nhàn của Tiên Đạo, thực thi Nhơn Nghĩa của Nho Đạo hầu về cùng Thầy”
Lời Thánh huấn nầy bao hàm sự qui nguyên Tam giáo và đã nói lên phần nào chánh yếu của giáo lý Cao Đài.
Nói tóm lại, giáo lý Cao Đài được chia ra làm hai phần:
1/ Phần Thế Đạo: Lấy tinh túy Nho giáo làm nền tảng để đưa con người đến Chân, Thiên, Mỹ, để sửa đời mất Đạo Đức thành đời có Đạo Đức. Đó là phương hướng dùng Nho Tông Chuyển Thế. Vì vậy, người tín đồ Cao Đài ai ai cũng đặt phần tu Nhơn Đạo lên hàng đầu. Chính chiếc khăn đóng đội trên đầu của người tín đồ Cao Đài với lằn xếp chữ NHƠN bằng Hán tự trước trán cũng đã nói lên điều đó. Đồng thời thực tế cũng đã chứng minh rằng:
“ Dục tu Tiên Đạo, tiên tu Nhơn Đạo. Nhơn Đạo bất tu , Tiên Đạo viễn hỷ !” nghĩa là: Muốn tu Tiên Đạo, trước tu Nhơn Đạo. Nhơn Đạo không tu, Thiên Đạo xa vời lắm vậy.
hoặc:
Buông trôi ví chẳng tròn Nhơn Đạo,
Còn có mong chi đến Đạo Trời.
Hoặc:
Vượt ra khỏi lãnh vực cá nhân, là xã hội, là quốc gia, là cộng đồng nhơn loại, có thể nói phần Thế Đạo của tôn giáo Cao Đài được gói ghém trong hai câu liển ở cổng Chánh Môn Tòa Thánh Tây Ninh và ở cổng các Thánh Thất như sau:
CAO THƯỢNG CHÍ TÔN ĐẠI ĐẠO HÒA BÌNH DÂN CHỦ MỤC
ĐÀI TIỀN SÙNG BÁI TAM KỲ CỘNG HƯỞNG TỰ DO QUYỀN.
Quả nhiên, nếu từ cá nhân, đến gia đình, rồi ra ngoài xã hội, phần Nhơn Đạo được thực thi chu đáo, thì gia đình nào không hạnh phúc? Thế giới nào không thái bình ? thiên hạ làm sao không sống đời Thánh Đức?
2/ Phần Thiên Đạo: Đức Chí Tôn truyền Bí Pháp tu luyện cũng như ban Hồng Ân Đại Ân Xá Kỳ III để tất cả con cái của Ngài vào thời Hạ Nguơn Mạt Pháp chỉ trong một kiếp tu cũng được qui hồi cựu vị trên cõi Thiêng Liêng Hằng sống.
Tại Hiệp Thiên Đài Tòa Thánh Tây Ninh là nơi làm trung gian hiệp thông giữa Thượng Đế và con người có hai câu liễn cũng nói lên cứu cánh về phần Thiên Đạo như sau:
HIỆP NHẬP CAO ĐÀI BÁ TÁNH THẬP PHƯƠNG QUI CHÁNH QUẢ
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO NGŨ CHI TAM GIÁO HỘI LONG HOA
Giáo lý Cao Đài mặc dầu có sự phân chia hai phần : Thế Đạo và Thiên Đạo, tuy nhiên người tín đồ Cao Đài luôn luôn phối hợp cả hai trong đời sống hằng ngày. Nói rõ hơn giữa phần Thiên Đạo và Thế Đạo có sự liên kết chặt chẽ . Thiên Đạo trỏ cái Chân lý, Thế Đạo trỏ con đường phải theo để đạt cái chân lý ấy.
Nói tóm lại, Đức Chí Tôn lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ngài cho nhơn loại biết: Tất cả chúng sanh đều là con một cha, là anh em một nhà.Đã là con một cha và là anh em một nhà thì phải thương yêu nhau, cùng dìu dắt và chỉ bảo cho nhau mà tiến hóa để trở về hiệp nhứt cùng Ngài.
Từ nền tảng nầy:
Người tín đồ Cao Đài có được tinh thần khai phóng, luôn luôn coi tôn giáo của mình là tôn giáo của mọi người và tôn giáo của mọi người cũng là tôn giáo của mình.
Tất cả nhơn loại cùng hường về một đức tin duy nhứt ở một Đấng Tối Cao, Đấng Cha Lành của toàn nhơn loại. Đó là bước khởi đầu cho loài người tiến đến một Cộng Đồng Nhơn Loại thái bình, thịnh trị và sau cùng là đời Thánh Đức được hình thành như Thánh Ý của Đức Chí Tôn đã tiên liệu khi mở đạo Cao Đài.
Ngoài ra, Đức Chí Tôn còn lập ra luật Thương Yêu và quyền Công Chánh để làm Chơn Pháp cho nền Đại Đạo và còn cho nhơn loại biết: Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh. Nếu các con không thương yêu nhau được thì đừng mong gì được chuyển hóa về đời sống Thượng Nguơn Thánh Đức chứ đừng nói chi đến quả vị Tiên Phật.
Để kết thúc bài viết nầy, chúng tôi xin trích đoạn Thánh Ngôn do Đức Chí Tôn giáng cơ ngày 15/11/ Bính Dần ( 1927 ) như sau:
“ Chúng sanh chưa rõ nền Đạo quí trọng là dường nào. Đạo cũng do nơi phàm mà phát ra và tiếp lấy cái Thiêng Liêng của Thầy mà hiệp đồng, rồi mới sanh sanh, hóa hóa, thấu đáo Càn Khôn. Người mà biết Đạo, ấy là kẻ hữu phần, còn người chưa hiểu thấu đáo nền Đạo, ấy là kẻ chưa gặp được duyên may…”
Chúng tôi thành tâm cầu nguyện cho mọi người hữu huệ duyên gặp được Đạo để có đời sống thăng hoa, linh hồn được cứu rỗi và giải thoát nơi trầm luân khổ hải nầy.
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Tát.
HT PHẠM VĂN KHẢM
Liên Thanh Sưu Tập