Tủ Sách Cao Đài - Hòa Hảo

DIỆU MINH BẢO PHÁP DI LẠC CHƠN KINH

Đăng lúc: 22:45 PM 01/06/2018 0   1094

Cùng Chủ Đề

HỘI LONG HOA - phần một
TRIẾT LÝ VỀ HỘI LONG HOA QUA CÁC TÔN GIÁOTIẾT 1: HỘI LONG HOA LÀ...
HỘI LONG HOA - phần hai
C. HỘI LONG HOA     ...
HỘI LONG HOA - phần ba - Hết
V. PHẬT GIÁO HÒA...

DIỆU MINH BẢO PHÁP DI LẠC CHƠN KINH

 

THƯỢNG-NGUƠN THÁNH-ÐỨC

DIỆU-MINH BẢO-PHÁP DI-LẶC CHƠN-KINH


 KHAI KINH

THI:

Khai thị Chơn Kinh Bảo Pháp truyền,

Ân điển diệu thần ứng hóa duyên,

Sung mãn, căn linh hồi kiến tánh,

Lưu hành quảng đại thế bình yên.

THI:

THƯỢNG-NGUƠN khai dựng thế gần đây,

THÁNH-ÐỨC trau tâm kịp buổi nầy,

DIỆU-MINH vô lượng hoằng đại nghĩa,

BẢO-PHÁP siêu thâm lý Ðạo Thầy,

DI-LẶbửu truyền LONG-HOA HỘI,

CHƠN-KINH quán hiện phổ dương khai,

Cầu vấn, Phật ngôn minh Chánh Pháp,

Trí huệ sưu căn định kiếp ngay.

     NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT! DI-LẶC THIÊN-TÔN điều ngự lai lâm.

     NAM MÔ HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ÐẾ NGỌC HOÀNG ÐẠI THIÊN TÔN.

     Trên Kim-Khuyết-Tòa có NGỌC-HOÀNG cao ngự chứng giám, TAM TRẤN oai nghiêm, TAM GIÁO thượng đỉnh, hạ kiệt Ðịa Phủ THẬP ÐIỆN MINH VƯƠNG, GIÁO CHỦ ÐỊA-TẠNG VƯƠNG BỒ-TÁT đẳng lai chầu hội thượng đại khóa khai xuất Minh Kinh. LONG THIÊN HỘ PHÁP đồng lai bảo hộ Ðàn Tiền Ðiềm Trời biến động, gió cuốn mây giăng, Thiện Nữ Nhân hãy đại tịnh tiếp tròn linh điển, khi Lễ Khai Xuất được hoàn thành thì mây tan gió tạnh.

      Hôm nay là ngày đại hạnh, đại phúc đến cõi Ta Bà nầy, hễ Chơn Kinh được khai xuất thì khí tiết dung hòa, toàn thể sanh linh sẽ hạnh ngộ điềm lành, đến chỗ cứu cánh Chơn, Thiện, Mỹ, hễ đạt ngộ Chánh Pháp thì Bỉ Ngạn đáo sanh. Chơn Kinh là diệu pháp, hồi phục tánh Linh Căn. Kinh Ðiển khai minh là thuyền từ vớt độ, rước kẻ thiện duyên, giúp kẻ tối được minh tâm, độ người hiền mau kiến tánh, kẻ tà vạy sớm hồi minh quày đường Chánh Giác, người mê mau thức tĩnh, kẻ dữ khiến nguyện lành, xa lánh nghiệp mê tân đã mấy ngàn năm luân trầm nơi biển khổ.

      Kinh Pháp là phương châm giúp đời diệt khổ, cải hóa, hồi minh, lập Ðức Thánh, Nhân Hiền để tiến hóa sang triều đại Thái Bình, thoát qua cơn biến thiên đại cuộc.

      BẠCH DIỆU HOA ! Phần diễn tả Chơn Kinh sẽ hoàn toàn chú trọng về tinh thần, vì Chơn Kinh là báu trọng, thế gian đâu dễ tìm cầu! Thiện Nữ cần tu yên thanh tịnh, thường tinh tấn; Ðịnh là viên khai trí huệ; Kinh Pháp là vô lượng nghĩa. Chơn Kinh phát hiện như Trời mưa xuống nước Ma-Ha, cứu cảnh rối loàn buổi đời mạt hậu trược ác lỗi lầm, biến hiện sáng suốt tươi nhuận như ánh đuốc thiêng, như hoa Trời rải khắp cõi đất, thơm quý như mùi hương Chiên-Ðàn bay khắp mười phương!

      Nay giờ Khai Kinh! Các Chư Thiên còn hội tại NGỌC-KINH ÐỀN , Ta thâu hồi Ðại Pháp, giã Thiện Nữ Nhân, kiếu.

            Nam Mô Long Hoa Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

 

ÐỆ THỨ NHỨT: NGUYÊN NHÂN ÐẠI-ÐẠO

      Tôi nghe như vầy: Lời Phật dạy rằng:) Bạch-Diệu-Hoa, Thiện Nữ Nhân hãy tịnh tâm hướng về Thượng Giới, nhiếp thọ Ðại Chơn Ngôn nơi Kim Liên Tòa, đài cao giữa không trung lời lành Ta nay nghiêm thuyết. Tánh Phật đại từ bi, trí Phật hằng soi khắp cảnh giới u minh, thế gian ngũ trược vạn khổ ách nơi chúng sanh. Phật thường dạo khắp thế giới Ta Bà, năng vì chúng sanh khổ nên thường nhập khổ để giải khổ cho chúng sanh. Dùng phương chước tâm mộ, sở thích, tín ngưỡng, nguyện vọng, cơ hội, trình độ, các phương tiện dùng làm môn hóa độ diệt khổ!

      Ở cõi nhân gian thường có Phật đương lai hằng sa, vô lượng kiếp. Nhứt là thời cuối rốt nguơn tam, vì sao? Vì bối cảnh nhân loài đã lâm nhằm cơ thế diệt. Ðời trược ác vật chất đa sanh, vì phiền não tai ách chúng khổ, vì sanh lìa tử biệt chúng khổ, vì dục vọng sanh phiền não khổ, vì chiến họa binh đao khổ, vì bần cùng khổ, hoặc vì chiến họa nguyên tử khủng bố, mọi tai ách thường sanh, tiếng kêu than vang rền chẳng dứt!

      Họa tiêu diệt đến với chúng sanh không ngừng nghĩ kể từ thời nhiệm ÐẠI-ÐẠO khai minh lục thập niên qua ở hiện đại, sẽ diễn tiến đến tương lai trong những ngày sắp tới!

      Hỡi Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân! họa tiêu diệt nguyên nhân từ đâu có?

      Do định luật của Tạo Hóa phải chăng??

      Bạch Diệu Hoa, hãy thay mặt cho tứ chúng giải đáp nhân duyên sâu mầu ấy thế nào?

        (- Kính bạch Phật! Theo ngu ý của con thì họa tiêu diệt kỳ Hạ Nguơn nầy chắc không phải do Tạo Hóa, mà do vì loài người ở vào thời đại văn minh nầy đời sống vật chất, xã hội cấp tiến, đời sống hướng về vật chất nhiều hơn đạo đức, nghiệp nhân quả ở thế gian ngày thêm trầm trọng, đến lúc phải đền trả lẫn nhau gây thành họa diệt, chớ không phải do Trời định.)

      - Lành thay! Thiện Nữ Nhân đã hiểu thật phải đó.

      Thứ hai: vì nguyên nhân gì kỳ Tam Nguơn ÐẤNG CHÍ TÔN phải khai minh ÐẠI-ÐẠO , và tại nhân duyên gì lại tôn xưng là " ÐẠI-ÐẠO "? Diệu-Hoa, Thiện Nữ xét hiểu thế nào hãy bạch trình lên.

        (- Kính bạch Phật! Con vì trí nhỏ nơi Kim Liên Ðài con không đủ kiến thức phúc đáp việc lớn, lạy nhờ ơn Phật giảng độ!)

      - Lời Ta chắc thiệt: Lòng Trời đức háo sanh vô lượng, lòng người tánh háo sát vô biên! Vào buổi đời mạt hậu nầy hễ người nào có tánh ác dữ thì mỗi lúc lại càng say mê thêm với nghiệp dữ, càng mê lầm lại gây tánh mê mãi chẳng dứt! Trái lại, người nào có tánh lành mỗi lúc tới lại càng tinh tiến hăng say trên đường hành thiện, mộ Ðạo Pháp, thích xem Kinh Sám, ưa nghe thuyết giảng Ðạo Lý sâu mầu, công quả không chán, bố thí lại ao ước được bố thí mãi, ham mộ trì trai, thích ưa đọc Kinh khuyến Ðạo cho người khác, tóm lại những căn lành đó đều là các bực Linh Căn cả.

      Hễ có người gieo nghiệp ác dữ, thì có kẻ gieo trồng giống lành, thiện và ác cứ đi song, lành dữ lẫn lộn, thiện ác khó phân, cõi thế gian là một cõi phức tạp! Phật, ma lẫn lộn nghiệp duyên xoay vần quả kiếp đời đời!

      Nay Ta muốn hỏi Thiện Nữ Nhân Bạch Diệu Hoa, tánh người xét biết cõi sống duy vật nầy mọi tư tưởng ở thế gian người ta lấy cái điều gì làm quan trọng hơn hết? Bạch Diệu Hoa, Thiện Nữ hãy bày tỏ tánh hiểu biết thế nào?

        (- Kính bạch Phật! Con vốn hậu sanh trí thấp, vì lời Phật trên dạy, con xin vâng đáp theo ngu ý của con. Bạch, con cảm nghĩ, nếu như tâm lý chung của người thế gian thì chắc đa số người ta nghĩ rằng chỉ có tiền bạc là món quan trọng cho đời sống hơn hết. Nhưng riêng con thì con thấy không phải! Chỉ có sự sống chết mới là quan trọng hơn hết, vì kiếp người đã được sanh, trưởng không phải dễ có, từ khi đã được trưởng thành, có cả trí khôn tài giỏi hoạt bát thông minh, học thức, nghề nghiệp, kẻ thì lập sản nghiệp kinh doanh, người vào quan chức, bác học, võ nghiệp, văn khoa, cứ mặc sức kinh dinh ngang dọc, nếu rủi khi vấp ngã, cái thân mạng phải chết, sẽ không tạo sống trở lại được cái kiếp đó, thoảng như vấp ngã về tiền tài, bị thất bại phá sản, thân mạng còn đó họ vẫn tạo của cải lại được, như vậy tức là cái thân mạng quý, chỉ có sự sống chết mới quan trọng hơn hết.)

      - Lành thay! Rất phải đó, nhưng chưa đầy đủ. Vì tâm tánh chúng sanh cũng phải còn chú trọng các món khác nữa, vì tánh mê lầm cứ xem vật chất là báu trọng, không xét thân mạng là quý báu hơn, lại vì cái nhỏ mà đánh liều thân mạng không tự hồi minh, đem cái thân mạng nhúng vào tai họa đổi lấy các món không đáng!

      Các món ấy là gồm những gì? DANH, LỢI, TÌNH, TIỀN tức là 4 cái liều thuốc (độc dược) của nhân loại . Tất cả thân mạng vì tánh mê lầm phải nhiễm vào 4 cái liều ÐỘC DƯỢC đó mà quên hẳn cái thân mạng quý vô giá của chính mình nở không giác tánh!

      Vào đời hậu mạt nầy, chúng sanh chỉ vô ý thức, cứ mê nhiễm vật chất đem thân mạng nạp cho 4 cái món vô tri đó! Bao nhiêu xương máu, bao nhiêu cuộc chiến tranh, giết hại lẫn nhau, tham tàn ác dữ, hễ chết thân mạng là cuối cùng, vì đó mà gây thành nghiệp quả! Hễ vay nợ máu thì phải đền thân mạng, chết kiếp là hủy diệt, cái truyền kiếp nhân quả ở chúng sanh, nghiệp duyên tới vạn kiếp mãi đến thối thân cũng chưa giác tánh biết thân mạng!

      Khắp cõi đất, nước đều hay gây cảnh tương tàn tương sát, người chẳng biết thương người, vật không lòng mến vật, lâm nhằm tệ trạng mưu diệt lẫn nhau làm cho tiếng khóc thảm rền vang rúng động tới cõi hư linh chẳng dứt!

      Ðã hằng gây cuộc chấn động nơi cõi đất, làm cho khí tiết thường hỗn loạn biến sanh những triệu chứng kinh hoàng, đất chuyển trời long, cuồng phong thủy lụt thường biểu hiện ở khắp nơi, có khi tới mức độ dữ dội như hỏa diệm! Vì khí hậu trược ác đã mãn địa xung thiên, mịt mịt như khói un, lấp che cả bầu không gian thanh tịnh, làm cho khí Thanh Hư không thể phưởng phất tới được hầu trợ tá dương sanh, cõi đất sống chỉ ưng chịu với khí hậu trược, âm thuần, nên khó thể gìn an bảo tồn thiện phúc!

      Nếu đã thuần nhiễm khí hậu thiên, lòng người càng sanh mê bất phân thiện ác, không thấy sự quấy lỗi nơi tánh, năng tư tưởng sự quấy tham dục vọng, không ưa điều lành, ghét chê Ðạo Pháp, bất nghĩa, bất nhân!

      Trừ những người có thiện tâm, thiện tánh, hướng mộ tu trì, lập tâm cầu Ðạo, đó là Linh Căn.

      ÐẤNG CHÍ-TÔN vì đức háo sanh vô lượng, không thể mặc nhiên nhìn vào cảnh tượng thống khổ bi đát ở cõi sanh linh hằng tái diễn!

      Một thuở ấy, nơi Ðền BẠCH-NGỌC hội đủ Chư Thiên, Tam Giáo công đồng hội chầu NGỌC-ÐẾ ÐẤNG CHÍ-TÔN dùng đại ngôn tuyên phán rằng: "Thế cuộc hậu mạt Tam Nguơn nhằm thời mạt pháp, nhơn sanh nhiều tội, chiến họa binh đao, thiên tai địa ách, cuộc đời tiêu diệt sẽ đến với nhơn sanh! Ta nay quyết chủ quyền Khai Minh Chánh Giáo tận độ sanh linh, không thể để cho đại họa diệt vong đến với sanh linh một lần thứ 3 nữa".

      Giờ hội chầu nơi KIM-KHUYẾT đông như hằng sa vô số kể! Khi ấy bèn có một vị ÐẠI-HẠNH PHÁP VƯƠNG TỬ bước ra thủ lễ, vai hữu bày ra, một gối đặt xuống, đại ngôn trình tấu: "Bổn tánh đương nhiên đại bi vô lượng, duy độc ngã giả, bất khả dụng tu (Nếu chỉ một tôi có lòng đại bi không thể hành tròn việc lành). Nay nhờ ơn Ðấng Ðại Từ Lành đã công phán giữa đền, Pháp Tử nguyện tùng duyên hóa độ, lai đáo trần gian chịu kiếp khổ làm người, dùng Ðạo Pháp THẦY TRỜI làm phương châm dìu độ chúng sanh, nguyện giác tha bốn chúng giải cứu tánh mê, cầu Ðạo vô thượng lánh khỏi họa diệt, nếu không hành tròn nguyện, quyết không trở về đất Phật!".

      ÐẤNG CHÍ-TÔN vì cảm lời Ðại Thệ Nguyện của ÐẠI-HẠNH , Ngài bèn đại ngôn phát lời Ðại Thệ Nguyện:Nay Ta vì nhơn sanh quyết lập Ðạo cứu thế, nếu Ðạo không thành, Ta nguyện không trở lại NGỌC-KINH !"

      Hoằng thệ thâm như hải! Ðức rộng đã vô biên! Khi ấy, nơi LINH-TIÊU-ÐỀN toàn tất Chư PHẬT, TIÊN, THÁNH và các TRỜI, RỒNG đồng phát hiện hào quang, vô cùng cực ngỏ lòng tán thán Ðại Công Ðức Từ Bi vô lượng của ÐẤNG CHÍ-TÔN , cùng ÐẠI-HẠNH PHÁP VƯƠNG TỬ ! Bỗng nhiên tại nơi Ngọc Ðền ngàn muôn thứ hoa đồng nở một lượt, khoe đủ màu sắc tươi sáng như hào quang! Mùi hương hoa bay thơm bát ngát, mùi hương Chiên-Ðàn thơm khắp mười phương! Nhạc Trời trổi vang động! Các Chư Thiên đồng mặc tịnh một giờ để tán thán ân đức vô lượng ấy! Sau khi thưởng thức các điệu, trở lại Hội Ðàn có hằng hà sa số Chư PHẬT, THÁNH, TIÊN cũng đồng phát nguyện đáo cõi trần lao, chịu kiếp khổ làm người để giúp THẦY hành thâm Ðại Công Ðức! Dụng Ðạo THẦY TRỜI làm phương châm hóa độ chúng sanh khử ám hồi minh lánh họa diệt, dựng cuộc thái bình, nếu không tròn thệ nguyện quyết không đáo vị! Lúc bây giờ lại cũng hằng ngàn thứ hoa đủ màu sắc đồng nở hết một lượt, mùi hương thơm bát ngát khắp cõi! Sáu điệu nhạc lại trổi lên vang động tán thán công đức vô biên vô lượng của tất cả Chư Thiên vô cùng cực! Một giờ sau, các điệu đồng êm lặng, ÐẤNG CHÍ-TÔN kịp giờ công phán đại ngôn, truyền lịnh khai thị Ðại Tôn Danh Ðạo ấy là: ÐẠI-ÐẠO TAM-KỲ PHỔ-ÐỘ " và Ðạo Danh Ngài là CAO-ÐÀI , lấy hai chữ CAO-ÐÀI để làm tên chánh của cái Ðạo, và Ngài dạy rằng: CAO-ÐÀI ÐẠI-ÐẠO TAM-KỲ PHỔ-ÐỘ.

THI:

Tiền ẩn đại danh CAO bắc khuyết,

Hậu xuất hoa khai ÐÀI thông truyền,

HUỲNH-ÐẠO phổ dương Ðồ-Bát-Quái ,

THIÊN-KHAI nhứt mạch thái bình yên.

đồng thời đăng danh nơi Kim Ngọc Bảng, và Ngài giảng danh rằng: " Mối Ðạo CAO ÐÀI được thành danh ngày nay là có đủ cả Tam Giáo. Hễ tam mà quy nhứt thì thành ÐẠI, ở trong TAM GIÁO gồm có NGŨ CHI; TAM GIÁO quy tức có NGŨ CHI hiệp, sẽ thành một mối Ðạo lớn nhứt !"

      Khi ấy từ nơi Kim Ngọc Bảng chiếu hiện hào quang đủ năm sắc sáng chói tỏ rạng vô cùng cực, cả thảy đồng nhìn thấy hết thảy mọi viễn tượng ở cõi thế giới Ta Bà từ một tới 100 năm thế diệt, ÐẠO cứu vớt như thế nào, đời diễn tiến thế nào, khổ ách dường bao, tất cả đều biến hiện không sai một mảy! Và từ 100 năm tới 500 năm, từ 500 năm tới 5000 năm, đều biểu hiện cả thảy!

        (- Kính bạch Phật, tám chữ danh xưng như vậy con thấy đã hoàn thiện hoàn mỹ rồi, nhưng nay nơi hải ngoại lại có mở thêm ÐỆ NHỊ và có trên danh xưng thêm 4 chữ HUỲNH-ÐẠO THIÊN-KHAI nữa, con muốn thông đạt được nghĩa đó. Lạy nhờ ơn Phật giảng độ.)

        - Diệu Hoa! Thiện Nữ vừa cầu hỏi, Ta sắp giảng nói đó. Nhân 4 chữ " HUỲNH-ÐẠO THIÊN-KHAI ", vì chữ HUỲNH là sắc thái màu vàng,ÐẠI-ÐẠO khai minh địa cảnh tại vùng Ðông Nam của quả đất thuộc nhằm Châu Á, bổn Quốc Ðạo tại Việt Nam dân tộc da vàng. Vào thời điểm sơ khai Ðạo chỉ truyền thông nơi bổn xứ, nên không được phổ dương cái Ðại Tôn Danh là HUỲNH-ÐẠO , chờ khi Ðạo được xuất dương phổ truyền khắp các cõi nước, đủ các sắc thái dân tộc được thấy biết cái Ðạo THIÊN KHAI thì chúng mới thấy là mối Ðạo ấy đã khai xuất và hoằng dương tận độ là chỉ có giống người da vàng, đem cái THIÊN ÐẠO dựng lập Cơ Cứu Thế, chỉ có một màu da vàng làm được cái Ðại Công Ðức đó, về sau này tất cả các sắc thái khác mới chịu tin theo.

      (- Con xin tạ ơn Phật 3 lạy và kính Phật, vì con đã nghe lời Phật giảng rằng: THẦY không muốn để cho cõi nhơn sanh bị họa lớn tiêu diệt như hai kỳ trước, tức THẦY quyết không để có đại họa kỳ thứ ba, như vậy vào thời Thượng Nguơn Thánh Ðức cũng có lâm vào đại họa diệt thế như vậy là thế nào? Tự con chỉ nghĩ ở đời Thượng Cổ là Ðức Thánh Nhân Hiền.)

      - Bạch Diệu Hoa! Thiện Nữ Nhân phải xét biết, bất cứ thời kỳ nào sự tấn hóa trên vũ trụ cũng diễn tiến y như kiếp sống của nhân vật, cũng ở trong 4 cái nguyên lý kiếp là SINH, TRỤ, DỊ, DIỆT . Hễ rốt tới sau chót thì phải có thời nhiệm cực tiến, cực phát minh, cực ác dữ, nên phải lâm nhằm cơ hủy diệt kiếp! Ở trên cõi thế giới Ta Bà này từ hữu hình lẫn đến vô tri hễ có sanh phải có diệt, có sắc có tướng đều có hoại có diệt.

      Không nên lầm rằng ở thời Thượng Cổ về sau không có họa diệt. Thiện Nữ hãy tịnh tâm nghe Ta thuyết minh đoạn này.

      Nam Mô Long Hoa Hội-Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.


ÐỆ THỨ HAI: TẠO HÓA và NHÂN DUYÊN HỌA TIÊU DIỆT

      Vì ÐẤNG CHÍ-TÔN là TRỜI TẠO HÓA ! Luật tuần hoàn khai dựng có ba nguơn: nguơn đầu thuộc nguơn Khởi Thủy, trước hết là sanh thảo mộc, kế sanh thú cầm, sau rốt là nhân loại.

      Từ khi có nhân loại, lúc đầu hình dạng còn giống như loài thú rừng, chỉ khác là biết đi hai chân. Thuở ấy đời sống còn lương thiện và bền lâu vô lượng kiếp. Khắp hoàn cầu non thanh nước lịch, vô cấu bất tranh, ngọc báu lót đàng, non vàng không ai làm chủ, san hô, hổ phách nơi hoang đảo như núi đá đầy dẫy không kẻ đến cầu tìm, đời sống loài người không nhọc sức cày bừa, ngũ cốc mọc đầy đồng xá, chỉ cần lượm lấy đủ dùng rồi ngao du thong thả.

      Trái ngọt thiên nhiên bốn mùa trổ chín đầy rừng, người cùng vật hưởng có thừa không khi nào thiếu hụt. Lòng người không độc ác, lòng thú chẳng dữ hung, không có loài thú ác như rắn độc, chim ác. Người và thú không đe dọa mạng sống lẫn nhau, kiếp người lâu đến mấy trăm năm không hay bịnh hoạn.

      TẠO HÓA: Luật tuần hoàn chuyển luân, máy tạo cứ dần xoay hết thạnh tới suy, cơ tấn hóa cứ luân lưu theo vòng thuận chuyển, hết hồi Thiện Ðức tới lúc mở mang, tấn hóa tới biết tốt xấu, lần lượt khôn xảo, cạnh tranh, tư hữu, tấn mãi tới mức cùng cực độ là ác dữ. Ác dữ tới cực độ thì phải bị tiêu diệt. Ðó là cơ Tạo Hóa biến chuyển do hành tàng của định luật thiên nhiên cấu tạo, do sự vận hành tạo hóa từ hỗn nguơn đã luân lưu mãi mãi không bao giờ ngừng, hễ đến giáp vòng thì phải luân lưu trở lại.

      NHÂN DUYÊN: Ở trên cõi sống của nhân vật là một chỗ hỗn độn phức tạp, tấn hóa và thối chuyển, từ loài người tấn hóa PHẬT, TIÊN, THÁNH; từ PHẬT, TIÊN, THÁNH có thể bị thối chuyển sang đến kiếp thú cầm, cũng từ nơi cõi Giái-Trung mà thành. Gọi một chổ Giái-Trung tức có thể tiến hơn, hoặc thối trở lại, mà nơi đó là cái trường "NHÂN QUẢ", cứ hễ tạo NHÂN gì thì có ngay QUẢ đó, nhân duyên đeo mãi, tấn thối tại TÁNH.

      Cái Nhân Quả là cái trọng đại hơn hết ở cõi Giái-Trung này. Lưới Trời thưa, luật chẳng thấy, lẽo đẽo vướng khó gỡ ra. Cứ chết, sống để làm cái đà tấn thối rất sâu mầu kín đáo, dầu cao bay xa chạy khi chết tránh đâủ?? Thể thân xá hủy rồi quyền lực NHÂN QUẢ không phương chối cãi, tội phước có sổ Thần biên chép một tấc chẳng ly!

      Tất cả Giái-Trung muôn luật, chỉ luật NHÂN QUẢ là trọng đại hơn hết!

      Vì NHÂN QUẢ , kết họa tiêu diệt. Tiêu diệt có ba trạng thái:

      1) Họa tiêu diệt: cá nhân diệt, tai nạn diệt, bịnh chướng diệt.

      2) Thế diệt: tức là chiến tranh diệt, tập thể diệt bằng cách người diệt.

      3) Hủy diệt: tức thiên tai đồng chung thọ nạn diệt.

      NHÂN DUYÊN họa diệt có ba yếu tố :

      1) Nhân vì cơ tấn hóa luật tuần hoàn, làm cho loài người tự tiến, từ khôn, xảo, biết giành giựt, biết sát sanh giết thú vật làm miếng ăn, biết lập phe kết đảng, lấn đất giành non để bảo thủ miếng ăn, mạnh được yếu thua, giết hại lẫn nhau vì miếng ăn, vì chỗ ở đã khởi vào nạn tiêu diệt. Cứ hễ giết nhau là oán thù phải trả, kiếp NHÂN QUẢ cứ nối liền, giết thú làm miếng ăn thì thú giết người ăn lại! Tức là chúng sanh đã biết ăn uống lẫn nhau gây nhân duyên đời đời chẳng dứt! Và họa tiêu diệt cứ phát sanh theo đà tấn hóa không ngừng!

      2) Nhân vì chúng sanh dựa theo đà tiến gây nhiều tội trạng, nghiệp quả năng gieo. Câu ÁC LAI ÁC BÁO là cái nghiệp NHÂN QUẢ chung phần ở cõi sống chết, và cứ vay trả, trả vay vạn kiếp chẳng thôi! Hiện kiếp dầu không trả đó, bỏ xác rồi sau phải tái kiếp đền bồi! Bất cứ ở vào thời đại nào, hễ càng nhiều kiếp, cơ tấn hóa càng cao độ thì nhân loại càng vướng vấp nghiệp NHÂN QUẢ nặng nề, càng rời xa Ðạo Pháp thiên về vật chất, nghiệp ác dữ càng thêm trầm trọng cứ qua lại, lại qua giết hại lẫn nhau diệt lần nòi giống, từ trạng thái tiêu diệt lần sang đến ảnh hưởng quá nặng nề hơn tức là chiến tranh phát khởi từ nhỏ tiến tới các cuộc đại chiến, mỗi kỳ vào cuối nguơn là phải có họa thế diệt, do vì QUẢ nọ NHÂN kia tự người làm nên họa diệt cho cả tập thể loài người, vì NHÂN QUẢ mà thành vậy!

      3) Nhân vì vào mỗi cuối Nguơn gặp nhằm thời đại cực tiến của thế hệ, vật chất cực phát thế cuộc cực đại văn minh, mọi quyền lợi con người đều bị gò bó trong cuộc đời sống cạnh tranh, nghiệp duyên càng tạo, sự đòi kéo càng nhặt thúc để chấm dứt, cuộc ác chiến lại gia tăng đến cực độ, từ trạng thái tiêu diệt lại cứ gia tăng, thế diệt thêm áp đảo liên miên, nếu ở cõi thế gian người không quay về đường Ðạo Pháp, cải tà quy chánh, cải ác tùng thiện, sửa dựng cuộc mục nát thì giai đoạn thứ ba là phải đến cơ HỦY DIỆT, tức đời Thượng Cổ nguơn kỳ hủy diệt vào cuối nguơn!

         (- Kính bạch Phật! Ðời Thượng Cổ vào lúc cuối nguơn tại sao Ðấng CHÍ-TÔN không mở Ðạo cứu đời mà lại để cho đời ấy bị hủy diệt, và hủy diệt như thế nàỏ)

      - Diệu Hoa, Thiện Nữ Nhân không rõ, hãy nghe đây: từ cuộc sống Ðức Thánh Nhân Hiền đã được bền lâu như vậy, tuổi thọ người có tới ba, bốn trăm năm ít hay bịnh hoạn.

      Cơ tấn hóa lần sang, từ khi biết tốt, biết xấu, biết thương, biết ghét, khôn xảo biết cất giữ, giành giựt sanh tánh tham, bày sát sanh ăn thịt, khi biết ăn thịt lại sanh tánh dữ, sắm dụng cụ sát sanh và xem nghiệp sát sanh dưỡng khẩu làm nghề sanh nhai.

      Từ đó bịnh hoạn thường sanh, tuổi thọ sụt giảm, nhân và vật đã phân chia cuộc sống ngăn cách nhau hẳn. Thú vật thì tầm phương trốn tránh, người thì xua đuổi tìm tòi.

      VÀO THẾ HỆ ĂN UỐNG : Khi người và vật đã ăn uống lẫn nhau sanh mối hận thù truyền kiếp, gây nợ máu thịt nhân quả trả vay đời đời không thể dứt nghiệp. Từ lúc đã thâm nhiễm huyết nhục, vì hậu thiên nên tánh lành lần mất, tánh dữ ác càng lúc lại tăng thêm, tuổi thọ và tánh lành cứ sụt lần theo cơ tấn hóa không ngừng!

      Từ khi bộ lạc đã bắt đầu chiến tranh, cơ tấn hóa tới đâu, cơ diệt hóa theo liền tới đó. Sanh sản càng đông càng dồi dào, thì cuộc sống càng chen lấn giựt giành, sát hại nhau cướp giựt nhau, làm cho nghiệp Nhân Quả càng thâm, sự trả vay đòi kéo càng nhặt thúc. Người vay một phải trả mười chưa thể được; người đòi nợ nghiệp khiêng lấy đủ chẳng muốn thôi, thừa thế lại vay thêm tới mãn kiếp, bởi thế nên nợ nghiệp phải chịu luân lưu mãi trong cõi chúng sanh, càng nhiều kiếp lại càng cực nặng.

      THẾ HỆ ÁC DỮ : Vì thế hệ đại ác dữ, ở trong cõi chúng sanh đã triệt hết Ðạo Pháp, hết Ðức Thánh Nhân Hiền, phong trào xã hội ác dữ biến sanh nhiều tội trạng, trộm cướp sát nhơn, giết vật giết người, bủa lưới giăng dò, ăn uống hết thú vật rừng thiêng biển cá, say máu ghiền thịt lại lập đảng giết người mà ăn uống, đầu tiên còn tìm giết kẻ thù địch, sau giết Hiền nhân mà làm miếng ăn gọi là bổ dưỡng!

      Về sau các chúa ác ra đời; các triều đại ác lại cực thịnh. Các vua ác đồng nhứt xuống lịnh triệt Ðạo Pháp, đốt phá chùa miểu, bắt hết thầy tu mổ bụng chặt tay chân đem cúng tế yêu quỷ rồi ăn thịt để sống lâu!

      Người lành đã bị chúng dữ uy hiếp sát hại gần hết, đoạn triệt hạ Ðạo Pháp. Khi ấy cửa Ðạo "BẾ MÔN", Phật không ưa gần chúng sanh, Thánh Tiên phải xa lìa kẻ tục. Bát vạn Thiên môn đều bế tắc, khí tiết âm dương bất điều hòa luôn luôn phẫn nộ nóng bức, trời hạn nắng nóng như lửa chan, khí tiết không phân định bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Ðông nữa. Mùa màng canh phế, đồng áng trống trơn. Hạn hán tới năm thứ ba, sông ngòi sắp cạn. Vua các nước ác dữ hợp sức cùng nhau kéo quân đánh chiếm tràn lan hết số nước khác còn lành hơn, còn có sự sống. Chúng đánh chiếm tới đâu thì tàn sát tới đó. Cướp giựt rồi lại sát hại ăn tươi nuốt sống để di dân dữ tới chiếm cứ mà sống lánh họa Trời. Càng cực ác lại cực thịnh, thành công ở thế hệ ác nhưng chẳng bao lâu.

      Lúc bấy giờ vào năm hạn hán thứ 5, chúng ác bắt dân xây lâu đài cực cao, lập hội Hoa Ðăng, tự tôn chúa ác lên ngôi Thượng Ðế!

      Hạ chỉ truyền thông hịch khắp hết nhân dân, mỗi gia dân đều phải hiến nữ trinh 15 tuổi vào công đình 3 ngày mới được đưa về gã cưới, đó là nạp mình cho bọn gian ác. Có khi may được thả về, thường là giết để ăn uống, hoặc cho voi chà trước sân để chúng ác xem trong buổi tiệc rượu! Trời hạn tới năm thứ 7, khắp cõi đất đều khô khan, thảo mộc chết tuyệt, nước biển cả cạn xuống rất xa, sông ngòi khô hết, sức nóng mặt trời mỗi lúc lại gia tăng cực cao, bọn vua ác không cách trốn lánh, dân ác chết vì nạn nóng đã nhiều, phần nào chết khát, chết đói!

      Vua, chúa ác lại truyền lịnh đảo chánh Ðức Ngọc-Hoàng, lên án xử tử nếu không làm mưa!

      Vào ngày mùng 10 tháng 4, hạn hán năm thứ 7, giữa lúc nữa ngày, bừng lên ngọn lửa từ trên đỉnh lâu đài ác chúa phát cháy lớn. Gió nóng thổi mạnh, lửa cháy lan tràn khắp nơi, lửa cháy mỗi lúc càng hơn, gió lại thổi nhanh, tiếng gió lửa hải hùng, khói đen cao ngất mịt mù tới mấy chục ngàn do tuần. Lửa càng nóng dữ dội, sức nóng mặt trời tăng thêm, làm cho ngọn lửa vẫn duy trì cháy từ đông sang tây, nam chí bắc, thiêu rụi khắp hết các cõi nước trong vòng 7 ngày đêm liên tiếp. Vào hết ngày thứ 7, sấm chớp bủa giăng khắp trời, cuồng phong nổi dậy, gió cuốn mây bay đá lăn sỏi chạy, lại đổ mưa ầm ầm nước tuôn như thác đổ. Những tiếng nổ vang động bầu trời, đất đai sụp đổ, thủy lụt tràn lên cuốn chảy. Gió bảo càng thổi mạnh, sóng thần nổi dậy ba đào, đất đai nhiều nơi phải sụp chìm thành biển!

      Mực nước lên cao hơn ngọn núi, thủy lụt hết cả 3 ngày đêm khắp cõi nước. Qua ngày thứ tư nước rút cạn liền, bỏ lại mặt đất trống trơn, nhiều nơi cõi đất trở thành biển, cảnh tượng hoang vắng, không có người, vật, không có thảo mộc, không có kiến, muỗi, dế, trùng, y như thuở hỗn độn mới tựu ngưng!

        (- Kính bạch Phật! họa hủy diệt như vậy, sau lửa và nước còn có xứ nào sống sót được hay phải bị tiêu hủy hết?)

      - Cũng vẫn không hết tuyệt, người và loài vật còn lại 3 chỗ đất sống. Ba cõi đất còn sống lại để sanh sản tái tạo đó tức là 3 cõi đất chưa được tấn hóa, 3 giống dân thiểu số còn sống cuộc dã man ở vùng rừng núi rất hẻo lánh, không gần những nơi đã khai hóa mở mang lâu.

      Ba cõi sống cách biệt nhau rất xa không bao giờ được hiểu biết cùng nhau cả. Chúng còn lại sẽ có 3 sắc thái khác nhau, 3 thứ tiếng nói khác nhau:

      1) Sắc thái màu vàng.

      2) Sắc thái màu trắng.

      3) Sắc thái màu đen.

      Chúng còn sống với thời đại dã man, vì chúng ấy là những số người lành, từ xưa vì bị chúng dữ uy hiếp sát hại, nên cùng nhau cố sức tìm cách rời khỏi xứ sở, phiêu lưu đi những phương trời xa xăm, ẩn trú miền núi cao rừng rậm, sống riêng với thú vật, cứ hễ đói thì tìm trái rừng làm no, khát thì có suối thiên nhiên làm nước uống.

      Ðời sống nguyên thủy, chẳng có áo quần, lông tóc tạm che thân trở lại như hồi mới sanh hóa. Qua mấy trăm năm đã sanh sản rất nhiều, nhưng không được tấn hóa. Sau khi đời văn minh đã bị hủy diệt thì số dân dã man nầy mới được tái tạo lập đời lại.

      Nam Mô Long Hoa Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

 

ÐỆ THỨ BA: TÁI TẠO và TÁI DIỆT

      (- Kính bạch Phật! Ðại họa diệt vong từ cuối đời Thượng Cổ nghe phải kinh hồn và xót thương vô cùng cực! Hữu phước lắm thay buổi đời Hạ Nguơn nầy được diễm phúc, cửa Ðạo khai minh, may duyên gặp Phật, được nghe qua Ðạo tích tiền sử chưa bao giờ được nghe, giờ nay con kính lạy tạ ơn Phật đã nhọc vì con giảng độ rất nhiều. Kính bạch Phật, kể từ khai Thiên dựng Ðịa khai sanh loài người đến khi bị hủy diệt tất cả là bao nhiêu năm?)

      - Tất cả cộng chắc là tám muôn bốn ngàn năm.

        (- Kính bạch Phật! Thời gian lập đời hết bao lâu mới thành lại được?)

      - Nguơn Trung tái tạo cực kỳ mau chóng, chỉ trong vòng 2000 năm sau thì nhiều nơi đã được lập quốc. Cơ tấn hóa cũng vẫn đi nhanh theo thời gian, sự tái tạo nhanh chóng hơn nguơn đầu vô lượng kiếp.

        (- Kính bạch Phật, sang qua thời Trung Cổ sự tấn hóa mau như vậy, nhưng đến khi sau đời ác có làm cho Ðạo Pháp bị bế tắc hay không mà lại cũng lâm trận Hồng-Thủy hủy diệt vào đời ông Thánh Nô-Ê, Ðạo sử ngày nay vẫn có?)

      - Bạch Diệu Hoa! Ta không thể giảng hết những điều tội ác của chúng sanh! Trước Ta giảng cảnh hủy diệt đời Thượng Cổ cũng chỉ sơ lược đó thôi! Ðời Trung Cổ về sau sự tấn hóa càng văn minh hơn, tội ác lại thậm đa hơn, nhưng hữu phước thay đời Trung Cổ Ðạo Pháp vẫn được duy trì ở trong đại thế chúng thuộc bán cầu phương Ðông và Ðông Nam, nhiều cõi nước thủy hồng không hại tới, Ðạo Pháp vẫn được phồn thịnh, dân sanh còn hiền lành, lại số dân thiểu số chưa được mở mang hãy còn tồn tại. Phương Tây vì vật chất mất hẳn tinh thần. Ðạo sử tích Thánh Nô-Ê đã mấy ngàn năm lưu truyền. Các cõi nước cực tiến, cực ác dữ, cực văn minh không tin có Trời, Phật, chỉ sống với tài sức và vật chất. Ðấng Chí-Tôn truyền dạy chẳng tin nghe, hủy bỏ đức tin, nhạo chê Trời Phật!

      Khi đó Ơn Trên chọn lại một người còn đủ đức tin cho sống để làm thành Ðạo Sử, hầu tương lai sẽ lấy đó mà dành dụm đức tin cho các thế hệ sau nầy!

        (- Kính bạch Phật, vào thời nhiệm thứ hai, lời Phật giảng rằng ở trên thế gian hãy còn duy trì Ðạo Pháp dầu ở phương Ðông, nhưng sao Ðấng Chí-Tôn và Chư Phật không rộng ơn bày phương chước cứu độ phương Tây, lại để gây tình trạng kinh hoàng đến với chúng sanh một lần nữa cũng rất nặng nề tiêu diệt gần hết chúng sanh?)

      - Bạch Diệu Hoa! Thiện Nữ Nhân tâm tánh thiệt lành, hãy nghe Ta giảng tiếp, ngươi và tất đại thế chúng sẽ rõ. TẠO HÓA có thuở nào không đức háo sanh, nỡ lòng háo sát? Tánh Phật có thuở nào không quảng đại từ bi rộng ơn tế độ? Sở vì chúng-sanh không mộ đức Phật, ân Trời, nơi tâm tánh chúng chẳng mộ Ðạo vô thượng sâu mầu, đức tin chẳng có, nơi tánh không ưa, nơi tâm không niệm tưởng; lời nói năng hủy báng tục tĩu lỗi lầm, ghét chê Ðạo-pháp, tiêu diệt các sở thích cầu mộ; tâm không Ðạo hằng mê thích vật chất, chủ ý duy vật, tánh quấy chẳng hồi minh; nghiệp quả gieo trồng mười phần ác dữ lại muốn tăng, không muốn giảm; đời cực tiến, người cực ác, đời cực thịnh, vật-chất cực phát minh, nhơn loại càng cực mê lầm rời xa Ðạo pháp, nhiễm tục càng lúc lại đắm nhiễm mê man như giấc ngủ say!

      PHẬT đã biết bao nhiêu kiếp chịu sanh tử, vào đời vì xót mê nhân chỉ đường chánh giác, muốn diệt khổ cho chúng-sanh, dùng Ðạo vô thượng sâu mầu, dùng mọi phương chước hóa độ chúng-sanh đưa lên bờ Giác. Nhân vì cõi trược trần thường say mê mùi tục lụy, càng thâm nghiệp quả, càng giục tánh mê lầm, sa vào bàng môn, lầm đường sắc tục, nhiễm mê vật-chất, chẳng ham mộ việc tu hành, tửu nhục, tà dâm, tham lam, giận dữ, mê muội, bất năng tri, ngạo mạn tự tôn không cầu tìm Phật-pháp, chẳng hiếu thuận lòng Trời, bất tùng lời Thánh-nhân Tam Giáo, làm cho phước vãng, họa lai, TRỜI, PHẬT dầu xót thương không thể ẩm bồng! Vậy Thiện Nữ Nhân không còn chi thắc mắc?

      Nhơn thời mạt hậu tam nguơn chính là thời kỳ đại hạnh đại phước. THẦY vì cực xót họa diệt chúng-sanh, ban hồng ân đại xá, khai minh ÐẠI-ÐẠO tận độ. PHẬT vì rộng thương đại thế chúng, xót cảnh mê nhân, hoằng thâm đại thệ nguyện đến trần giác tánh chúng-sanh, chẳng những ở hiện tại mà đã từ vô lượng kiếp mấy ngàn năm quá khứ trước, cốt duy trì Ðạo-pháp trong nhân chủng không để tâm tánh chúng nhạt phai. Ðấng CHÍ-TÔNphải thâu hệ nguơn niên, chiết linh quang xuống cõi hồng trần mở khai Ðạo báu.

      Ðã mấy lần Ðạo khai, Ðạo bế, bao nhiêu kiếp Phật lộn xuống trần cốt vì buổi Hạ Nguơn đó. Hiện tại có hai yếu tố quan trọng hơn hết là:

      1) Thứ nhứt: Tất cả LINH-CĂN có nhứt tâm thi hành đúng với đại thệ nguyện hay không???

      2) Thứ hai: Ðại thế chúng có chấp hành nguyên lý ÐẠI-ÐẠO , hòa dung Ðạo thể, hướng về mục chánh TAM GIÁO QUI NGUYÊN , phục hưng nền Ðạo-pháp, thể hiện một chữ " HÒA " cốt dựng lại một nền tảng Nhân Hiền Ðức Thánh, do đó sẽ lần bước đến cuộc thái bình, họa tiêu diệt nhờ nơi đó mới được dung giảm lần hồi tới tan biến hết.

      Ðó là hai yếu tố mà nay phải đặt vào căn bản chính.

      Nếu lý Ðạo lớn thứ nhứt, ở thời nhiệm thứ ba, hoằng hóa được thành, lòng người kịp hồi minh giác tánh, ba nền Chánh-Giáo hóa đại phục hưng được thì nơi cõi Trung-Giái khí tiết âm dương sẽ được giao cảm điều hòa, vì đó sẽ sanh trưởng biết bao nhiêu Nhân Hiền Ðức Thánh, mưa thuận gió hòa, phước đến họa đi, không cầu phước, phước vẫn tìm người mà đến, không cần tránh họa, họa tự xa lánh khỏi người, lời Ta không sai dối đó!

      (- Kính bạch Phật! Ơn Phật đại từ bi giảng thông yếu lý Ðạo vô thượng sâu mầu, nhưng tánh ngu khờ con nay còn vài thắc mắc chưa được đạt lý. Bạch Phật! Hiện con cảm thấy lý Ðạo ngày nay mở mang rất khó biết mấy hơn trước, nhứt là những nước ở phương Tây, màu da tiếng nói khác, người dân Việt-Nam tị nạn trôi dạt tới đây, việc sanh sống hằng ngày còn nhiều nỗi khó khăn thay, chính những người cùng chủng tộc với nhau, cùng một Ðạo với nhau còn ý chia rẽ, đúng, sai, cao, thấp, huống chi khác Ðạo, khác nòi giống, phương chi hóa độ đại thế chúng đặng thành?

      Quan điểm thứ hai là về phần đức tin. Chính trong Ðạo Thầy còn phân vân nhiều lý lẽ, huống chi khác Ðạo, khác giống nòi!

      TRỜI PHẬT thì vô hình vô tướng, Kinh Pháp Giáo Lý mỗi mỗi đều qua Cơ-Bút, hễ Cơ-Bút thì phải trải qua trung gian một phàm nhân, dầu cho Lý Ðạo sâu mầu thế nào, huyền diệu như thế nào, nhưng đức tin của người mới là chỗ quan trọng.

      Thứ ba là sự hòa hiệp. Từ chỗ không có đức tin sẽ đi tới chỗ bất hòa. Theo lời Phật đã giảng từ thuở cuối Trung-Nguơn cũng vì lòng người cực tiến, cực khôn xảo, mất hết đức tin thế nên lại cũng bị hủy diệt, thì nay lại thế nào? Phương chi cho chúng-sanh có được tâm tánh tưởng mộ? Phương chi truyền bá Cơ Tận-Ðộ nầy được thông suốt vào đại thế chúng?)

      - Bạch Diệu Hoa! Thiện Nữ vừa thốt lời chánh lý! Ta sẽ giảng nói tới chỗ rốt ráo ngươi và tất chúng sẽ rõ.

      Sau Phật lịch 500 năm, vì lợi danh, vì cơ tiến hóa, khắp cõi nước thuộc về phương Tây lại hoành hành đại ác dữ, bàng môn lộng khởi, ma đạo thịnh hành. Kẻ ác dữ thì lập đạo ác, bọn tà giáo huyễn lộng, triều đại ác lại cực thịnh, nhân dân khốn khổ lầm than, lạc đường tà phiếm. Ðấng ÐẠI-TỪ-PHỤ CHÍ-TÔN vì lòng bác ái, nguyện phân thân đến cõi trần dương khai truyền Chánh-Ðạo. Ngài chiết điểm linh quang hạ phàm, sanh vào đất ác vùng Thái Tây, quyết giải cứu loài người không để cho tệ trạng xã hội ác dữ muội mê đó lan rộng khắp nơi mà gây thành đại họa cho vạn chủng. Nhưng bọn vua chúa ác dữ vẫn cố tìm Ngài, vì phe triệt gặp thời cơ nhân sinh đa tội, giúp cho cơ diệt hóa càng phồn thịnh, Ngài phải đành ẩn dật.

      Lúc Ngài được khai truyền Chánh-Ðạo thì bọn ác dữ vẫn cố ý triệt hạ. Tuy nhiên Chánh-Ðạo vẫn trường tồn, dẹp tan ma đạo tà phiếm dị đoan, dầu bọn chúng-sanh ác dữ xâm phạm đến Thánh-thể, Ngài xem thường, chịu chết trước mắt chúng-sanh để khai minh Chánh-Giáo.

      Chờ đến 7 ngày phục sinh trở lại từ giã đồ chúng, để cho người người được rõ biết Ngài thiệt là con Trời, rồi Ngài tự đem linh thể đi khỏi chỗ chết tới một nơi phước địa mà để cẩn thận rồi Ngài trở về cõi Trời.

      Người phải biết Ðạo không phải dễ truyền, đời dễ chi giáo huấn! Ân đức như vậy, khổ kiếp như vậy, Ðấng ÐẠI TỪ vẫn còn ban cho thế chúng vô lượng tình thương, còn buồn khóc cho đàn con mê muội mà không lòng hờn giận chút chi cả, như vậy mà đã có đức tin toàn thể hết chúng đâu?

      Những Ðạo-sử tiền tích: thuở Phật Thích-Ca ra đời mở mang Ðạo-pháp, Phật đã từng chịu hằng sa kiếp tử sanh, khi vào nước Thiên-Trúc làm đến bực Vương-Tử sắc tướng đoan nghiêm, trí huệ viên minh, đức hạnh vô lượng như vậy, thần thông quảng đại như vậy còn hóa độ chưa hết chúng mê! Thấu hiểu lý sâu mầu thì không gì chướng ngại cả.

Chánh tà đều ở tánh thấy đó,

Kiến tánh minh tâm ấy Ðạo mầu,

Không tà không chánh Ðạo vô thượng,

Không có lẻ bàn, thiệt rốt ráo,

Bỉ ngạn là ở chỗ tận không.

      Nam Mô Long Hoa Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

 

ÐỆ THỨ TƯ: NGUYÊN CĂN và MA ÐẠO

      Nhắc lại thuở Linh-Căn đại thệ nguyện vào đời, NGỌC ÐẾ hạ lịnh ban hồng ân đại ân xá, mở cửa Thiên-môn, khắp nơi Thành-Hoàng, Thổ-Ðịa đều thừa hành đón tiếp Chơn-linh nhập thế. Ðồng thời chúa tể ma đạo cũng truyền lịnh thả bọn ma quân nhập thế. Bọn ma quân nhập thế lại được thuận lợi hơn! Vì ở cõi thế gian vào thời kỳ hậu mạt, hễ đà tiến hóa tới đâu thì tánh người xảo khôn tới đó, nơi tánh khôn gian mưu tà chước quỷ lòng tưởng quấy tham. Vì lẽ ấy là vô ý thức mở cửa nguơn môn rước nghiệp chẳng lành, ma quân do theo cơ hội đó xâm nhập vào thần thức, thai bào là các phương tiện, chúng đang chờ chực mượn đường thế gian hồi dương nhập thế để gây thêm nghiệp chẳng lành trợ lực cho cơ diệt hóa tăng mạnh và rút mau.

      Chúng ma đạo nhập đời hằng sa mau như nước cuốn, tuy số ức vạn của Linh-căn, nhưng số ức tỷ ma đạo khắp ta bà vô kể!

      (- Kính bạch Phật! Ðấng Chí-Tôn đã vì thương nhân loại quyết ra tay mở Ðạo cứu đời; tất cả Phật, Thánh, Tiên, Hiền cũng vì chúng-sanh, vì Thầy phát nguyện hóa kiếp, Thầy nỡ đâu lại để chúa ma vương thả bọn ma đạo nhập vào thế gian trợ lực cho cơ diệt hóa? Như vậy tức Thầy không xót thương tất cả Linh-căn đều vì chúng-sanh, đều vì Thầy, vì đại thệ nguyện của Thầy mà ra đi chịu khổ kiếp để giúp Thầy độ chúng cho thoát họa diệt thế?)

      - Diệu Hoa! Thiện Nữ hãy tịnh mặc nghe lời chơn Ta nay giảng nói:

      TẠO HÓA CÔNG BÌNH : Chúng sanh nghiệp quả trong ba đại kiếp xoay vần, hoặc hồn mê còn hận oán, nợ mạng chưa đòi hoặc tiền tài chưa trả!

      Nhơn kỳ Ðại Ân Xá, Càn Khôn mở cửa, Phật, Thánh ra vào, thì đạo ma vẫn được luật ân xá. Nếu chúng đã van cầu xin được vào nhập thế, hồi dương để sám hối tội dữ, qui chánh cải tà cầu Ðạo vô thượng trở về chánh giác, thì luật nào được phạt tội chẳng cho đi? Hoặc chúng hồn còn cần đòi nợ nghiệp.

      Ngoài ra, nếu khi chúng đã được hồng ân hồi dương dụng kiếp, nếu vẫn không chừa tánh dữ, chẳng dứt nghiệp mê, không tu tạo phước lành, hằng gây nghiệp dữ, nhớ câu nhân quả, luật Phật, Thiên điều, làm lành lành đáp, ở dữ dữ đeo, duyên nghiệp cứ phải đền bồi; hễ đại ân phóng xả, không làm trọn nguyện, nghiệp chướng hằng gieo thì ngục cấm sẽ muôn ngàn kiếp khổ ắt không lìa đặng!

      Chúng ma đạo là ai? Từ đâu có? Tức ở nơi chúng-sanh mà thành, ở nơi tánh mê lầm tạo đoan quả nghiệp mà có, ở nơi ba kiếp sanh tử mà hóa ra, nghiệp mê chẳng lìa tánh, đòi nợ nghiệp khiên đã lấy hết, tánh tham còn dựa vào thế thắng vay nợ thêm chồng chất mãi chẳng hề thôi!

      Chúng được sung mãn vọng cầu, có được xác thể, nương vào xác thể mượn đà thế lực gây sóng gió nghiệp khiên, không tu tròn nguyện thì tự chịu quả đó, nơi tánh chúng mới rõ luật Tạo-Hóa CÔNG BÌNH mà không còn ân hận.

      (- Kính bạch Phật! Nếu như hiện tại có hằng triệu, hằng ức Linh-căn đương sanh tại thế, con thấy khi Linh-căn đã vào cõi ác trược nầy nếu phải nhiễm mê trần tục, bị ngũ dục che lấp Nguơn-thần quên căn thì phương chi nhắc tánh để các bực đó nhớ đường tu kỷ mà trở lại ngôi vị?)

      - Bạch Diệu Hoa! Thiện Nữ vừa thốt lời lành, Ta sẽ giảng nói cho người rõ. Kể từ giai đoạn sau chót, vào khoảng 100 năm đến nay, số Linh-căn đã tuần tự vào đời hơn mấy mươi ức. Mãi đến bây giờ, số ra đi thì hằng hà, số đáo hồi thì rải rác thưa thớt như hoa mùa Ðông! Chỉ trong vòng ngắn ngủi 100 năm mà biết bao nhiêu vị đã qua gần hai kiếp ! Lại biết bao nhiêu vị còn phải ở nơi cõi vô hình, đã không được hồi vị lại cũng chưa được tái kiếp để tu tiếp, các hồn sa đọa ấy nay phải chịu cảnh khốn đốn bơ vơ! Vì sao? Cũng vì khi sanh tiền, kiếp tu không giữ trọn, lại mê trần nhiễm tục sa đọa làm chúng-sanh, lúc đã hoại thể xa lìa xác tục hồn chịu cảnh âm ty, xét xem công quả. Nay phải chờ ÐẠI-HỘI LONG-HOA phán xét, gặp kỳ siêu độ mới mong được đáo hồi.

      Nay được lịnh đại ân phóng xả thiệt là một hội Phong-Vân, phóng thích tất cả tội hồn đồng nhờ ơn Kinh Kệ tụng cầu, các Linh-căn nhờ nơi Kim-Cang mà được dọn mình tu luyện giác tánh hết sa đọa.

      Vong tội nghiệp nơi chúng-sanh nhân quả dập dồn cũng nhờ nơi Kinh Tam-Bảo mà giác tánh, biết đường siêu thoát dứt tánh nhiễm mê, chịu phát tâm Bồ-Ðề hoan hỷ theo Phật mà cầu Ðạo vô thượng.

      Nay lời khuyến cáo trai gái trẻ già: đã mang tấm hình hài náo nương nơi cõi tạm, tự nơi tánh mình phải giác, suy nơi căn mình, nơi kiếp mình mà tự tiến, tự giải thoát nghiệp mê lầm, tự hối kiếp sa đọa, cầu Ðạo mà thoát xác hầu đáo vị hườn ngôi. Các Bồ-Tát hóa kiếp Tăng, Ni đang tu ở Ðạo, thường trì hạnh tinh tấn công đức, tha giác, tha độ, thường trì hạnh Bồ-Tát, Bát Chánh, đừng phá giới Tăng; tâm lòng hằng nhiễm tục, hết kỳ Ðại-Ân thì khó hồi Phật vị!

            Kẻ ở thế gian phải cư xử Ðạo làm người, hồi minh tự tánh, bố đức thi ân, hành thiện ăn chay mà tu cầu thoát họa. Nếu mãi vọng lầm, tự tạo vật-chất, tự tạo nghiệp khiên thì họa ách đeo chân đừng than chớ trách.

            Nam Mô Long Hoa Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

 

       ÐỆ THỨ NĂM: KHUYẾN TU

THI BÀI:

       Ðường thoát tục lắng yên nghe rõ,

   Hỡi Căn-Linh tầm ngõ đáo hồi,

              Chuông chiều cảnh tỉnh về ngôi,

Giác mê trống giục liên hồi thức căn.

       Cõi dương thế năm hằng vẹn giữ,

     Ðạo Hiếu thân cư xử đặng tròn,

              Ðạo người rất trọng dường non,

Song tu Thiên-Ðạo điểm son tươi màu.

       Tưởng cái Ðạo tầm cầu thậm khổ,

      Mới hay rằng ở chỗ TÁNH mình,

              Giác là khử ám hồi minh,

Tham, sân chẳng vướng tâm linh sáng lần.

       Cõi trần mê muôn phần tạp nhiễm,

      Bả trược đầy phù phiếm xa hoa,

              Lời khuyên tất hết trẻ già,

Cái thân giả tướng có là bao lâu.

       Thiện với ác bởi đâu mà có,

       Dữ với lành tâm nọ giục ra,

              Biện minh hai nẻo chánh tà,

Tánh linh làm chủ cho ta chớ gì.

       Mê với giác ắt thì khác hẳn,

       Chấp ngã sanh dùn thẳng hụt đò,

              Chúng-sanh luận lý so đo,

Lấy ngao lường biển chẳng lo phận mình.

       Ðời hậu mạt nhân sinh tấn hóa,

       Càng xảo khôn nhân quả càng dày,

              Phật Tiên thấy phải châu mày,

Ra đi rồi lại nhiễm say khó về!

       Chín mươi ức lập thề thuở trước,

       Mấy trăm năm lũ lượt ra đi,

              Vào đời quyết giải nạn nguy,

Cõi trần quyến rũ có khi không về!

       Biển khổ vốn ê chề nhiều nỗi,

       Biết mấy đời vừa khỏi bến mê,

              Non Tiên nước Phật dựa kề,

Vì thương chúng khổ quay về độ tha.

       Kinh BẢO-PHÁP tầm ra gốc cội,

       Nhớ căn xưa nhập hội Niết-Bàn,

              Tháng mười, mùng tám Ðạo tràng,

Chư Linh vào hội Niết-Bàn nghe Kinh.

       Biết cõi tạm xác hình mê đắm,

       Cảnh trần hồng đã thấm phong sương,

              Công phu nhiều kiếp đoạn trường,

Biết nơi trần lụy ma vương dụ mời.

       Lúc an tịnh nhớ lời nguyện trước,

       Niệm danh THẦY lần bước Ðạo chơn,

              CAO-ÐÀI danh hiệu tôn xưng,

Ðó là cái Ðạo huân truân hòa đồng.

       Cứu cả xác lẫn hồn ba cõi,

       Dụng vô vi, mượn lối hữu hình,

              Từ bi, bác ái, công bình,

Ấy là tôn chỉ hòa mình khắp nơi.

       Ðạo là do Phật, Trời làm chủ,

       Tâm Bồ-Ðề thường trụ hư không,

              Giác thời trí huệ viên thông,

Ðạo thì học một chữ KHÔNG đắc thành.

       Quay mắt lại mà nhìn tự TÁNH ,

       Ấy gọi là lập hạnh tu tâm,

              Ðừng tu với cảnh mê lầm,

Nầy chơn, nọ giả, vọng tâm uổng đời.

       Tha độ được thì Trời gia phước,

       Nhưng mà người phải trước tự tu,

              Hạnh mình ra bực sĩ nhu,

Sau thì độ chúng đường tu dẫn dìu.

       Một lẽ độ theo trìu lòng thế,

       Một nữa là cứ để mặc nhiên,

              Mặc tình thế chúng đảo điên,

Ai người tưởng mộ khai duyên tu trì.

       Lẽ khôn dại tu thì bất chấp,

       Chữ MẶC là chịu thấp ngu hèn,

              Trì trai, giới sát cho quen,

Từ bi, hỷ xả tập rèn được thông.

       Phật thường dạy chữ "KHÔNG" là Sắc,

       Vọng thì lầm, "SẮC" vốn không hình,

              Cái gì thấy đó mà tin,

Có rồi thể biến, sau thành không không.

       Thế gian khổ vì lòng nhơn dục,

       Chác não phiền câu thúc chấp mê,

              Giận hờn lửa cháy tràn trề,

Nói năng tổn đức, khen, chê, ghét, thù.

       Ghét ắt muốn rủa chù thỏa dạ,

       Ưa khen dồi tốt quá lành ngay,

              Chuyện đời gốc ở thị phi,

Phật, Tiên thấy phải châu mày thảm thương.

       Tích của Phật Quan-Âm thuở trước,

       Gương tu kia ai được như Ngài,

              Mới rằng chứng quả Như-Lai,

Lòng son dạ sắt thiệt rày Kim-Cang.

       Thấy trần khổ lại càng thương xót,

       Dạo tuần du khắp các cõi dương,

              Tầm thinh cứu khổ bốn phương,

Ðời đời kiếp kiếp đức dường Trời cao!

       Tu biết TÁNH trần lao cứ " MẶC ",

       Tu Kệ Kinh thì chắc không lầm,

              Tu nhơn giúp khốn trợ lầm,

Trì trai, giới sát tu nhằm chẳng sai.

       Muốn tu Huệ thì hay định ý,

       Ý định thuần thì trí huệ sanh,

              Muốn tu cầu đặng Phước lành,

In Kinh, bố thí, giảng Kinh, cúng chùa.

       Tu kiều, mải lộ, cho cơm nước,

       Kẻ lỡ chân trái bước đặng an,

              Thừa năm hạn đói nắng chan,

Giúp người bữa cháo cũng bằng công tu.

       Muốn lập Ðức là tu khẩu, ý,

       Miệng chọn lời cho kỹ thốt ra,

              Tục ngôn, vọng ngữ, sai ngoa,

Nói điều ác dữ hoặc là bớt thêm.

       Cùng móc xỏ gây niềm tổn hại,

       Diễu cợt làm bại hoại phẩm người,

              Ðem mình hiến để trò cười,

Tu không đạt vị là người bại danh.

       Ý phải xét cho rành thiện ác,

       Chớ nghĩ lòng người khác xấu tham,

              Dầu người ác dữ đã làm,

Ðức mình cứ " MẶC " cho kham lòng mình.

       Nói chánh trực, làm thinh, nghĩ chánh,

       Ðạo công bình là Thánh tại tâm,

              Thanh liêm lòng dạ không tham,

Không thêm không bớt không làm bợn nhơ.

       Muốn học Ðạo chừa giờ nghiên cứu,

       Kinh điển là pháp diệu thậm thâm,

              Ngồi không du hí dục tâm,

Sanh điều quấy tưởng, sai lầm hư thân.

       Người quí ở tinh thần hoạt bát,

       Ở cõi phàm giống tạc siêu nhân,

              Phàm dương hạnh đức Thánh nhân,

Xứng danh một kiếp ở trần lưu tên.

       Kinh luận giảng xem liền nhập ý,

       Nghĩa siêu thâm luận lý công minh,

              Thừa nhàn vui với sách Kinh,

Xa nơi thơ truyện huê tình dâm ngôn.

       Ca ngâm quyến rũ hồn giục trí,

       Chuyện dâm phong luận lý đảo điên,

              Muốn nên học sách Thánh Hiền,

Muốn siêu tam giới Kệ Kinh thấm nhuần.

       Vô lượng nghĩa Kinh luân diệu pháp,

       Có duyên tu ý hạp tâm truyền,

              Nước nguồn cây cội cơ duyên,

Gặp đò Bát-Nhã là thuyền Pháp đưa.

       Phật nhựt tăng huy thừa đảnh lễ,

       Chấp Kim-Cang đâu để tánh lìa,

              Lời nầy xét đặng ý kia,

Phăng tầm nguồn cội cái chìa khóa đây.

       Gươm trí huệ hằng ngày lau rửa,

       Gương soi mình bữa bữa sáng trong,

              Ðạo Thiên tu kỹ trong lòng,

Tại gia cứ ẩn đơn phòng cũng hay.

       Không đổi dạng bề ngoài cho lắm,

       Mà ở trong ngăn cấm cực đa,

              Luyện đơn nấu thuốc không già,

Tu nơi đô thị thiệt là khó thay.

       Gặp cảnh khó vì ngày thế mạt,

       Hỡi các chư Bồ-Tát, tỳ kheo,

              Hủy danh trần lụy bọt bèo,

Chí tâm son sắc mà trèo chông gai.

       Ðường thế cuộc càng ngày thậm khổ,

       Danh vọng chi là chỗ ba đào,

              Biển trần cuồn cuộn sóng xao,

Vào trần lụy kiếp anh hào dễ chi.

       Dụ thần chực sẵn thì liệu lấy,

       Lỡ vướng chân đâu thấy nẻo lầm,

              Lưới trần là chỗ hiểm thâm,

Sẩy chân một bước sa hầm nghiệp khiên.

       Cõi ác trược nhân duyên quả kiếp,

       Chỗ đắm mê đền nghiệp kéo đòi,

              Có gì hạnh phúc nhìn coi,

Tu tầm cảnh lạc là nơi thanh nhàn.

       Trần phức tạp lại càng mau hủy,

       Dại đói nghèo, khôn lụy kiếp người,

              Tranh giành xâu xé một thời,

Cái thân tứ đại hủy rồi lại không.

       Ai sực tỉnh hối lòng biết Ðạo,

       Không giàu sang là tháo ách trần,

              Không phiền kẻ cắp hại thân,

Không vào tranh cạnh tinh thần đặng an.

       TRỜI mở Ðạo khai Ðàn cứu thế ,

       Là phương châm dụng để thoát nàn,

              Linh-căn xót cảnh rối loàn,

Quyết vào tái kiếp độ an buổi này.

       Ðạo một gốc mà cây nhiều nhánh,

       Biết phăng tầm bổn tánh mới hay,

              Trí phàm thành quách ngăn dày,

Chánh tà biện luận dở hay không nhàm.

       Học một chữ mà kham cũng tốt,

       Văn năm xe chữ " MỘT " không thông,

              Thương thay cá chậu chim lồng!

Muốn tu đạt vị hiểu thông đất trời.

       Ðời kia thấy một người LỤC-TỔ ,

       Không chữ nào là chỗ ÐẠO chơn,

              ÐẠO không lý luận thua hơn,

Biết đường chánh giác thì thân khỏe nhàn.

       Chánh đẳng rồi trụ an khí chất,

       Vọng là lầm tu thất chơn truyền,

              Niết-Bàn phục đáo căn nguyên,

Tu không phải khó, bền duyên mới thành.

       Cội đặng sung thì nhành lá tốt,

       Ðạo ấy là ương hột giống lành,

              Làm sao cơ Ðạo viên thành,

Khai duyên hóa Ðạo nhọc nhành biết bao!

       Vì nòi giống dạt dào lụy đổ,

       Vì nhơn sanh sống chỗ lầm than,

              Sanh, già, bịnh, tử ngổn ngang,

Cảnh đời mạt hậu lầm than khốn cùng.

       Cõi dương thế lạnh lùng ác dữ,

       Chẳng kể chi sanh tử kiếp người,

              Bụng no thì mỉm miệng cười,

Mặc ai tang tóc, mặc người khổ đau.

       Vay nợ máu thì vào quả nghiệp,

       Ðòi trả nhau vạn kiếp chẳng thôi,

              Chúng-sanh kiếp sống đâu rồi,

Tử sanh, sanh tử mấy hồi đau thương!

       Cảnh thế mạt trăm đường hoạn khổ,

       Ðạo bửu truyền tận độ khắp cùng,

              Hiệp truyền giáo lý trung dung,

Phổ đồng bao quát hòa dung chánh truyền.

       Không mắc mỏ tùy duyên đại chúng,

       Trình độ dân ứng dụng hòa đồng,

              Ðạo hoằng tại mục tương thông,

Không phiền có một Nhơn Ông giảng đường.

       Một quyển Kinh tận tường chơn lý,

       Một kiếp tu luyện kỷ đáo hồi,

              Người đời có tánh buông trôi,

Bát cơm manh áo lôi thôi mãn ngày.

       Vào mượn kiếp nợ vay tràn ngập,

       Chữ Hiếu thân bồi đắp chưa tròn,

              Lại gầy thêm nợ đoàn con,

Nợ chồng, nợ vợ đã mòn tấc hơi!

       Hữu căn thì nhớ lời thệ ước,

       Ngộ Ðạo thì dõi bước tầm tu,

              Kìa gương thế diệt cổ lưu,

Cuối đời cực tiến, họa sầu tiêu vong.

       Biết niệm tâm lòng hằng tưởng nhớ,

       Tu là nay cứu trợ cho đời,

              QUAN-ÂM BỒ-TÁT hiện thời,

Tầm thinh cứu khổ khắp nơi khẩn nguyền.

       Tánh người dữ não phiền, hơn giận,

       Tham, sân, si, quấy tưởng đảo điên,

              Trì lòng niệm Phật bền duyên,

Sân, si tan biến, tánh hiền phát sanh.

       Người ngu tối, lưu manh, tà vạy,

       Niệm QUAN-ÂM tánh lại sáng khôn,

              Lâm nàn trì tụng Phổ-Môn ,

QUAN-ÂM cứu khổ bảo tồn khỏi nguy.

       Miệng tụng Kinh, tâm thì tưởng mộ,

       Pháp giới là tận chỗ cao siêu,

              Vào tu trước giữ qui điều,

Ở ăn mực thước theo chiều sĩ nhu.

       Lần tiết giảm giao du kẻ ác,

       Học Ðạo thì tự giác nơi tâm,

              Lời Tiên, ý Phật sưu tầm,

Phăng đường chơn lý tu nhằm nẻo chơn.

       Ðời hậu mạt thua hơn cứ mặc,

       Khôn thì gìn giữ chặt cái tâm,

              Ma quân bốn phía chớ lầm,

Dụ thần sáu nẻo không làm lay tâm.

       Vì bá đạo nên làm đảo lộn,

       Căn cứ vào nguyên bổn mà tu,

              Bàng môn, vọng ý mông du,

Nguyên căn mau đạt lý mầu chơn tu.

       Hội Long-Vân tầm cầu muôn một,

       Lý chơn truyền dung hợp đại đồng,

              Ba nền Chánh Giáo tương thông,

Dung hòa ÐẠI-ÐẠO chánh tông hưng truyền.

       Hỡi tứ chúng! máy huyền đạo đạt,

       Hỡi các nhà uyên bác học gia,

              Ðừng chê đừng thị Lão già,

Phật Tiên đâu ở cảnh nhà rẫy dưa!

       Lời truyền chẳng đong đưa sai dối,

       Cảnh đời nguy tội lỗi tránh lần,

              Tiền tài liên lụy xác thân,

Ðồ vương mạng bá cõi trần lưu vong.

       Ai là kẻ anh hùng nghe kỷ!

       Anh hùng là Ðạo lý uyên thâm,

              Anh hùng tránh chỗ lạc lầm,

Anh hùng giác ngộ mà tầm Ðạo chơn.

       Không trụy lạc giọng đờn tiếng uyển,

       Không say vùi vì miếng đỉnh chung,

              Tiền tài thảm lụy muôn trùng,

Sắc xinh cám dụ anh hùng đọa sa.

       Lời chánh pháp trẻ già đạt ngộ,

       Phải hồi tâm hướng mộ đường lành,

              Hồi tâm dứt bỏ cạnh tranh,

Biết thương nhân vật sát sanh phải chừa.

       Học tu tánh muối dưa lần lượt,

       Dầu người sau kẻ trước noi theo,

              Cảnh đời mạt hậu cheo leo,

Sanh nhiều bịnh chứng hiểm nghèo mạng vong.

       Nhiều độc khí ác phong hay nhiễm,

       Ký sanh trùng ẩn tịm hại ngầm,

              Nhân duyên quả kiếp cơ thâm,

Hoặc là hiện tại dục tâm khởi lòng.

       Họa thế chiến càng mong thúc đẩy,

       Nhân loại càng giục quấy lòng tham,

              Của trần giục tánh ngu phàm,

Không gìn tội lỗi mà cam đánh liều.

       Gẫm thân thế đã nhiều nghiệp trước,

       Ðến ngày nay biết được Ðạo mầu,

              Thì tua hoán cải tầm cầu,

Ba đời thành Phật nhiệm mầu không sai!

       Hỡi già, trẻ, gái, trai xét kỹ,

       Chữ Ðạo là nguyên lý tổ tông,

              Ðời con dầu một mảy lông,

Lưới Trời chẳng lọt, cũng không xóa nhòa.

       Trên cõi tạm ấy là trường học,

       Là trung gian thanh lọc các căn,

              Luân hồi lục đạo lăng xăng,

Nghiệp duyên lẫn lộn khó khăn đời đời.

       Vì khổ kiếp Phật Trời mở Ðạo,

       Từ cổ kim chánh giáo khai truyền,

              Giác thì được trở về nguyên,

Mê trần sanh tử nối liền thảm thê.

       Cuối Hạ-Nguơn ê chề nạn khổ,

       Ðại-Ðạo truyền phát lộ Thiên-cơ,

              Vô hình vẽ một bàn cờ,

Bên tà, bên chánh xem cơ mà hành.

       Hễ căn chánh thi hành Ðạo chánh,

       Giữ thế cờ vững mạnh tu trì,

              Nếu mà Ðạo pháp để suy,

Thì cơ thế diệt khốn nguy tới liền!

       Ta giảng Pháp hỡi miền trung-giái,

       Nghe lời Ta thì phải hồi minh,

              Giảm đường vật-chất sắc thinh,

Soi gương đánh sáp, dâm tình trêu ngươi.

       Thân vật-chất con người đã tốt,

       Y phục là cốt để che thân,

              Giữ cho kín đáo mắt trần,

Tư phong cốt cách tăng phần tốt tươi.

       Phải biết Ðạo làm người có lễ,

       Bốn đức là dành để nữ hiền,

              Công, Dung, Ngôn, Hạnh noi truyền,

Ấy là lý chánh, đảo điên sanh tà.

       Lời nói năng thiệt thà chánh trực,

       Ý nghĩ thầm giữ mực chánh tâm,

              Lòng đừng ganh tỵ ghét thầm,

Xui người làm quấy, giục tham mị tà.

       Ðời vốn thiệt nhiều ma nhiều quỷ,

       Biết tu thì niệm ý giữ gìn,

              Khôn thì cứ mực làm thinh,

Trìu lòn nhịn nhục thân mình được yên.

       Ðời ly loạn Phật Tiên xuống thế,

       Mượn xác phàm hầu để cứu trần,

              Ðạo mầu dụng lý tu thân,

Chở che họa diệt cứu nhân mạt đời.

       Mùi tục lụy trần vơi đắm đuối,

       Tánh lỗi lầm mê muội nào hay,

              Phật Tiên mượn Ðạo chỉ bày,

Lời Kinh tiếng Kệ xưa nay dẫy đầy.

       Thấp thỏi phải cầu Thầy học Ðạo,

       Tánh xin đừng cao ngạo kiêu căng,

              Thân hồn muốn được siêu thăng,

Phật xưa lẽ chánh thường răn dạy người.

       Tăng thượng mạn là người ngu xuẩn,

       Tu không thành biện chứng nhiều lời,

              Vào trường học Ðạo Phật Trời,

Bước chân chưa vững học đời chí cao.

       Không thấy tánh lẽ nào ngộ giác,

       Chẳng hồi quang sống thác mãi còn,

              Bổn lai diện mục chớ mòn,

Soi vào tâm nội hết còn cho minh.

       Muốn cảnh thế thái bình an lạc,

       Trí thông minh đạo đạt lý mầu,

              Kiếp trần sống thác bao lâu,

Cơ đời hỗn loạn biết đâu mất còn.

       Ngày ở tạm mót bòn công đức,

       Phẩm hạnh là trọng nhứt ở đời,

              Ðồng sanh trong cõi làm người,

Trau tria Ðạo pháp Phật Trời đồng thương.

       Vật chất vốn chủ trường cõi sống,

       Biết hữu dùng thiệt giống như tu,

              Của trần tuy thấy phù du,

Sẽ nhờ nơi đó lập tu phước lành.

       Dụng của để thực hành bố thí,

       Bố thí mà vô ngại chủ tâm,

              Mong cầu Ðạo báu thậm thâm,

Nếu sanh ý tưởng sai lầm hại thay.

       Nhiều tiền của lại gây tánh ác,

       Ấy là chưa ngộ đạt lý mầu,

              Hồng trần giả có bao lâu,

Huỳnh lương chợt tỉnh canh thâu đã tàn!

       Tâm tánh biết bạc vàng của thế,

       Tụ rồi tan ai dễ gìn lâu,

              Cao nhân giữ lấy Ðạo mầu,

Thi ân bố đức mà cầu Ðạo thâm.

       Ðạo vô thượng muôn năm vẫn sáng,

       Lìa tử sanh bỉ ngạn đáo bờ,

              Biển trần lặn hụp ngất ngơ,

Sanh rồi lại tử bao giờ thoát ly?

       Ðường lục đạo ít gì cay đắng,

       Chúng-sanh đồng đẳng đẳng tới lui,

              Phật Tiên thấy phải ngậm ngùi,

Truyền Kinh giảng lý khuyến đời lưu tâm.

       Nguơn Thánh-Ðức ngàn năm an lạc,

       Xót trong vòng hạ mạt cuối đời,

              Tu bồi đạo đức kịp thời,

Kìa cơ thế diệt lập đời chỉnh ghê.

       Nguơn Thánh-Ðức trở về mau được,

       Cơ sảy sàng dõi bước tu thân,

              Tĩnh tâm phủi sạch mùi trần,

Trau tâm rèn tánh phú bần chớ lo.

       Ngũ giới cấm tu cho thuần Ðạo,

       Tập trì trai thông thạo giữ bền,

              Tánh lành hằng bữa học nên,

Sát sanh cấm dứt, thù hiềm bỏ qua.

       Tu Ðạo chánh mị tà khử bỏ,

       Ðiều thị phi ngoài ngõ bít tai,

              Kệ Kinh bậu bạn hằng ngày,

Ðèn trăng quạt gió sánh tày thi ông.

       Ai tráo chác tự lòng cứ mặc,

       Tánh mình tu trơ mắt chẳng nhìn,

              Bụi trần không dấy đặng mình,

Ấy là khử ám hồi minh sáng lòng.

       Người quân-tử dầu trong cảnh khó,

       Cứ mặc nhiên để đó không sờn,

              Nghĩ gì tiếng thiệt lời hơn,

Phát rồi uyển hóa như cơn gió lùa.

       Cõi tạm thế tranh đua bay nhảy,

       Ngủ mê mà còn hãy thêm lầm,

              Chim bay cá lặn biển thâm,

Tưởng rằng sống được muôn năm bền hoài.

       Luật nhân quả nơi đây thấu triệt,

       Rõ Ðạo mầu quả thiệt căn nguyên,

              Tránh vòng nhân quả nghiệp khiên,

Ðạo Trời báo ứng nhân duyên rõ ràng.

       Sự tội lỗi do vàng với bạc,

       Lại tình yêu, tánh ác nảy sanh,

              Vô tri lại với hữu tình,

Biết thì quay lại thấy mình hết mê.

       Chánh đẳng đạt Bồ-Ðề cao quí,

       Thiện căn dùng hậu bị làm nền,

              Ðạo mầu cơ sở dựng nên,

Phật Tiên vạn ức do nền thế gian.

       Siêu với đọa hai đàng tỏ rõ,

       Dữ với lành chẳng có bao xa,

              Luận phân lẽ chánh đường tà,

Bàn qua tán lại có là xong chi.

       Trong lẽ Ðạo cái gì tà chánh?

       Rốt ráo là cái tánh mê lầm,

              Chánh tà đều tại nhân tâm,

Chỉ cần đạt ngộ tu nhằm hết sai.

       Ðạo làm người lắng tai nghe rõ,

       Tam Cương cùng Ngũ Lý phải thông,

              Ðó là cái Ðạo chánh tông,

Ðạo người để thất tu không biết đường.

       Nam lẫn nữ học trường chung sách,

       Ðạo làm người nhân cách ra sao?

              Nhân trí nhận định thế nào?

Thiệt người nhân trí không vào cõi mê.

       Nhân thức hạng tu tề chánh kiến,

       Chữ thức là kinh quyện bát thâm,

              Chớ nên cảm giác mê lầm,

Vọng ngôn ý ngữ lỗi lầm độc tôn.

       Luận tà chánh nhét dồn người tối,

       Thượng mạn tăng tánh dối chẳng kềm,

              Trên đầu Thần Thánh không kiêng,

Ðạo người không xử, Ðạo Thiên thế nào?

       Giảng rốt tới văn hào tuấn sĩ,

       Ðạo Thánh Hiền luận lý uyên thâm,

              Dứt đặng cái chốn mê lầm,

Ưu thời mẫn thế sưu tầm Ðạo cao.

       Phải xét xem lẽ nào thiệt đúng,

       Giải nguơn kỳ cho trúng chớ lầm,

              Ba nền giáo lý siêu thâm,

Ðến kỳ hậu mạt giáp vòng qui tam.

       Hòa tác dụng Ðạo làm căn bổn,

       Giáo hóa hoằng tiệm đốn lợi sanh,

              Ðốn thì quả vị lập thành,

Tiệm duy trì dựng cội lành dưỡng chơn.

       Thời hạ mạt cuối nguơn hầu chí,

       Cả ba nền giáo lý siêu viên,

              Buổi đời cang kỷ đảo điên,

Kỳ ba ÐẠI-ÐẠO quyết tuyên dựng đời.

       NHO, THÍCH, LÃO ba thời lập giáo,

       Qui lại thành ÐẠI-ÐẠO Ngũ Chi,

              Mới nghe trái ngược ly kỳ,

Sưu căn định vị sau thì sẽ thông.

       Phổ dương khai đại đồng cứu thế,

       Buổi nguy cùng trợ tế chúng-sanh,

              Căn cơ đắc ngộ duyên lành,

Giục tu chánh đại công thành về nguyên.

       Rồi sẽ thấy Phật Tiên cõi thế,

       Ðại trung dung Ðạo thể chung nhà,

              Nam mô Hội Thượng Long Hoa,

Thuyết minh Ðạo lý trẻ già niệm tâm.

 

      (- Kính bạch Phật! Nay con cúi cầu ơn Phật hoan hỷ sự trễ nải vì con bận việc xây cất và phải lo cử hành cuộc Ðại Lễ Siêu Ðộ và Khánh Thành. Nay con đã vào nhập định, xin hầu lịnh Phật gia chỉ giáọ)

      - Nam Mô A Di Ðà Phật! Hoan hỷ tứ phước! Nay ngươi cùng tất cả đại hội Ðạo, đại tiểu Linh-Căn đã hoàn thành một công đức vô lượng nơi Ðạo-tràng, cùng đẳng chư thiện tín đồng được gia ân tế phước.

      Tam Giáo Thượng Tòa đã phê chuẩn sự biểu tượng dung họp Ðạo thể, cứu cánh nền Ðạo giáo phục hưng, thiệt một quả cảm biểu dựng cái Bảo Pháp vô thượng nơi Ðạo tràng vậy!     

      Sắc chỉ Long-Hoa đã tứ phước cho toàn tất cõi âm hồn được siêu căn thọ mạng, tắm gội cam-lồ tịnh-thủy, thoát hôn trầm phục hồi chánh giác, đồng vãng sanh Phật quốc hằng hà sa số ức, chư hồn đồng vạn tạ thâm ân vô lượng như hải.

      Hôm nay, trên là Ðấng Chí-Tôn, Long-Hoa Hội-Thượng cùng phê chuẩn công đức vô lượng nơi kỳ siêu đại hội Ðạo đã thành tựu viên mãn.

      Nơi Thiên-Lý Bửu-Tòa trung tâm Ðại Hội Ðạo đã đượÐỨC NGỌC-ÐẾ y chuẩn lịnh CẦU-AN vào trung tuần thập ngoạt hạ hội Giáp-Tý niên, quy tề Ðại Hội Ðạo, hiệp thế chúng thiết lập CẦU-AN để hoàn tất sứ mạng kỳ ba, toàn tất hiện diện phải đồng thành tâm niệm cầu để cứu cánh đại thế chúng kỳ mạt hậu nầy cho đặng chuyển họa vi phước, âm siêu dương thới, phong điều võ thuận, quốc thái dân an. Chớ trễ chầy vì thời cơ cận đại.

      Ngọc-Sắc phê truyền Ðại-Ân-Xá kỳ chót! Hỡi toàn tất Căn-Linh! Nay đã được Long-Hoa chuyển tánh thì chớ cượng sanh nghi, hãy phát nguyện giục tu chánh giác, tha độ và tự độ, vun bồi Ðạo pháp, Ðạo quả cấp tiến vượt mạnh được song song với cơ đời, vì Ðạo pháp vốn lợi sanh chi bổn.

      Hễ vật-chất phát thì thế chúng lâm nguy, Ðạo pháp hưng lại duy trì tồn hậu phước. Hãy nghe:

KỆ RẰNG:

Ðức trọng ma quỉ lánh,

Hòa ấy bổn lợi sanh,

Kích bác thành diệt hóa,

Hiệp dựng đá nên non,

Chia ắt còn ngã mạn,

Ðèn minh tâm đủ sáng,

Ðuốc cháy mạnh tàn mau,

Trí giác không tà chánh,

Ba-La-Mật thiệt Ðạo.

      Nếu một dân tộc được có sứ mạng Ðạo tức là cái vô lượng hạnh phúc cho nòi giống của dân tộc đó, ngàn năm, triệu ức năm sử Ðạo còn truyền lưu, hạnh phúc lắm thay ơn soi đường dẫn lối, tuy nay chưa đạt ngộ thấy chuyện như tầm thường. Khi vào thế hệ Ðạo ở thời vị lai khẩn cầu cái hạnh phúc đó không dễ được .

GIÁC MÊ CA:

Chịu tin nghe mau khử ám hồi minh,

Lợi căn ấy phăng dò đường trực giác,

Từ bi dụng chơn ngôn lời đạo đạt,

Chí hào hùng cải ác trở về chơn,

Bọn ma quân theo khảo chớ giận hờn,

Thọ khổ rồi mới thoát ly khỏi khổ.

Ðời phiến loạn Ðạo hoằng dương tận độ,

Rao bán Ðạo mầu ai tỏ ngộ thì mua,

Kẻ ghét thì nói chác, nói Ðạo chua,

Người đạt ngộ đón mua, ôi! quí quá!

Kẻ vô tư tiệc tùng vui nghiêng ngã,

Người âu lo rằng phóng xạ diệt đời,

Bực đại nhân hay ưu thế mẫn thời,

Hàng Tiên Phật thương đời nên tế độ.

Hễ lợi căn, nghe thiệt lời, tâm đạt ngộ,

Nguyện cúng dường và cầu độ khắp chúng-sanh,

Ðời Hạ-Nguơn kẻ dữ có người lành,

Người chém giết, có kẻ tu hành lẫn lộn.

Người hiền đức, nghĩa nhân cùng khiêm tốn,

Kẻ du đồ tánh hỗn độn dựa thời cơ,

Khắp năm châu cuộc thế ví bàn cờ,

Tới nước chiếu, rõ binh thơ đồ trận.

Ðạo là diệu pháp, giải nguy cơ thế tận,

Tin nghe lời, oán hận giải tiêu ma,

Lập chí tu nhẫn nhẫn với hòa hòa,

Tu để tránh gian tà làm thế tận.

Tu trước hết phải lánh vòng sân hận,

Giũ thất tình, không vướng bận lợi danh,

Giới sát thì lòng dạ sạch tinh anh,

Trì trai nguyện chí thành không xiêu ngã.

Niệm Phật chớ cượng lòng nghi chơn giả,

Tinh tấn một niềm thì Ðạo quả ắt cao,

Ngồi công phu tâm tánh chớ vọng xao,

Ðịnh quán chuyển Ðạo cao bình thảm họa.

Tu thì phải phá mê cùng diệt ngã,

Biết Ðạo mầu luật nhân quả phải nên kiêng,

Ðừng khôn gian lấn lướt kẻ ngu hiền,

Ỷ thế mạnh không kiêng dè Thần Thánh.

Ðời cõi tạm, bến mê cần sớm lánh,

Kiếp con người dường thể cánh phù dung,

Sớm đua chen màu sắc điểm pha hồng,

Chiều ủ dột như cánh đồng u quạnh!

Nhiều lý lẽ không qua gìn tâm hạnh,

Hễ minh tâm thì kiến tánh đắc ngộ truyền,

Cõi dương trần này Ðạo quả Phật, Thánh, Tiên,

Một chữ MẶC cứ vẹn nguyền đừng xao lãng.

Cuộc thế sự ngày sau rồi sẽ hãn,

Cảnh lọc lừa sàng sảy cứ bền tu,

Ðịnh tâm thần vững chí luyện công phu,

Ngày bình trị hiền ngu nền Thánh Ðức.

Cơ hỗn loạn trì tu độ đời cầu thoát vực,

Hết hai ngàn còn mất mới rõ thông,

Cõi dương gian hết cá chậu chim lồng

Ðời vui toại tu công bồi quả Phật.

Thế giới rõ thông Ðạo mầu là sự thật,

Chịu hòa đồng, qui nhứt mạch hồi chơn.

Nam Mô Long Hoa Hội-Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.


Liên Thanh Sưu Tập

Ý kiến bạn đọc (0)

Ảnh Đẹp

Có Sắc Không Hương

Một ngày kia, nữ hoàng Shaba gởi đến vua Solomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu.Đó...