Đạo Phật là chiếc cầu nối giữa những tư tưởng tôn giáo và khoa học bằng cách khích lệ con người khám phá những tiềm năng ngủ ngầm trong chính bản thân và môi trường chung quanh họ.
Trưởng Lão. Dr.K.Sri Dhammananda

Ngày
nay chúng ta đang sống trong một thời đại khoa học, và hầu như khoa học
ảnh hưởng đến mọi phương diện trong cuộc sống của chúng ta. Kể từ cuộc
cách mạng khoa học thế kỷ mười bảy, khoa học đã không ngừng vận dụng
những ảnh hưởng lớn lao của nó trên những gì chúng ta nghĩ và làm.
Tác
động của khoa học đã có một sức mạnh đặc biệt trên những niềm tin tôn
giáo truyền thống. Nhiều khái niệm tôn giáo cơ bản đang sụp đổ dưới sức
ép của khoa học hiện đại và không còn có thể chấp nhận được đối với tầng
lớp trí thức và những người hiểu biết rành rẽ. Nói chung, người ta
không còn có thể khẳng định chân lý đơn thuần qua những suy đoán thần
học hay chỉ dựa trên thẩm quyền của kinh điển một cách độc lập với xem
xét khoa học.
Chẳng hạn, những phát hiện của các nhà tâm lý hiện
đại đã chỉ ra cho thấy rằng, tâm con người, giống như thân xác vật lý,
làm việc theo những quy luật nhân quả, tự nhiên không có sự hiện diện
của một linh hồn bất biến như một số tôn giáo giảng dạy.
Một số
những người sùng bái tôn giáo thích phớt lờ những khám phá khoa học xung
đột với những tín điều tôn giáo của họ. Thái độ kiên quyết như vây quả
là một chướng ngại cho tiến bộ của con người. Bởi lẽ con người ngày nay
từ chối tin bất cứ điều gì một cách mù quáng, mặc dù nó đã từng được
chấp nhận theo truyền thống, tất nhiên những người sùng bái tôn giáo như
vậy sẽ chỉ thành công trong việc làm tăng thêm hàng ngũ những người
không tin những lý thuyết sai lầm của họ mà thôi.
Ngược lại, một
số nhà tôn giáo thấy cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với những lý
thuyết khoa học đã được nhiều người chấp nhận bằng cách đưa ra những sự
giải thích mới cho niềm tin tôn giáo của họ. Một thí dụ thích hợp cho
vấn đề đang bàn là Thuyết Tiến Hóa của Darwin.
Nhiều nhà tôn
giáo chủ trương con người là do Thượng đế trực tiếp tạo ra. Trái lại,
Darwin tuyên bố rằng con người tiến hóa từ loài vượn, một lý thuyết đã
làm đảo lộn những giáo lý về sự sáng tạo thần thánh và sự sa ngã của con
người. Bởi lẽ tất cả những nhà tư tưởng đã được khai sáng đều chấp nhận
thuyết của Darwin, cho nên các nhà thần học ngày nay có ít sự chọn lựa
ngoại trừ việc đưa ra một sự giải thích mới cho giáo lý của họ để phù
hợp với lý thuyết mà họ đã chống đối trong thời gian quá lâu này.
Trong
ánh sáng của những khám phá khoa học hiện đại, không có gì khó hiểu khi
thấy rằng những quan niệm liên quan đến vũ trụ và cuộc sống mà nhiều
tôn giáo chủ trương chỉ thuần là sản phẩm của những tư duy theo truyền
thống về điều vốn đã bị thay thế từ lâu. Về đại thể, sẽ là đúng khi nói
rằng các tôn giáo đã đóng góp rất lớn cho sự phát triển và tiến bộ của
con người. Tôn giáo đã định đặt những giá trị, tiêu chuẩn, và những
nguyên tắc rõ ràng để hướng dẫn đời sống con người.
Song ngoài
tất cả những cái tốt mà tôn giáo đã làm, tôn giáo không thể nào sống sót
trong thời đại khoa học được nếu những tín đồ của nó cứ khăng khăng
giam hãm sự thực vào những hình thức và những giáo điều, vào việc khuyến
khích những lễ nghi và một số pháp hành khác mà vốn đã bị rút cạn hết ý
nghĩa nguyên thủy của chúng.
Đạo Phật và Khoa Học
Cho
đến đầu thế kỷ vừa rồi, đạo Phật vẫn còn giới hạn trong những quốc gia
mà khoa học hiện đại không chạm tới được. Tuy nhiên, ngay từ buổi đầu
của nó, những lời dạy của Đức Phật đã luôn luôn mở ra cho tư duy khoa
học.
Một lý do tại sao Phật Pháp lại có thể dễ dàng được chấp
nhận bởi tinh thần khoa học đó là Đức Phật không bao giờ khuyến khích
loại niềm tin có tính cách giáo điều, cứng nhắc. Ngài cũng không tuyên
bố hãy y cứ những Lời Dạy của Ngài trên đức tin, sự tin tưởng, hay sự
huyền khải thần thánh, mà để cho mọi người có một sự tự do và uyển
chuyển về tư duy.
Lý do thứ hai đó là tinh thần khoa học có thể
được tìm thấy trong cách tiếp cận Chân Lý phổ quát của Đức Phật. Phương
pháp của Đức Phật nhằm khám phá và kiểm chứng Chân Lý rất giống như
phương pháp của nhà khoa học. Một khoa học gia quan sát thế giới bên
ngoài một cách khách quan, và sẽ chỉ thiết lập một lý thuyết khoa học
sau khi đã tiến hành nhiều cuộc thí nghiệm thực tiễn thành công.
Hai
mươi lăm thế kỷ trước, bằng một phương pháp tương tự, Đức Phật đã quan
sát thế giới nội tại với thái độ vô tư, và khuyến khích các đệ tử của
Ngài không nên chấp nhận bất cứ lời dạy nào cho đến khi họ đã tự thân
khảo sát và xác chứng hiện thực của nó. Nếu như nhà khoa học ngày nay
không tuyên bố rằng thí nghiệm của họ những người khác không thể lặp
lại, Đức Phật cũng không tuyên bố kinh nghiệm Giác Ngộ của Ngài là độc
quyền của Ngài.
Như vậy, trong cách tiếp cận Chân Lý, Đức Phật
đã theo pháp phân tích như các nhà khoa học hiện nay. Ngài đã thiết lập
một phương pháp tiến hành có tính cách khoa học và thực tiễn cho việc
đạt đến Chân Lý Tối Hậu và chứng nghiệm sự Giác Ngộ.
Trong khi
đạo Phật phù hợp rất nhiều với tinh thần khoa học, thì vẫn không đúng
khi đánh đồng đạo Phật với khoa học. Thực sự mà nói rằng những ứng dụng
của khoa học đã cho nhân loại khả năng sống những cuộc sống thoải mái,
tiện nghi hơn, và kinh nghiệm được những điều kỳ diệu mà người ta chưa
từng mơ tưởng trước đây.
Khoa học có thể làm cho con người bơi
nhanh hơn cá, bay cao hơn chim, và đi được trên cả mặt trăng. Tuy thế
lĩnh vực kiến thức có thể chấp nhận được đối với trí tuệ của khoa học
vẫn bị giới hạn trong những chứng cớ dựa vào kinh nghiệm. Và sự thực hay
chân lý của khoa học vẫn phải chịu sự biến đổi không ngừng. Khoa học
không thể giúp con người làm chủ được tâm của họ, nó cũng không đưa ra
một sự kiểm soát đạo đức, cũng như một mục đích nào cho cuộc sống. Bất
chấp những kỳ diệu của nó, khoa học thực sự vẫn có nhiều chỗ hạn chế mà
đạo Phật đã vượt qua được.
Những Giới Hạn của Khoa Học
Chúng
ta thường nghe nói rất nhiều về khoa học và về những gì nó có thể làm,
và rất ít nghe về những gì khoa học không thể làm được. Kiến thức khoa
học bị hạn chế vào những dữ liệu tiếp nhận qua các giác quan. Khoa học
không nhận ra được thực tại vượt ngoài các dữ liệu giác quan. Chân lý
của khoa học được xây dựng trên những quan sát về dữ liệu giác quan vốn
thay đổi liên tục.
Do đó, có thể nói chân lý của khoa học là chân
lý tương đối và không nhằm để chịu đựng sự thử nghiệm của thời gian. Và
một nhà khoa học, biết rất rõ về sư kiện này, luôn sẵn lòng vất bỏ một
lý thuyết nếu nó có thể được thay thế bằng một lý thuyết hay hơn.
Khoa
học cố gắng để hiểu thế gian bên ngoài và hầu như không giải quyết được
thế gian bên trong của con người. Ngay cả khoa tâm lý học cũng thực sự
không hiểu thấu được nguyên nhân cơ bản của bất ổn tâm lý trong con
người. Khi một người bị thất vọng và chán ngán cuộc đời, thế giới nội
tâm của anh ta đầy những phiền muộn và bất an, khoa học ngày nay không
được trang bị gì nhiều để giải quyết những trường hợp như vậy. Khoa học
xã hội vốn chăm sóc cho hoàn cảnh của con người có thể đem lại cho anh
ta một mức độ hạnh phúc nào đó.
Nhưng không giống như một con
vật, con người đòi hỏi nhiều hơn chỉ là sự thoải mái thể xác và những
nhu cầu vật chất giúp cho họ đương đầu với những thất vọng và sầu khổ
phát sinh từ những nếm trải hàng ngày của anh ta. Ngày nay rất nhiều
người phải khổ sở vì sợ hãi, bất ổn và không được an toàn trong cuộc
sống. Tuy thế khoa học cũng không có cách gì giúp đỡ được cho họ. Khoa
học không thể dạy cho con người bình thường biết làm thế nào để kiểm
soát được tâm khi họ bị thôi thúc bởi bản năng thú vật thiêu đốt bên
trong.
Liệu khoa học có thể làm cho con người tốt hơn không?
Nếu
khoa học có thể, tại sao những hành động bạo lực và phi đạo đức lại
nhan nhản xảy ra trong các nước được xem là rất tiến bộ về khoa học như
thế? Có công bằng không khi nói rằng bất chấp mọi tiến bộ khoa học đã
thành tựu và bất chấp những thuận lợi mà nó ban tặng cho con người, về
cơ bản khoa học vẫn không thay đổi được bản chất nội tại của con người:
khoa học chỉ làm cho những cảm giác lệ thuộc, dựa dẫm và thiếu thốn của
con người tăng thêm mà thôi?
Ngoài những thất bại của nó trong
việc mang lại sự yên ổn cho nhân loại, khoa học cũng còn làm cho mọi
người cảm thấy thậm chí bất ổn hơn bằng cách đe dọa thế giới với khả
năng huỷ diệt trên quy mô lớn. Khoa học không thể đưa ra một mục đích có
ý nghĩa cho cuộc sống.
Nó cũng không thể cho con người thấy
những lý do rõ ràng để sống. Thực sự, khoa học về bản chất là hoàn toàn
thế tục và không quan tâm đến mục đích tinh thần của con người. Khuynh
hướng thiên về vật chất cố hữu trong tư duy khoa học phủ nhận những mục
đích tâm linh cao hơn sự thoả mãn vật chất.
Bằng những lý thuyết
có chọn lựa và những sự thực tương đối, khoa học đã không để ý tới những
vấn đề thiết yếu nhất của con người và còn để lại rất nhiều câu hỏi
không trả lời được. Chẳng hạn, khi được hỏi tại sao có những bất bình
đẳng về thể chất và tinh thần hiện hữu giữa con người, không có sự giải
thích khoa học nào có thể đưa ra cho những câu hỏi vốn vượt ngoài giới
hạn hẹp hòi của nó như vậy.
Sự Ngu Dốt Thông Thái
Tâm siêu thoát (thế gian) do
Đức Phật phát triển không bị giới hạn vào những dữ liệu - giác quan và
vượt ra ngoài lý luận lôgic vốn mắc kẹt trong giới hạn của nhận thức
tương đối. Ngược lại, trí tuệ của con người hoạt động trên căn bản của
thông tin nó thu thập và tồn trữ, dù trong lĩnh vực tôn giáo, triết lý,
khoa học hay nghệ thuật.
Thông tin cho tâm được thu thập qua các
giác quan của chúng ta vốn thấp kém trên rất nhiều mặt. Chính những
thông tin rất giới hạn này đã làm cho sự hiểu biết của chúng ta về thế
gian bị bóp méo đi.
Trong cuốn sách của mình, Sự Ngu Dốt Thông Thái, một học giả Pháp có tên là Nicholas Cusa đã quan sát :
“Tất
cả kiến thức được xem là đáng tán dương dựa trên các giác quan của
chúng ta thực ra chỉ là sự ngu dốt, và kiến thức đích thực chỉ có được
bằng cách lột bỏ tất cả những chỗ dựa này cho đến khi chúng ta tư duy mà
không dùng đến những ý niệm giác quan.”
“Chân
Lý không lệ thuộc vào những vấn đề bên ngoài mà ở bên trong chúng ta.
Chúng ta không thể hy vọng khám phá Chân Lý bằng những thí nghiệm và
nhận thức - giác quan hay thậm chí bằng tính lôgic và sự minh chứng. Đây
là những phương tiện để có được kiến thức chứ không phải Chân Lý. Sách
vở chỉ kích thích những tư duy và cho bạn kiến thức. Đối với Chân Lý bạn
phải xoay mắt vào bên trong vì nó nằm ở trong bạn. Do đó, tìm kiếm kiến
thức là một chuyện, và tầm cầu Chân Lý là một chuyện khác."
“Chữ
nghĩa là sản phẩm của tâm trí hữu hạn của chúng ta và tâm trí thì lại
dựa mọi sự hiểu biết của nó trên kinh nghiệm của giác quan. Các giác
quan này đôi khi cũng chẳng đáng tin cậy; một sự việc xảy ra nhiều người
thấy song có thể được giải thích theo những cách khác nhau.”
Một
số người cảm thấy hãnh diện về điều rằng họ biết được rất nhiều. Thực
sự ra, chúng ta càng biết ít, chúng ta càng chắc chắn trong sự giải
thích của chúng ta; chúng ta càng biết nhiều, chúng ta càng nhận ra
những hạn chế của chúng ta hơn mà thôi.
Một học giả lỗi lạc có
lần đã viết trong một cuốn sách mà ông xem như tác phẩm tối hậu của ông.
Ông cảm thấy rằng cuốn sách ấy đã chứa đựng hết thảy mọi điều quý giá
về văn chương và triết lý. Hãnh diện với thành tựu này, ông đem khoe
kiệt tác của mình với một đồng nghiệp cũng tài ba như ông với lời đề
nghị ông này duyệt lại giùm cuốn sách.
Thay vì duyệt, bạn đồng
nghiệp của ông lại yêu cầu tác giả viết vào một miếng giấy tất cả cái mà
ông biết và tất cả cái mà ông không biết. Tác giả ngồi xuống trầm tư,
nhưng sau một lúc ông không viết được bất cứ điều gì ông biết cả. Ông
bèn quay qua suy nghĩ đến câu hỏi thứ hai, và ông cũng lại không viết
được bất cứ điều gì ông không biết. Cuối cùng, với lòng tự hào trong
tình trạng thê thảm nhất, ông đầu hàng, nhận ra rằng tất cả cái mà ông
biết thực sự chỉ là sự ngu dốt.
Liên quan đến điều này, Socrates,
một triết gia Hy Lạp nổi tiếng của Thế Giới Cổ Đại, đã nói như thế này
khi được hỏi về những điều ông biết:
“Tôi chỉ biết một điều – đó là Tôi không biết gì cả”.
Vượt Qua Khoa Học
Đạo
Phật vượt qua khoa học hiện đại trong việc thừa nhận một lĩnh vực tri
kiến rộng lớn hơn đã được chấp nhận bởi tâm trí khoa học. Đạo Phật thừa
nhận kiến thức phát sanh từ các giác quan cũng như những kinh nghiệm cá
nhân đạt được qua sự tu tập tập tâm. Do tu tập và phát triển một tâm
định cao, kinh nghiệm tâm linh có thể được hiểu và xác chứng. Kinh
nghiệm tâm linh không phải là điều gì có thể được hiểu bằng việc tiến
hành những thí nghiệm trong ống nghiệm hay khảo sát dưới ống kính hiển
vi.
Sự thực mà khoa học khám phá là sự thực tương đối và phải
chịu sự thay đổi, trong khi sự thực do Đức Phật khám phá là sự thực cuối
cùng và tuyệt đối: Sự Thực của Pháp (Dhamma) không
bị thay đổi theo thời gian và không gian. Hơn nữa, trái với những lý
thuyết có chọn lựa của khoa học, Đức Phật khuyến khích bậc trí không
chấp chặt vào những lý thuyết, dù là khoa học hay không khoa học.
Thay
vì lý thuyết, Đức Phật dạy con người cách sống một cuộc sống chánh
trực, bằng cách điều phục các căn, dứt bỏ tham dục, Đức Phật đã chỉ
đường để chúng ta có thể khám phá bản chất của đời sống trong chính
chúng ta. Và mục đích thực sự của cuộc sống là điều có thể khám phá.
Trong
đạo Phật thực hành là quan trọng. Một người học nhiều nhưng không thực
hành cũng giống như người có thể đọc vanh vách những công thức nấu ăn
trong một cuốn sách dạy nấu ăn khổng lồ mà không cố gắng nấu nướng một
món ăn nào cả. Tất nhiên cơn đói của anh ta không thể nào dứt chỉ bằng
kiến thức sách vở như vậy. Thực hành là một điều kiện tiên quyết cho sự
giác ngộ và quan trọng tới mức trong một số trường phái Phật giáo, như
Zen (Thiền Tông), thực hành thậm chí được đặt lên trước tri kiến.
Phương
pháp khoa học có tính cách hướng ngoại, và các khoa học gia hiện đại
thường lợi dụng thiên nhiên và các hiện tượng tự nhiên để tìm cảm giác
thoải mái cho riêng họ, không quan tâm đến sự cần thiết phải hoà hợp với
môi trường và vì thế đã làm ô nhiễm thế gian. Ngược lại, đạo Phật hướng
nội và quan tâm đến sự phát triển tâm hồn của con người. Ở mức thấp
nhất, đạo Phật dạy mỗi con người biết cách làm thế nào để thích nghi và
ứng đối với những sự kiện và hoàn cảnh của cuộc sống hàng ngày. Ở mức
cao hơn, đạo Phật thúc đẩy con người cố gắng vượt lên chính mình qua
việc trau dồi và phát triển tâm.
Đạo Phật có một hệ thống tu tập tâm hoàn chỉnh chú trọng đến việc có được một cái nhìn thấu thị vào bản chất của mọi vật (các Pháp) dẫn
đến sự tự chứng Chân Lý Tối Hậu - Niết-bàn. Hệ thống này vừa thực tiễn
và vừa khoa học; nó cần đến một sự quan sát vô tư, khách quan về những
cảm xúc và những trạng thái tâm. Giống một nhà khoa học hơn là giống một
quan toà, người hành thiền quan sát thế giới nội tâm với chánh niệm.
Khoa Học Không Tôn Giáo
Không
có những lý tưởng đạo đức, khoa học tạo ra một mối nguy cho toàn thể
nhân loại. Khoa học đã chế tạo ra máy móc để rồi đến lượt nó trở thành
chúa tể. Bom, đạn là những món quà của khoa học dành cho một thiểu số
người nắm quyền lực mà số phận của thế giới tùy thuộc vào họ.
Trong
khi đó phần còn lại của nhân loại chờ đợi trong nỗi thống khổ và sợ
hãi, không biết khi nào thì những vũ khí hạt nhân, những loại hơi độc,
những vũ khí chết người - đây là tất cả những thành quả của nghiên cứu
khoa học được hoạch định để giết người một cách hiệu quả - sẽ được đem
sử dụng trên họ. Khoa học chẳng những không thể đưa ra một sự hướng dẫn
đạo đức nào cho nhân loại, đã thế nó lại còn tiếp thêm nhiên liệu cho
ngọn lửa tham ái của con người.
Khoa học không đạo đức kết quả
chỉ là sự huỷ diệt: nó trở thành con quái vật khắc nghiệt mà con người
tìm ra. Và bất hạnh thay, con quái vật này lại trở nên mạnh hơn cả chính
con người! Trừ phi con người biết cách chế ngự và cai quản con quái vật
qua việc thực hành đạo đức tâm linh, bằng không thì chẳng bao lâu nữa
con quái vật sẽ áp đảo con người. Không có sự hướng dẫn tâm linh, khoa
học đe dọa thế gian với sự huỷ diệt.
Trái lại, nếu khoa học gắn
liền với một tôn giáo giống như đạo Phật thời nó có thể biến đổi thế
gian này thành thiên đường của sự bình yên, an toàn và hạnh phúc.
Chưa
có lúc nào sự đồng hợp tác giữa khoa học và tôn giáo lại cần đến một
cách cực kỳ nghiêm trọng như thế trong tinh thần quan tâm và phục vụ tốt
nhất cho nhân loại. Tôn giáo không khoa học thì mù, trong khi khoa học
không tôn giáo thì què.
Sự Ngưỡng Mộ Đạo Phật
Trí
tuệ của đạo Phật thiết lập trên lòng từ bi có vai trò quan trọng trong
việc hiệu chỉnh đích đến nguy hiểm mà khoa học hiện đại đang hướng tới.
Đạo phật có thể cung cấp một sự lãnh đạo tinh thần để hướng dẫn những
nghiên cứu và phát minh của khoa học trong việc thúc đẩy một nền văn hoá
rạng rỡ trong tương lai. Đạo Phật có thể đưa ra những mục đích xứng
đáng cho sự thăng tiến của khoa học mà hiện thời đang trong tình trạng
bế tắc tuyệt vọng do bị nô lệ cho chính những phát minh của nó.
Albert Einstein đã hết lòng ngưỡng mộ đạo Phật khi ông nói, “Nếu có một tôn giáo nào đáp ứng được những nhu cầu căn bản của khoa học hiện đại, tôn giáo đó hẳn phải là Phật Giáo”. Đạo Phật không đòi hỏi phải xét lại để giữ cho nó “cập nhật” với những khám phá gần đây của khoa học.
Đạo
Phật cũng không nhất thiết phải nhượng bộ những quan điểm của nó trước
tinh thần khoa học vì, có thể nói, đạo Phật đã bao gồm khoa học cũng như
vượt qua cả khoa học.
Đạo
Phật là chiếc cầu nối giữa những tư tưởng tôn giáo và khoa học bằng
cách khích lệ con người khám phá những tiềm năng ngủ ngầm trong chính
bản thân và môi trường chung quanh họ. Đạo Phật là muôn thuở!
Dịch giả: Pháp Thông