- Tại sao phải có Đạo Cao-Đài
- Giáo-lý Đạo Cao-Đài
- Cơ tuần-huờn của Tạo-Hóa
- Đề-tài chữ Tu
- Giải-thích chữ Hòa
- Giải-thích Kinh Lễ
- Giải-thích chữ Khiêm
- Giải-thích chữ Cung
- Giải-thích chữ Nhẫn
- Tân-luật Pháp-Chánh-Truyền
- Luật-pháp Chơn-truyền của Đại-Đạo
- Tam-lập
- Tu thân, tu trí, và tu tâm
- Chí-khí tinh-thần phấn-đấu
- Tinh-thần đoàn-kết
- Thiện ác phân minh
- Triết-lý Thiện và Ác
- Phước và tội
- Tu-hành và học-hành
- Triết-lý chữ Tâm
- Diệt tận phàm tâm
- Giải-thích Tam-cang Ngũ-thường
- Chánh-trị của Khổng-Giáo
- Chánh-danh định-phận
- Chánh-trị cần có đạo-đức hay không?
- Chánh-trị cần phải có đạo-đức
- Luật thương-yêu, quyền công-chánh
- Giá-trị của con người
- Yếu-điểm trong Ngũ-Kinh
- Giảng nhơn-nghĩa đạo-đức
- Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
- Đức-tin của con người
- Bổn-phận Tín-đồ
- Giảng-đài Tòa-Thánh
GIẢNG ĐẠO CHƠN NGÔN Soạn giả THÁI ĐẾN THANH. Ấn bản năm Tân Hợi 1971. In tại nhà in LÊ THÀNH Long Hoa. Hội Thánh Giữ Bản Quyền. Thuyết nhơn-nghĩa, giảng đạo-đức, là một giáo-lý bao la quảng-đại của các Ðấng Thánh trước Hiền xưa lưu truyền. Người trí suyển tài sơ như tôi, không thể nào sưu-tầm cho tận tường các triết-lý. Ðã
nói là rừng Nho biển Thánh thì dầu cho người đi đến non cao rừng thẳm,
cũng chưa ắt am hiểu hết danh mộc, có ra ngoài biển rộng sông sâu cũng
chưa dễ lảu thông các loài thủy tộc. Huống chi tinh-thần đạo-đức, trong
Tam-giáo Phật, Tiên, Thánh truyền dạy, có lắm điều huyền-bí nhiệm-mầu
thì chưa một ai tự hào là thông-tri lịch lãm. Trải
qua trên ba mươi năm trong cửa Ðạo CAO-ÐÀI, tôi cố tâm học hỏi Ðạo-lý,
sự hiểu biết được bao nhiêu những điều thường-thức của các bậc Chức-Sắc
đàn anh chỉ giáo. Ngày
nay lập thành một quyển tựa đề "GIẢNG-ÐẠO CHƠN-NGÔN" cốt-yếu để làm
phương-châm dìu bước cho chư Ðạo-hữu mới nhập-môn được biết sơ qua trên
con đường tu tâm dưỡng tánh cho trở nên người hạnh-đức thuần-lương, ấy
là giúp ích cho anh em đồng đạo. Những
việc thường-thức hằng ngày, cũng chưa chắc ai dám tự-phụ rằng mình đã
thông thuộc mọi điều đầy-đủ. Huống chi Ðạo-lý diệu-diệu cao thâm, phải
trải qua nhiều năm khổ nhọc, mới mong vạch đặng chút ít ánh sáng vào
đường siêu-việt đó. Vậy
mong nhờ quí vị Ðại-Huynh, xem chỗ nào còn sai suyển xin vui lòng chỉ
giáo, đặng bổ cứu vào chỗ khuyết điểm cho được hoàn bị hơn. Tôi rất mong và sẵn chờ tiếp nhận sự chỉ giáo ấy. Mong thay Ngày 16 tháng Giêng Ðinh-Dậu (15-2-1957) Giáo-Sư THÁI-ÐẾN-THANH HUỲNH-VĂN-ÐẾN TẠI SAO PHẢI CÓ ÐẠO CAO-ÐÀI? Bởi
thời kỳ Hạ-Ngươn cùng tận, Tam-Giáo: Nho, Thích, Ðạo đã thất
chơn-truyền khiến cho nhơn-tâm biến đổi bỏ phép công-bình chiến-tranh
loạn-lạc, con người gian-tham xảo-trá giành-giựt quyền-lợi, trộm cướp
giết hại lẫn nhau, thành ra một trường náo-nhiệt tồi phong bại tục
nghiêng đổ luân-lý cang thường, ấy là đời mạt kiếp. Vì
cớ cho nên Ðức CHÍ-TÔN mới hội chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại
Ngọc-Hư-Cung, nhứt định hoằng-khai Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ, cốt-yếu
chấn-hưng Tam-giáo, thức tỉnh chúng sanh giữ Ðạo cang-thường, tu tâm sửa
tánh, hồi đầu hướng thiện tự hối ăn-năn cải dữ làm lành, lập lại đời
tân-dân minh-đức, cho thuận theo lẽ tuần huờn của Tạo-Hóa. Ðức
CHÍ-TÔN dùng huyền-diệu cơ-bút giáng trần giáo đạo, tá danh là CAO-ÐÀI
TIÊN-ÔNG ÐẠI-BỒ-TÁT MA-HA-TÁT, hiệp qui Tam-giáo thống nhứt Ngũ-chi, gọi
là cơ-quan cứu thế chủ nghĩa giáo dân qui thiện, thật hành Bác-ái
Công-bình, đề xướng cho nhơn-loại hòa-bình, đại-đồng thế-giới. Tóm lại: Do Thiên-thơ tiền định đến thời kỳ chuyển-giáo cho nên phải có Ðạo CAO-ÐÀI. BÀI THI CỦA ÐỨC CHÍ-TÔN (Giáng cơ dạy buổi ban sơ) Tường quang nhứt khí chiếu minh đông, Tam-giáo qui nguyên giữ cộng đồng. Phật-Pháp khuyến nhơn quy mỹ-tục, Nho-Tông phục thế hưởng thuần-phong. Diệu-huyền Chơn Ðạo tu tông hướng, Mê hoặc tà mưu khả tự phòng. Thế thượng dục tri Thiên-Sứ đáo, Tam-Kỳ Phổ-Ðộ lập kỳ công. GIÁO-LÝ ÐẠO CAO-ÐÀI Do
theo Chơn-Luật của Ðức CHÍ-TÔN là thương-yêu, còn Chơn-Pháp là
công-bình. Từ năm Bính-Dần 1926, Ðức CHÍ-TÔN giáng cơ khai Ðại-Ðạo
Tam-Kỳ Phổ-Ðộ, trước hết cũng dạy thương-yêu. Thầy
dạy rằng: Ngày nào các con thật hành chủ-nghĩa thương-yêu cho ra chơn
tướng, ấy là ngày của nhơn-sanh thoát khổ. Lại có một bài Thánh-Ngôn dạy
rằng: "Thầy là cha cả của sự thương-yêu, do bởi sự thương-yêu mới tạo
thành Càn-Khôn Thế-Giới và sanh dưỡng các con.” Bởi
sự thương yêu mà vạn-loại hòa bình, Càn-Khôn an tịnh, đặng an-tịnh mới
không thù nghịch lẫn nhau,không thù nghịch lẫn nhau mới không tàn hại
nhau, không tàn hại nhau mới giữ bền cơ sanh hóa" (ấy là chơn luật
thương-yêu). Còn Chơn-Pháp công-bình, thì Thầy có dạy rằng: "Ðạo của
Thầy là công-lý, ngày nào các con còn trông thấy một điều bất bình ở thế
nầy, thì Ðạo chưa thành tựu". Nền
Ðạo CAO-ÐÀI là Nho-Tông chuyển thế, trước cửa Tòa-Thánh có biểu-dương
hai chữ NHƠN-NGHĨA thật to, thì thấy chữ NHƠN là chủ sự thương-yêu. Có
câu: "Trắc ẩn chi tâm ái vật chi lý, bất sát bất hại thể háo sanh chi đại-đức vi nhơn". Nghĩa là: tỏ lòng thương người mến vật chẳng nỡ sát hại sanh mạng, noi theo lòng từ-bi của Ðức Chí-Tôn mới gọi là Nhơn. Chữ NGHĨA là giữ phép công-bình, gìn lòng chánh-trực không một mảy gian tham, có câu: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân" những
việc ta chẳng muốn ai làm cho ta chịu đau khổ thảm sầu thì ta không nên
đem việc ấy mà làm cho người khác mới là phải Nghĩa. Con
người biết giữ phép công-bình mới tỏ ra sự thương-yêu, mà thương-yêu
cho chánh lý, thì trên thuận với lòng Trời dưới cộng-hòa cùng đồng loại
quốc-dân, ấy là cơ đạt Ðạo "Hòa giã thiên hạ chi đạt Ðạo dã". Còn Ðời mà thật hành được sự thương-yêu công-bình hòa-thuận, thì cơ Ðời trở nên thái-bình an-cư lạc-nghiệp. Khổng-Giáo ái nhân như ái kỷ,thương-yêu tất cả mọi người cũng như thương thân của mình vậy. Phật-Giáo thì lấy câu Từ-bi Bác-ái làm trọng. Tiên-Giáo Ðức Thái-Thượng dạy: "Căn cô truất quả kỉnh lão hòa ấu côn trùng thảo-mộc du bất khả thương". Gia-Tô Giáo thì: "Xả kỷ ái nhân". Xem như thế thì các nhà Tôn-giáo cũng vì chủ-nghĩa thương đời, nên mới phát-minh ra các vấn-đề đạo-đức để giải khổ cho đời. Ngày
nào nhơn-sanh hồi tâm hướng thiện, thật-hành chủ nghĩa thương-yêu, biết
giữ phép công-bình, thì nhơn-loại mới đặng chung hưởng mọi điều
hạnh-phúc. CƠ TUẦN-HUỜN CỦA TẠO-HÓA Kỳ Hạ-nguơn nầy là buổi hiệp Tam-giáo làm một hầu đem về căn-bản cho thuận theo lẽ tuần-huờn. Ðức
Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế, dùng huyền-diệu Tiên-gia giáng cơ giáo Đạo, thế
thì nhơn-loại hữu duyên hữu phước mới sanh nhầm kỳ khai Ðạo thứ ba, muôn
năm ngàn kiếp mới có một kỳ như vậy nếu chẳng thành tâm tu-niệm thì rất
uổng cho kiếp sanh. Tu-niệm đặng làm chi? Nhập-môn vào Ðạo để làm gì? Nhập-môn
vào Ðạo đặng làm lành lánh dữ, dưỡng tánh tu tâm lập công bồi đức cứu
độ nhơn-sanh, chớ không phải vào Ðạo rồi cậy lấy phần đông, kết phe lập
đảng ỷ chúng hiếp cô, kẻ vào Ðạo mà chỉ mưu việc quấy như vậy, là kẻ lợi
dụng danh Ðạo mà làm cho rối loạn chơn-truyền, tức là kẻ phản nghịch
với chánh-lý của Ðạo vậy. Những
người thật tâm nhập-môn tùng giáo, dầu đông bao nhiêu cũng giữ một
phương-diện làm phải làm lành, chẳng làm điều gì trái với luật-pháp
chơn-truyền của Ðạo. Nay
là buổi tuần-huờn Trời khai Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ chấn hưng Tam-giáo
thức tỉnh nhơn sanh, giữ Ðạo cang thường tu tâm dưỡng tánh, hồi đầu
hướng thiện, tự hối ăn năn, cải dữ theo lành tân-dân minh-đức, thì chúng
ta rõ biết cuộc tuần-huờn Tạo-hóa xoay vần công-bình Thiên-Ðạo. Mỗi
phương đều có một Chơn-Ðạo, đặng cho đời noi gương chánh giáo, dìu-dắt
lẫn nhau, lấy phép công-bình mà đối đãi với nhau, cho được ôn-hòa mới ra
vẻ làm người hiền lương chí thiện, ấy là Ðạo khai cho nhơn-loại trở nên
lành. Trên đây đã nói: nay là buổi tuần-huờn thế nào? Xin lược giải ra chơn-lý như sau đây: Tuần-huờn là: "Thiên hữu tứ thời Xuân tại thủ". Trời
có bốn mùa chỉ mùa Xuân là ở đầu, trong mùa xuân mát mẻ hơn các mùa,
cây trái đều tươi tốt, người cũng lấy Xuân mà thêm tuổi. Mùa Xuân có ba
tháng là tháng Giêng, tháng hai, tháng ba trong ba tháng có 90 ngày, nên
gọi là thiều quang chín chục. Cuối
mùa Xuân sang Hạ, Thu, Ðông, rồi trở lại Xuân ấy là châu nhi phục thỉ.
Ví như một năm 12 tháng thì khởi đầu tại tháng Giêng, xoay vần tới tháng
Chạp cũng trở lại tháng Giêng. Mỗi tháng 30 ngày khởi đầu ngày mồng một
ấy là cơ tuần-huờn của Tạo-hóa. Nói rộng hơn nữa là luận thuyết
Tam-Nguơn: Thượng-Nguơn, Trung-Nguơn, Hạ-Nguơn. Thượng-Nguơn là nguơn Tạo-hóa, tức là nguơn Thánh-Ðức, ấy là nguơn vô tội. Trung-Nguơn là nguơn Tấn-hóa, tức là nguơn tranh đấu, ấy là nguơn tự diệt. Hạ-Nguơn là nguơn Bảo-tồn, tức là nguơn Tái-tạo, ấy là nguơn qui cổ. Trong
một năm cũng có Tam-nguơn: Thượng-nguơn là rằm tháng giêng, Trung-nguơn
là rằm tháng bảy, Hạ-nguơn là rằm tháng mười, rồi thì cũng trở lại rằm
tháng giêng, Thiên-Ðịa tuần huờn châu nhi phục thỉ. Còn cuộc tuần huờn của nhơn-sanh là: "Nhơn chi sơ tánh bổn thiện". Con người mới sanh ra ban đầu, thì có tánh trọn lành gọi là: "Thiên mạng chi vị tánh". Trời
đã ban cho mỗi người một cái tánh lành ai ai đều có, mà tại con người
chẳng hay trau-giồi, để cho nó nhiễm lấy hồng trần thế sự xu-hướng theo
vật-chất mà quên mất lương-tâm, trở nên người hung ác bạo tàn. Cha
mẹ sanh con từ nhỏ cho đến khôn lớn, đều dạy làm phải làm lành, chẳng
có cha mẹ nào dạy con làm các điều tội-lỗi. Thánh Hiền xưa cũng lo cho
buổi sau nầy, phong hóa suy tồi nhơn-luân điên đảo, nên mới soạn Thi-Thơ
Kinh-Ðiển để lưu truyền cho kẻ hậu lai, thì Thiên kinh vạn điển hiếu
nghĩa vi tiên, không có bài sách nào mà Thánh Hiền dạy con người gian
tham trộm cướp, mà hiện nay thấy rõ con người ở đời, làm những điều tội
lỗi nhiều hơn là làm phải làm lành, ấy là nhơn tâm bất cổ, lòng người
chẳng giống xưa, gọi là mất nguồn cội. Thời
kỳ Hạ-nguơn nầy Ðức CHÍ-TÔN hoằng khai Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ, cốt yếu
là giáo dân qui thiện phục chánh nhơn tâm, thức tỉnh cho người đời biết
giác ngộ, lánh dữ làm lành tu nhơn tích đức, phản bổn huờn nguyên mới
thuận theo cơ tuần-huờn tạo-hóa. Làm người biết noi theo đường Thiên-lý, thì chỉ có phương tu là hay nhứt. ÐỀ TÀI CHỮ TU Tu
là trau-giồi đức-hạnh, sửa bổn tâm chơn tánh, cải ác tùng lương, khử tà
qui chánh. Nghĩa là: đổi dữ về lành bỏ các điều vạy mà làm theo điều
ngay. Con người đồng thọ nhứt điểm Linh-quang của Tạo-hóa ban cho một
cái tánh Thiêng-liêng, tánh ấy vẫn biết khôn ngoan trí hóa đạo-đức
tinh-thần, nếu không lo trau-giồi để cho nó nhiễm lấy vật-chất hữu-hình
lợi-danh phú-quí, sắc-dục tiền-tài, làm cho điểm linh-quang mờ ám, mà
sanh ra các điều tội lỗi. Có câu: "Ngọc bất trác bất thành khí". Ngọc
chẳng giồi chẳng nên giống tốt. Ngọc ngà là vật quí báu của đời, nếu
không biết cách trau-giồi, thành ra một vật vô giá-trị cũng như con
người có một tánh lành, mà chẳng hay trọng dưỡng để cho nó trở nên hung
ác thì gọi là mất nguồn cội. Cho nên bậc nào cũng lo tu-hành là điều cần
nhứt, có câu: Tự Thiên-Tử chí ư thứ dân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn. Nghĩa là: từ ngôi Thiên-Tử xuống tới hàng thứ dân, chỉ dùng sự tu thân mà làm căn bản. Xem
trong thơ truyện các bậc Ðế-Vương cũng xuất thân lo việc tu-hành. Vua
Hiên-Viên Huỳnh-Ðế, còn phế giang-san quì gối ba phen yết bái Ðức
Quảng-Thành-Tử mà học Ðạo Tiên-Thiên. Lại nữa: Ðức Thích-Ca là con một
của vua Tịnh-Phạn-Vương, Ngài là Ðông-Cung Thái-Tử, sao chẳng ở nối ngôi
Vua mà hưởng nhờ vinh-huê phú-quí, lại xuất thân hành đạo chịu thiên
tân vạn khổ, ly gia cắt ái giáo hóa chúng sanh thuyết pháp độ đời, thức
tỉnh nhơn tâm, cho đặng thoát khỏi sông mê biển khổ. Do nơi công-nghiệp
ấy Ngài mới đắc đạo là Phật-Tổ, thiên hạ phụng thờ, muôn người sùng bái,
có phải là phương tu rất nên quí hóa chăng? Ðến
như các bậc Ðế-Vương mà còn mộ Ðạo tu-hành thay huống chi chúng ta nỡ
nào mê theo mồi phú-quí bả vinh-hoa vẻ cân-đai mùi chung-đỉnh là điều
giả cuộc, mà đành quên hết đạo-đức tinh-thần hay sao? Có câu: Ðức giã bổn giã, tài giã mạt giã. Ðạo-đức là căn bản, còn tài là ngọn ngành, mà chúng ta lẽ nào bỏ gốc tầm ngọn, lại có câu: "Ðức thắng tài vi quân-tử". Sao lại không lo lập đức đặng làm người quân-tử mà lại tranh tài? Phương tu rất có ích cho nhơn-quần xã-hội. Bởi có câu: Tu kỷ dĩ an bá tánh, một
người tu mà trong bá tánh thảy đều an cư, ví như một người kia bình
nhựt hay trộm cướp gian tham, mà nay biết ăn-năn hối ngộ lo việc tu-hành
thì trong bá tánh đặng hưởng mọi điều yên tịnh, có phải là phương tu
hữu ích chăng? Nếu
trong xã-hội từ lớn chí nhỏ đều lo việc tu-hành, giữ theo luật Ðạo làm
lành lánh dữ, thương yêu thuận-hòa cùng nhau thì xã-hội trở nên
thái-bình, đời mới đặng thuần-phong mỹ tục. Còn chẳng noi theo đường
đạo-đức, để tranh đua mạnh hiếp yếu trí lấn ngu, giàu hiếp nghèo, khôn
lấn dại, sanh ra các điều ác cảm không kể luân-lý cang-thường thì chi
cho khỏi điều tồi phong bại tục. Có câu: "Bang hữu đạo tắc trí bang vô đạo tắc nguy". Nước nhà có đạo-đức thì dân trở nên hiền lành, được mở mang trí hóa cao thượng. Còn
nước không có Ðạo, thì dân tranh cạnh thù nghịch lẫn nhau, tìm mưu sâu
kế độc mà giết hại lẫn nhau chẳng thương yêu cốt nhục đồng bào, thì kết
cuộc nhơn-sanh phải đi tới con đường tận diệt.... Tóm lại phương châm tu-hành đạo-đức là một cơ-quan bảo tồn nhân-loại. GIẢI-THÍCH CHỮ HÒA CHỮ HÒA LÀ THUẬN HÒA Trong Kinh Lễ có câu: "Lễ dĩ hòa vi quí". Lễ
nghi phải lấy chữ hòa làm quí, vì ngoài mặt có hòa nhã, thì trong tâm
mới có thành kỉnh, lễ nghi mới ra vẻ trang nghiêm long trọng. Nếu hành
lễ mà không hòa, thì dầu lễ nghi to lớn Thánh Thần cũng không chứng
hưởng. Thầy Mạnh-Tử nói: Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhơn hòa. Nghĩa
là: Thời Trời chẳng bằng đất lợi, đất lợi cũng không bằng người hòa.
Người có hòa mới cảm tình liên-lạc kết dây đoàn thể với nhau, tương thân
tương ái đồng tâm hiệp lực cùng nhau thì mới thật hành mọi điều
kết-quả. Ðời
Tam-Quốc ông Lưu Tiên-Chúa, duy lấy hai chữ nhơn hòa mà thắng cả thiên
thời địa lợi, làm cho Tào Mạnh-Ðức lắm trận kinh hồn, Ngô Tôn-Quyền
nhiều phen mất vía. Xem như thế đủ biết chữ hòa mạnh-mẽ là dường nào. Nhớ lại tích xưa 3 vị anh hùng LƯU, QUANG, TRƯƠNG hiệp đồng nhứt tâm, dụ tất có một chữ hòa mà lập nên giang san Hớn-Thất. SÀI,
TRIỆU, TRỊNH cũng dùng chữ hòa mà dựng nên cơ nghiệp Tống-Triều.
Quốc-dân Việt-Nam trên 25 triệu đồng bào, chung cả tín-đồ Ðạo Cao-Ðài,
nêu biết hiệp lực đồng tâm, thương yêu liên-lạc thuận-hòa cùng nhau mới
có thể phục hồi an-ninh trật-tự, chấn hưng nền luân-lý, (mối
cang-thường) trở nên tận-thiện tận-mỹ. Trong Kinh Thi có câu: "Âm dương hòa võ trạch giáng, phu phụ hòa gia đạo thành". Khí
âm khí dương hiệp hòa thì mưa nhuần rưới khắp, vợ chồng có hòa thì đạo
nhà mới nên. Thiết tưởng như hai vợ chồng mà biết thuận-hòa với nhau còn
tạo thành gia-nghiệp được kinh dinh thay. Trái lại, vợ chồng mà không
hòa thì tự nhiên tình nghĩa phai lợt cách xa, gia-đình ắt phải suy tồi
hư hoại. Còn
trong xã-hội mà chẳng hòa, thì biến thành xã-hội phân vân tranh đấu.
Toàn cả thế-giới mà chẳng hòa thì đời chiến-tranh loạn lạc, ấy là cơ
tự-diệt lẫn nhau. Nếu chẳng dùng phương-châm đạo-đức nhơn nghĩa mà làm kế bảo an, thì nhơn loại vì cuộc chiến-tranh ắt phải có ngày tuyệt chủng. Trong Kinh Thơ có câu: "Hiệp hòa vạn bang". Phải
hiệp hòa muôn nước. Dầu cho quốc-dân chủng-tộc nào, hay là sắc da nào
chẳng hạn cũng đồng con chung của Ðấng Tạo-Hóa, thì phải biết thương yêu
thuận hòa với nhau như anh em một nhà thì đời mới trở nên thái-bình an
cư lạc nghiệp. Ðến
như Trời-Ðất âm-dương, cùng các bậc thượng-cổ Ðế-Vương còn phải lấy chữ
hòa làm gốc. Huống chi anh em chúng ta là người tu-hành đạo-đức, há
chẳng noi theo chữ hòa hay sao? Có câu: "Hòa giã thiên-hạ chi đạt đạo
giã". Hòa là cơ đạt đạo trong thiên-hạ vậy. Trong
thế-giới có hòa thì mới đặng thái-bình thịnh vượng, nhà nước có hòa mới
được tấn bộ văn-minh, gia-đình có hòa mới được sum vầy vui-vẻ, cha con
có hòa mới trọn câu phụ từ tử hiếu, anh em có hòa mới biết thuận thảo
thương yêu, vợ chồng có hòa mới nên cửa nhà đồ-sộ, bậu bạn có hòa mới
giữ tròn câu tín-nghĩa, đạo-đức có hòa mới được hoàn-toàn. Chữ hòa rất quí hóa thay! Thánh-Giáo của Ðức Chí-Tôn dạy: Kỳ Phổ-Ðộ thứ ba nầy, Thầy giáng trần khai Ðạo là đề xướng cho nhơn-loại hòa-bình đại-đồng thế-giới. Ngày
nào các con hiệp nhứt tâm thật hành cho đặng chữ hòa thì Thầy sẽ giao
chìa khóa cho các con mở cửa Tam-Thập Lục-Thiên mà vào nơi
Bạch-Ngọc-Kinh. Còn các con không thuận hòa cùng nhau thì ngọn đèn
thiêng-liêng chưa đủ rọi tỏ cho mấy chục triệu nhơn sanh. Thầy lại dạy
rằng: "Cái nhánh của các con là cái nhánh của chính mình Thầy làm chủ,
một điều Thầy vui hơn hết là muốn cho các con liên-lạc thuận hòa cùng
nhau hoài, chia vui sớt nhọc với nhau dìu-dắt nhau đem lên đường
đạo-đức, hầu tránh khỏi chốn trần ai, khốn đốn (giết hại lẫn nhau) ấy là
các con hiến lễ cho Thầy trân trọng. Nếu các con không thuận-hòa cùng
nhau, tựa hồ chia phe phân phái thù nghịch lẫn nhau, ấy là các con làm
đại tội trước mặt Thầy". Những
lời của Ðức CHÍ-TÔN đã dạy, anh em chúng ta ghi nhớ mà thật-hành cho
tròn bổn phận là môn-đệ của CHÍ-TÔN, kẻo lắm công-trình cực nhọc đem
thân vào đường đạo-đức, mà chẳng tuân theo Thánh-Giáo thì sau nầy không
tránh khỏi luật Thiên-điều. THI CHỮ HÒA Thiên thời địa lợi bất như hòa, Tam-giáo chơn-truyền vốn một cha. Chia rẽ phân tâm thành bạc nhược, Hiệp hòa chung trí thắng can qua. Thương yêu nhơn-loại như xương thịt, Cảm mến đồng-bào thể ruột rà. Cả tiếng kêu ai là mẫn thế, Nghiêng vai chung gánh Ðạo nhà ta. GIẢI-THÍCH KINH LỄ Lễ
là khuôn viên trọng thể của con người, con người sở dĩ linh hơn muôn
vật, tưởng cũng nhờ có lễ nghĩa mà đặng phần hơn. Nên có câu: Nhơn-sanh vạn vật tối linh, Lễ giả Thiên-Ðịa chi tự dã. Nghĩa
là người đời có tánh linh hơn muôn vật là nhờ biết Lễ, Lễ vốn là Trời
Ðất phân ra trật-tự khác nhau, cho vạn-vật có thứ tự phân-minh, nhưng
cũng đồng một thể, cũng do theo điều hòa mà tạo thành cơ sanh hóa. Có
câu: Thiên cao địa hạ vạn-vật tán thù, nhi lễ chế hành hĩ, Lưu nhi bất tức, hiệp đồng nhi hóa chi nhạc hưng yên. Trời
cao đất thấp muôn vật khác nhau, cho nên Thánh-Hiền mới định ra Lễ
Nghĩa, phân tôn-ti trật-tự. Trời Ðất và vạn-vật lưu hành, hội họp
tánh-chất cho điều hòa để gầy tạo thành cơ sanh hóa. Căn
nguyên của Lễ cao xa như thế, cho nên mới có giá-trị tôn quý, Thánh
Hiền đời trước lấy lễ làm căn bản, để dạy người và trị thiên hạ. Có câu:Tiên
Vương chế lễ nhạc giả, phi dĩ cực khẩu, Phúc nhĩ mục chi dục giả, tương
dĩ giáo dân binh hảo ố, nhi phản nhơn-đạo chi chánh dã. Tiên Vương
chế ra Lễ Nhạc, chẳng phải để làm cho cùng cực cái sở dục của miệng,
bụng, tai, mắt, nhưng để dạy dân giữ lòng hảo ố cho vừa phải mà sửa lại
cái nhơn-đạo cho chánh vậy. Quy
củ chữ Lễ là để chế sửa phong-tục, nhơn quần xã-hội, Quan-Hôn Tang-Tế,
triều-đình hương-đảng, cả thảy đều dùng lễ mà làm cho tận thiện tận mỹ
vậy. Lễ là thuộc việc tế-tự có thể trạng-thái tình cảm rất hậu, tế là do tâm thành kỉnh Trời, Phật, Tiên, Thánh hay là Tổ-Tông. Có câu: "Phù tế giả phi vật tự ngoại, tự trung xuất sanh ư tâm dã". Trong việc cúng tế chẳng phải tại lễ vật ở ngoài, chỉ tại lòng thành kỉnh mà sanh ra vậy. Lễ là cốt để giữ sự chừng mực cho sự hành-vi của con người. Ðức Khổng-Tử nói: "Ðạo-đức
nhơn nghĩa phi lễ bất thành, giáo hóa chánh tục phi lễ bất bị, phân
tranh kiện tụng phi lễ bất quyết, quân-thần thượng hạ phụ-tử huynh-đệ
phi lễ bất định, hoạn học sự sư phi lễ bất thân, ban triều trị quân tỵ
quan hành pháp phi lễ oai-nghiêm bất thành. Ðảo từ tế-tự cung cấp
Thánh-Thần, phi lễ bất thành bất trang, thị dĩ quân-tử cung kỉnh tôn
tiết thái nhượng dĩ minh lễ". Lời của Ðức Khổng-Tử dạy, những người
đã làm đạo-đức nhơn-nghĩa, mà thiếu lễ cũng chẳng nên, dạy bảo sửa đổi
phong-tục mà thiếu lễ thì cũng chẳng đủ. Xử việc phân tranh kiện tụng mà
thiếu lễ thì không quyết đoán, Vua tôi trên dưới cha con anh em, mà
không có lễ thì chẳng định, học làm quan thờ Thầy mà không có lễ thì
chẳng thân mật, sắp đặt thứ vị trong triều, cai-trị quân lính, đi làm
quan thi-hành pháp lịnh, mà không có lễ thì chẳng oai nghiêm, cầu khẩn,
cung cấp, tế-tự Thánh Thần mà chẳng có lễ thì không trang-nghiêm thành
kỉnh. Bởi thế cho nên người quân-tử dung mạo phải đoan trang trong tâm phải thành kỉnh, giữ-gìn pháp-độ để làm cho lễ ra sáng tỏ vậy. Ðức
Khổng-Tử, thỉ chung làm những việc gì, cũng cần giữ bực trung-dung, nếu
không dùng lễ để làm tiêu-chuẩn cho sự hành-vi thì biết thế nào là
trung được, nên Ngài nói rằng: "Lễ hồ sở dĩ chế trung dã". Lễ vậy ôi!... để đặng chế cho vừa bực trung vậy. Lễ là dùng phương diện phân tôn ty trật-tự, tức là cái phép để tạo nên luân-lý trong gia-đình và xã-hội quốc-dân vậy. Có câu: "Phù lễ Tiên-Vương dĩ thừa thiên chi đạo, dĩ trị nhân chi tình". Lễ
là các vì Tiên-Vương vâng theo cái Ðạo của Trời, để trị tình dục của
con người, tình dục của người vừa biến sanh, chỉ có dùng lễ mà ngăn cản
lại được. Khổng-Tử viết: "Ẩm
thực nam nữ nhân chi đại dục, tồn yên tử vong bần khổ nhơn chi đại ố,
tồn yên cố dục ố giả tâm chi đại đoan dã, nhân tàn kỳ tâm bất khả trắc
độ giả, mỹ ác giai tại kỳ tâm bất kiến kỳ sắc dã, dục nhứt dĩ cùng chi
xá lễ hà dĩ tai". Ðức
Khổng-Tử nói: Các việc tội lỗi của con người là do nơi sự ăn uống quá
độ mà sanh ra, nhứt là trai và gái ăn chung với nhau, thì cái sở dục bao
giờ cũng có.... Còn cái giận cái ghét của con người, là do sự nghèo khổ
bịnh hoạn chết mất mà nảy sanh, cái ố-dục là mối lớn của tâm vậy, cái
tâm của con người thường giấu kín, chẳng khá độ lường đặng, tóm lại nếu
muốn biết cho cùng mà không dùng lễ thì chẳng thế nào biết được. Các
bậc Ðế-Vương đời trước, sở dĩ trị được thiên hạ, là nhờ hiểu rõ cái
tình dục của con người, nên mới chế ra Lễ Nghĩa, để phân tôn-ty trật-tự
chuyên trị thất tình là: Hỉ, Nộ, Ai, Lạc, Ái, Ố, Dục, sửa thập nghĩa là:
Phụ-từ tử-hiếu, huynh-để đệ-cung, phu-nghĩa phụ-tiết, trưởng-huệ, ấu
thuận, quân nhân, thần trung. Giảng giáo điều tín nghĩa chuộng sự hòa
thuận, bỏ sự cạnh tranh trộm cướp. Sự giáo-hóa của Ðức Khổng-Tử, là tinh-vi hiệu quả rất sâu xa. Có câu: "Lễ
chi giáo hóa giả vi kỳ chỉ tà dã ư dị hình sử nhân nhựt tỹ thiện viễn
ác như bất tự tri dã". Sự giáo-hóa của Ðức Khổng-Tử mà dùng lễ là
cao-sâu mầu nhiệm, có thể ngăn ngừa các điều tội lỗi trong lúc chưa bày
ra, khiến cho người ngày ngày đến gần chỗ lành, lánh xa điều dữ là người
biết lễ vậy. Ðức Khổng-Tử rất trọng lễ vậy, nên Ngài nói: Phù lễ cấm loạn chi sở do sanh, do phường chỉ thủy tự lai dã. Lễ là ngăn cấm các điều rối loạn lúc chưa sanh ra, cũng như con đường đấp để ngăn cho nước đừng tràn vào vậy. Người
giàu sang mà biết lễ thì không dâm tàn, không kiêu căng, người bần tiện
mà biết lễ thì không nản chí, không làm quấy, người làm Vua mà biết lễ
thì mới biết phép sửa nước trị dân. Tóm lại: Lễ chi ư chánh quốc giã, do hành chi ư khinh trọng giã, thằng mạc chi ư khúc trực giã, qui củ chi ư phương viên dã. Lễ
đối với việc sửa nước trị dân, chẳng khác nào như cây cân để đối với
vật nặng vật nhẹ, cũng như sợi dây để đối với vật thẳng vật cong, cũng
như cái quy cái củ để đối với vật tròn vật vuông vậy. Nếu
con người từ ấu chí trưởng mà biết trọng lễ nghĩa khiêm cung, thì khỏi
chịu dưới luật hình trừng trị, mà đời sẽ trở nên thái-bình an-cư
lạc-nghiệp. Sánh với đời Nghiêu-Thuấn, Võ-Thang, Văn-Võ, Châu-Công,
Khổng-Tử, Mạnh-Tử, Nghiêu-Thuấn không lập luật hình, Võ-Thang không tạo
khám đường ngục thất, đời vô-vi nhi trị thiên-hạ thái-bình là nhờ
dân-tộc thời kỳ ấy biết giữ lễ. Thánh-Giáo của Ðức TÔN-SƠN dạy: Lễ nơi mình là khuôn viên trọng thể, Lễ nơi nước là phép trị an, Lễ nơi toàn cầu là đại-đồng thế-giới. Nếu không có lễ thì chẳng làm việc gì mà nên đặng. THI CHỮ LỄ LỄ là trật-tự của Thần-Tiên, LỄ dạy nhơn-sanh giữ tánh hiền. LỄ đối toàn cầu điều yếu trọng, LỄ qui Tam-Giáo thuận cơ Thiên. GIẢI-THÍCH CHỮ KHIÊM Chữ Khiêm là khiêm-nhượng, dầu mình khôn ngoan trí hóa, tài hay nghề giỏi cũng phải kính nhường người. Có câu: "Thánh-nhơn bất tự mãn túc, Nghiêu Thuấn kỳ du bịnh chư". Ðức
Thánh-Nhơn còn chưa gọi mình là đầy-đủ, Vua Nghiêu, Vua Thuấn còn có
chỗ thiếu sót thay. Ấy là bậc Thánh Hiền còn phải khiêm-nhượng như thế. Người
đời thường có tánh tự đắc, kiêu ngạo, chẳng biết khiêm-nhượng là gì, hễ
mở miệng ra thì tự-tôn tự-đại, coi mình như Thần-Thánh, khinh bỉ người
nhẹ như mảy lông. Có câu: "Khinh bạc chi thái, thị chi quân-tử tắc tán ngô đức, thị chi tiểu-nhân tắc tán ngô thân". Nghĩa
là: Cái thói khinh bạc mà đối với người quân-tử thì tổn cái đức của
mình, còn đối với kẻ tiểu-nhân thì hại cái thân của mình. Cho nên Ðức Khổng-Tử dạy rằng: "Thông-minh
huệ trí thủ chi dĩ ngu, công bị thiên hạ thủ chi dĩ nhượng, dõng lực
chấn thế thủ chi dĩ khước, phú hữu tứ hải thủ chi dĩ khiêm". Ðức
Khổng-Tử nói: dầu mình có thông-minh trí huệ hơn người cũng phải coi
mình như ngu dốt vậy, dầu mình có công lao đầy-đủ trong thiên-hạ, thì
cũng phải kính nhường người, mình có sức mạnh hơn đời, cũng phải coi
mình như kẻ mềm yếu vậy, dầu mình giàu có trong bốn biển, thì cũng xem
mình như nghèo khổ vậy. Ấy là cái hạnh khiêm-nhượng của Ðức Thánh-Nhân,
để roi truyền cho đoàn hậu tấn. Chữ
khiêm đối với các phương-diện cần phải thật-hành tất cả. Người bác-học
mà biết khiêm-nhượng thì kẻ tài sơ mới hết lòng mến phục, còn kẻ tài sơ
mà biết khiêm-nhượng, thì người bác-học mới vui dạ dắt-dìu. Còn tánh hiu-hiu tự đắc, thì thành ra người không được tiến hóa. Trong
gia-đình mà biết khiêm-nhượng thì mới được trên thuận dưới hòa. Trong
xã-hội mà nhiều người biết khiêm-nhượng, thì xã-hội mới được thái-bình.
Còn người tu-hành đạo-đức mà biết khiêm-nhượng thì mới đặng hoàn-toàn. Trong quyển Phương-Châm Hành-Ðạo của Ðức Quyền Giáo-Tông dạy rằng: Quí hóa thay cái hạnh khiêm-nhượng, nguy-hiểm thay cho tánh tự-kiêu. THI Khiêm cung nhẫn-nại mới là hay, Tự-đại tự-tôn chẳng phải tài. Xem hạnh người xưa gương trước mắt, Mắt dầu không thấy vẫn còn tai. GIẢNG-GIẢI CHỮ CUNG CHỮ CUNG LÀ CUNG KỈNH Ðối
với các sự đời và hành-vi cử-chỉ của con người hằng ngày phải giữ tấm
lòng cung kỉnh. Dầu lúc nào cũng xem mình như ở giữa chốn triều-đình,
đứng trên sân tế lễ. Dầu ngồi trong nhà kín cũng tưởng như: thập mục sở
thị, thập thủ sở chỉ. Nghĩa là mười mắt trông vào và mười tay chỉ vào
mình. Trong Kinh Thơ có câu: "Như lâm thâm uyên, như lý bạc băng". Phải coi mình như đến vực sâu, như noi giá mỏng. Cách
cử động của các bậc Cổ-nhơn cung kỉnh như thế. Con người còn có tánh
linh hơn vật, là do nơi biết cung-kỉnh lễ nghĩa mà cao hơn. Nếu
con người chỉ biết đói thì ăn, khát thì uống, no ấm thì vui mừng, đói
rách thì lo buồn, còn ngoài ra chẳng biết cung-kỉnh lễ phép là gì. Người
như vậy phỏng có khác chi cái hình bằng gỗ chăng? Thiết tưởng hạng
người như thế thiên-hạ kêu là giá áo túi cơm cũng phải. Ðức Khổng-Tử, giáo hóa nhơn-sanh có dạy năm điều là: "Ôn, Lương, Cung, Kiệm, Nhượng". Vua
tôi có cung kỉnh thì thiên-hạ mới được thái-bình, cho nên vua Nghiêu
đối với bá-quan thường dùng một chữ Khâm, ngàn thu còn để tiếng
Thánh-quân. Cha con có cung-kỉnh thì gia-đình mới được thuận hòa. Ông
vua Thuấn thờ cha mẹ trọn niềm thủ kỉnh, mà muôn đời còn lưu danh là đại
hiếu. Anh em có cung kỉnh với nhau, mói có tình cảm thân yêu mến. Ðời
xưa ông Lý-Tịch làm quan to, ông đã già mà cung kỉnh bà chị một cách lạ
thường. Một hôm bà chị đau ông thân hành đi nấu cháo cho chị ăn, thổi
lửa rủi bị cháy hết râu, người chị thấy em như vậy thì hết lòng thương
xót. Còn vợ chồng mà biết cung kỉnh với nhau, thì tình thân-ái mới được
thuận-hòa, tạo nên cửa nhà đồ sộ. Ðời
xưa vợ chồng ông Khước-Khuyết tương kỉnh như tân, vợ chồng của ông kỉnh
nhường nhau ví như khách quí, thường bữa ông đi cày bà vợ đem cơm phải
quì mà dâng cho ông, rồi chấp tay đứng hầu đến trọn bữa. Ngày
kia có quan Đại-Phu, đi ngang qua xem thấy cách cung kỉnh của vợ chồng
ông như vậy, bèn về tâu lại với Vua nước Tấn, Vua liền mời ông
Khước-Khuyết phong làm quan Hạ Ðại-Phu, ấy là vợ ngoan làm quan cho
chồng. Người
tu-hành mà biết cung-kỉnh, thì tinh-thần đạo-đức mới được tăng tiến lên
cao. Trong xã-hội từ lớn chí nhỏ đều biết cung kỉnh lễ phép thì xã-hội
mới có vẻ điều-hòa thuần phong mỹ-tục. Toàn thể nhân-loại mà biết giữ lễ-nghĩa cung kỉnh với nhau, thì thế-giới sẽ được hòa-bình phục hồi thượng-cổ. THI CHỮ CUNG Cung kỉnh là đầu của thế gian, Lễ nghi biết giữ đặng trang-hoàng. Tài sơ bác-học đều lưu-ý, Nghiêu-Thuấn thường dùng đối bá quan. GIẢI-THÍCH CHỮ NHẪN Chữ
Nhẫn là kiên tâm nhẫn nại. Bền lòng nhịn nhục được thì cái tâm mới
an-tịnh, nhứt là về phương-diện tu-hành đạo-đức, phải thật hành chữ nhẫn
trước hết. Ðức Khổng-Tử nói: "Tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu". Việc
nhỏ mà chẳng nhịn thì cái mưu lớn ắt phải hư hoại. Ở đời ta thường thấy
những việc nhỏ bằng sợi tóc, vì không nhịn được mà xảy ra sóng gió to
lớn, nhiều khi gây nên tai họa giết hại lẫn nhau, là do nơi chẳng chịu
kiên-nhẫn mà biến sanh ra nông nỗi. Có tích xưa: Ông Quách-Tử-Nghi, đời nhà Ðường khi còn nhỏ đang đi học, một hôm ông xem kinh Phật thấy câu "Hắc phong xuy châu phiêu nhập chi khổ hải". Nghĩa
là luồng gió đen thổi chiếc thuyền trôi vào trong biển khổ. Ông không
hiểu ý câu ấy ra sao, bèn đến hỏi một Hòa-Thượng, vị Hòa-Thượng thấy hỏi
như vậy, thì thịnh nộ mắng ông Quách-Tử-Nghi rằng mầy còn con nít biết
gì mà dám hỏi những câu đó. Ông Quách-Tử-Nghi thấy vị Hòa-Thượng trả lời
như vậy thì nổi giận hầm-hầm tím mặt. Lúc ấy vị Hòa-Thượng bèn ung dung
day lại cười mà cắt nghĩa cho ông Quách-Tử-Nghi biết rằng: Sự thịnh nộ
của công-tử từ nãy đến giờ tức là luồng gió đen thổi chiếc thuyền trôi
vào biển khổ đó.... Ông
Quách-Tử-Nghi hồi tâm tỉnh ngộ, bèn chấp tay tạ ơn vị Hòa-Thượng, đã
dùng một cách gián-tiếp mà chỉ giáo cho mình. Ôi! Ở đời biết bao nhiêu
luồng gió đen, hằng ngày lẩn-quẩn xung quanh mình của chúng ta, nếu
chúng ta không hết sức lấy tấm lòng kiên-nhẫn ra chống chỏi, thì cơ hồ
thân thể của chúng ta như một chiếc thuyền nhỏ kia, có ngày chìm đắm vào
trong bể khổ. Có bài sách Thầy Tử-Trương hỏi Ðức Khổng-Phu-Tử về chữ nhẫn. "Tử-Trương dục hành từ ư Phu-Tử, nguyện tứ nhứt ngôn vi tu nhân chỉ yếu". Thầy Tử-Trương muốn đi làm việc chánh, bèn đến từ tạ Ðức Khổng-Phu-Tử, xin cho một lời để làm phép sửa mình. Phu-Tử viết: "Bá hạnh chi bổn nhẫn chi vi thượng". Ðức Khổng-Tử nói: Trăm nết chung gốc chỉ có chữ nhẫn là cao thượng hơn hết. Tử-Trương viết: Hà vi nhẫn chi. Thầy Tử-Trương hỏi tại sao mà phải nhịn đó. Phu-Tử viết: Thiên-Tử nhẫn chi quốc vô hại, Chư-Hầu nhẫn chi thành kỳ đại. Quan-Lại nhẫn chi tấn kỳ vị, Huynh-đệ nhẫn chi gia phú-quý, Phu-phụ nhẫn chi chung kỳ thế, Bằng-hữu nhẫn chi danh bất phế, Tự thân nhẫn chi vô họa hoạn. Nghĩa là: Làm Vua mà biết nhịn thì trong nước không có điều tai hại, bậc chư-hầu mà biết nhịn thì nên nghiệp lớn. Bậc Quan-Lại mà biết nhịn thì phẩm-vị đặng cao thăng. Anh em biết nhịn với nhau thì nhà cửa đặng giàu sang. Chồng
vợ biết nhịn thì niềm ân-ái mới đặng trọn đời. Bậu bạn biết nhịn thì
danh nghĩa chẳng hư, còn thân của mình mà biết nhịn chẳng lo tai họa. Tử-Trương viết: "Bất nhẫn hà như". Thầy Tử-Trương hỏi: Còn chẳng nhịn thì dường nào? Phu-Tử viết: Thiên-Tử bất nhẫn quốc khống hư, Chư-Hầu bất nhẫn tán kỳ xu, Quan-Lại bất nhẫn hình phạt tru, Huynh-đệ bất nhẫn cát phân cư, Phu-phụ bất nhẫn tình ý sơ, Tự thân bất nhẫn hoạn bất trừ. Nghĩa
là: Làm Vua mà chẳng nhịn thì nước phải trống không. Bậc Chư-Hầu chẳng
nhịn thì hư bại thân mình. Bậc Quan-Lại không nhịn thì phải chịu hình
phạt. Anh em chẳng biết nhịn nhau, thì chia của cắt nhà phân ly thủ túc.
Chồng vợ chẳng nhịn thì tình nghĩa ra phai lợt. Còn bổn thân của mình
mà chẳng biết nhịn thì mọi việc hoạn họa chẳng dứt.... Ðức
Khổng-Tử giải nghĩa các bậc rồi, Thầy Tử-Trương ngậm-ngùi mà than rằng:
phải lắm, phải lắm, thật là khó thay nếu không có chí kiên-nhẫn thì
cũng khổ cho bổn phận làm người. Trong Kinh Hoa-Nghiêm có câu rằng: "Nhứt niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai". Một
phen nư giận nổi lên thì muôn ngàn nghiệt chướng nảy sanh. Trong các
kinh sách của Phật, Tiên, Thánh-Hiền hằng ngày dạy nhơn-sanh chữ nhẫn
làm đầu, mà con người mơ-màng chưa tỉnh ngộ. Chúng
ta nhận xét qua một trận giông tố, ắt phải có cây ngã, nhà sập, thuyền
tàu chìm đắm. Còn người trải qua những cơn thịnh nộ rồi, thường có xãy
ra lắm điều tai ương hoạn-họa, khi biết tự-tỉnh ăn-năn thì việc đã muộn
rồi. Vậy
mà có nhiều người trải qua biết bao nhiêu lần giông tố, mà cũng không
biết kiên-nhẫn chút nào, thật cũng đáng buồn cho đó ... Có tích Ông Trương-Công-Nghệ: Ngày xưa ông Trương-Công-Nghệ chín đời cùng ở với nhau một nhà. Có câu: "Trương-Công-Nghệ cửu thế đồng cư". Vợ
chồng con cháu có mấy trăm người mà trọn đời chưa có điều chi
xích-mích, trong gia-đình bao giờ cũng đấm ấm như khí hòa mùa xuân. Ngày
kia Vua nghe tin bèn ngự giá đến nhà ông mà hỏi rằng: nhà của ngươi
dùng cách gì mà trong gia-đình vui-vẻ thuận-hòa với nhau như vậy? Ông
Trương-Công-Nghệ bèn viết một chữ NHẪN thiệt lớn vào trong tấm giấy mà
dâng lên cho Vua.... Vua xem rồi lấy làm kính phục, liền ban cho ông một
trái lê thử coi ông xử sự ra sao. Ông bèn sai người cắt trái lê bỏ vào
trong cái thùng lớn đổ nước nấu sôi, rồi kêu tất cả người trong nhà đến
trước mặt, cho uống mỗi người một muỗng, để gọi là chung hưởng ân Vua. Ôi! Tấm lòng nhẫn nại của ông quý biết chừng nào. Ðến
đổi nhà của ông có nuôi một trăm con chó, mỗi bữa ăn cho ăn cơm nếu
thiếu một con nào thì hết thảy cả bầy đều không ăn đứng đợi.... Sự
nhẫn nại của ông kịp đến cả súc vật cũng biết nhẫn nhượng như thế. Ðời
nay những người không biết kiên nhẫn mà xem đến truyện của ông thì há
chẳng hổ mình lắm sao? Có câu: Trương-Công-Nghệ trăm phần nhẫn nhịn, Chín đời cùng xúm-xích ở chung. Tiếng lành đồn thấu bệ rồng, Một nhà sum hiệp Cửu-Trùng ban khen. "Bá nhẫn đường trung hưởng thái hòa" Nếu trăm điều mà nhịn được hết, thì trong gia-đình sẽ được thuận-hòa vui-vẻ vô cùng. THI Huệ Lan chung đứng mái tây hiên, Biết phải cùng nhau dữ hóa hiền. Kẻ đố người làm đôi đứa hại, Trăm điều nhẫn nhịn mới là Tiên. TÂN-LUẬT VÀ PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN (Giảng-giải về đại-cương) Tân-Luật
là do theo Thánh-giáo mà lập thành, mọi sự hành trình của Chức-Sắc,
Chức-việc và Ðạo-Hữu nam nữ đều tuân y theo Tân-Luật mà thi-hành phận
sự. Bởi Tân-Luật là thế cho Thiên-Ðiều, hễ phạm Tân-Luật thì tức nhiên
là phạm Thiên-Ðiều ắt phải chịu tội lỗi do Thập-Hình của Ðức LÝ
GIÁO-TÔNG trừng trị. Vậy
những người nhập-môn tùng giáo, vào Ðạo Cao-Ðài thì phải thật hành theo
Tân-Luật, là trau-giồi đức-hạnh, cần phải học thuộc lòng Ngũ-Giới Cấm
và Tứ-Ðại Ðiều-Qui, giữ theo đó mà tu-hành cho tròn bổn phận của một vị
tín-đồ trong nền Tôn-giáo Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ. Mỗi người nhập-môn rồi
phải thỉnh một quyển Tân-Luật, để học hỏi cho hiểu rõ mọi điều, và do
theo đó mà làm mực thước để độ lượng bước đường hành đạo của mình, mới
có thể tiến-triển cao thăng đạt thành phẩm vị. Trái
lại, người vào Ðạo mà không thiệt hành theo Tân-Luật chẳng giữ trọn lời
minh-thệ buổi ban sơ, thì không thế nào thành công đắc Ðạo. PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN Pháp-Chánh-Truyền
chú-giải, cũng do theo Thánh-giáo của Ðức CHÍ-TÔN đã định phẩm tước
quyền hành của Chức-Sắc Hiệp-Thiên, Cửu-Trùng và Chức-việc nam nữ, lớn
nhỏ đều có trật-tự phân minh. Ðức HỘ-PHÁP chú-giải thêm sáng tỏ từ chi
tiết, để cho Chức-Sắc từ Ðại Thiên-Phong đổ xuống tới Chức-việc
Bàn-Trị-Sự, do theo đó mà thi-hành cho được vuông tròn trách-nhiệm,
không ai có phép canh cải chơn-truyền của Ðạo. Nếu vị nào phạm vào
Pháp-Chánh, thì bị đưa ra Tòa Tam-Giáo. Cũng
như phần Ðời có gia-pháp, hay là quốc-pháp. Bổn phận làm con mà chẳng
tùng mạng lịnh của cha mẹ trong gia đình, thì tức nhiên là con
ngổ-nghịch bất hiếu. Bổn-phận
làm dân mà không tuân lịnh của Triều-đình Chánh-Phủ trong nước, ấy là
kẻ phản loạn quốc-gia thì phải chịu tội tình hành phạt. Còn
người giữ Ðạo mà bất tùng Luật-Pháp chơn-truyền của Ðức CHÍ-TÔN thì
trái với lời minh-thệ khi nhập-môn đã không được chung hưởng ân-huệ của
Ðức CHÍ-TÔN ban cho mà còn bị quyền Thiêng-Liêng trừng-trị là khác. LUẬT-PHÁP CHƠN-TRUYỀN của nền ÐẠI-ÐẠO TAM-KỲ PHỔ-ÐỘ Luật
là Tân-Luật và Ðạo-Luật, Pháp là Pháp-Chánh-Truyền chú-giải.
Chơn-truyền của Ðạo là Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển. Ðức CHÍ-TÔN giáng cơ khai
Ðạo, từ buổi ban sơ đã chỉ rõ đường đi nước bước, ấy là lời vàng tiếng
ngọc, dạy từ chơn tóc kẻ răng sau nữa là Pháp-Chánh-Truyền và Bát-Ðạo
Nghị-Ðịnh, của Ðức LÝ GIÁO-TÔNG dạy về Chánh-Trị-Ðạo, thì dầu cho
Chức-Sắc Thiên-Phong đổ xuống tới hạng tín-đồ, cũng phải tuân y theo đó
mà thi-hành phận sự. Nếu ai canh cải chơn-truyền của Ðạo thì gọi là dị
đoan bất chánh, phạm vào Luật-Pháp phải bị đưa ra Tòa Tam-Giáo xử trị. Tân-Luật
và Ðạo-Luật, thì do quyền Vạn-linh sửa đổi được những khoản nào không
phù hạp với nhơn-sanh. Còn Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển, Pháp-Chánh-Truyền và
Bát Ðạo Nghị-Ðịnh thì bất di bất dịch. Luật-pháp
qui điều của các nhà Tôn-giáo xưa nay là khuôn viên trọng thể. Ai là
người tự xưng mình rằng môn-đệ trong ba nhà: Nho, Thích, Ðạo thì phải do
theo kỷ-luật của vị Giáo-chủ di truyền, mà thật hành cho được hoàn-toàn
bổn phận, nếu đệ-tử trong Tôn-giáo nào chẳng tùng Luật-pháp qui điều,
lại canh cải chơn-truyền của Ðạo, thì dầu có tu hữu công cũng khó mong
thành chánh quả. Ví
như người đời mà chẳng giữ theo điều luật của Chánh-phủ thì tức nhiên
đời loạn quốc-pháp, phong-hóa suy đồi, luân-lý cang thường điên đảo. Ðạo
là Luật-pháp công-bình Thiêng-liêng của Tạo-hóa, để truyền-bá cho đời,
người biết giữ theo luật Ðạo thì ví như một người thợ mộc, làm việc chi
cũng có mực giăng thước độ, thì khí dụng mới được hoàn thành. Con
người mà không giữ theo Luật-pháp của Ðạo, thì chẳng khác nào kẻ làm
thợ không có mực thước thì cả khí dụng ắt phải hư hoại. Luật-pháp là nấc
thang tấn-hóa, mọi sự hành-vi của con người, dầu các cuộc chơi cũng có
luật-pháp.... Luật-pháp
qui điều là: bốn phương-diện để răn mình chừa lỗi, gọi là: "Qui, Củ,
Chuẩn, Thằng". Có câu: Bất dĩ qui củ chuẩn thằng, bất năng thành phương
viên.... Người
làm thợ mà chẳng noi theo mực thước thì phận-sự không đặng vuông tròn.
Còn người tu mà chẳng giữ theo Luật-pháp chơn-truyền của Ðạo, thì không
đắc quả phẩm vị Phật, Tiên mà còn phạm tội Thiêng-liêng là khác. Tóm
lại, Ðức CHÍ-TÔN khai Ðại-Ðạo kỳ thứ ba nầy gọi là cơ-quan giải khổ cho
chúng sanh, nếu chúng sanh muốn được thoát khổ, thì dùng phương châm
tu-hành đạo-đức mà làm kế bảo an và cần phải thật hành y theo khuôn viên
luật-pháp của Ðạo thì mới chung hưởng cơ hòa-bình an-cư lạc-nghiệp. TAM-LẬP Lập công - Lập đức - và Lập ngôn 1.- Lập công là:
Lập công-nghiệp với Ðạo cho đầy-đủ, mới có thể thọ phong vào hàng
Chức-Sắc, hay là đạt thành phẩm-vị thiêng-liêng, cao thấp là tùy theo
công-nghiệp nhiều ít. Ví
như phần đời các bậc trung-thần tể-tướng, cũng do nơi lập công-nghiệp
với Triều-đình, mà đặng chức trọng quyền cao lộc cả. Chưa từng thấy một
người nào bình nhựt ở không chơi bời lười biếng, mà được giàu sang vinh
hiển, lập nên danh thể lưu lại trên đời mà cũng chẳng thấy một nhà tu
nào, không chịu khổ hạnh vì Ðạo mà đắc thành Thiên-vị phẩm tước cao siêu
ấy là chơn-lý hiển nhiên từ thử. 2.- Lập đức là: Lập đức-hạnh cho được hoàn toàn ấy là một nấc thang tiến hóa đến cực phẩm Thiêng-liêng. Ðức-hạnh
đủ đầy ví như hai cái chơn mạnh-mẽ, có thể trèo lên tới đảnh thượng,
vẹt ngút mây xanh, biết rõ cơ mầu nhiệm, thanh-nhàn vui-vẻ hơn mọi sự. Có câu: "Ðức trọng quỉ thần kinh". Những người lập đức được cao trọng, thì dầu cho quỉ thần cũng phải kiêng nể hay là võ lực hùng oai cũng chẳng màng ... Người có đức cũng như cây lớn có gốc rễ nhiều, dầu gặp giông tố bão-bùng cũng không khi nào xiêu ngã. "Ðại đức đôn hóa, tiểu đức xuyên lưu". Ðức
lớn thì ngưng tụ vững bền, còn đức nhỏ hay là khiếm đức, phải chịu trôi
giạt không bờ bến dựa nương ... Ðức là căn bản nguồn cội trường tồn,
còn tài-sản như sương đeo ngọn cỏ. Những
người cố tâm lập đức, thì hay thi-ân tế-chúng phổ hóa nhơn-sanh, mọi sự
hành-vi đều có lợi ích chung cho đồng loại. Trên thuận tùng Thiên-lý,
dưới phù hạp nhân tâm giá-trị quí hơn ngọc ngà châu báu. Có câu: "Ðức thắng kim". Ðạo-đức là trọng hơn vàng bạc, ấy là lời của Thánh-nhơn dạy con người cần lập đức. 3.- Lập ngôn là:
Kính cẩn thận trọng từ lời nói, những lời thốt ra phải có đạo-đức,
nhơn-nghĩa, khiêm-cung, thì mọi người đều cảm hoài yêu chuộng. Còn
lời nói có tổn hại cho nhơn sanh là những điều bất nghĩa vô nhân, làm
cho thiên-hạ vì lời nói của mình mà phải chịu thảm sầu đau khổ, thì tự
nhiên phải mang câu thất đức. Ðức Khổng-Tử nói: "Bán cú phi ngôn ngộ tổn bình sanh chi đức". Ðức Thánh-nhân dạy rằng: "Xuất kỳ ngôn thiện, tắc thiên-lý chi ngoại ứng chi, xuất kỳ ngôn bất thiện, tắc thiên-lý chi ngoại vi chi". Nghĩa
là nói ra một lời lành, thì chưng ngoài ngàn dặm thiên-hạ nghe mà cảm
động hưởng ứng theo đó, còn nói ra những lời chẳng lành, thì chưng ngoài
ngàn dặm thiên-hạ nghe mà nghịch đó. "Xuất nhứt ngôn khả dĩ hưng bang, xuất nhứt ngôn khả dĩ tán bang". Một lời nói có thể làm cho lợi ích nước nhà, cũng một lời nói mà làm hư hoại tất cả giang-san sự nghiệp. Vậy làm người cần phải biết cẩn ngôn là dè-dặt thận trọng từ lời nói. Trước khi thốt ra những lời nói ta nên xét đoán suy nghĩ được 3 điều: - Một là chơn chánh, - hai là hữu ích, - ba là dễ thương. Nếu nói ra mà không đặng ba điều ấy, thì tốt hơn là làm thinh còn hay hơn nói. "Nhứt ngôn trúng vạn ngôn dụng, nhứt ngôn bất trúng vạn sự bất thành". Tóm lại vấn-đề Tam Lập: Mỗi
người trong Ðạo hay là ngoài đời, mà thật hành cho được vẹn toàn thì
tư-cách phẩm-giá của con người sẽ trở nên tôn nghiêm cao trọng. TU THÂN - TU TRÍ - TU TÂM Con
người trên mặt thế nầy mà được cao thượng là chỉ nhờ có một phương tu.
Danh thể giá-trị được tôn trọng hơn người, là nhờ biết tu thân và tu
trí. Bởi
thân thể đặng trong sạch, trí não được thông minh sáng suốt, mới có thể
giúp hay cho quốc-gia xã-hội làm những điều ích nước lợi dân, tạo
hạnh-phúc cho giống nòi chung hưởng. Còn tiến triển cao hơn đạt thành phẩm-vị: Thần, Thánh, Tiên, Phật, là nhờ biết dưỡng tánh tu tâm. Ngoài ba phương diện: Tu thân, tu trí và tu tâm, thì con người phải cam chịu ở vào hàng hạ đẳng. Ngày nào toàn thể nhơn-sanh mà thật hành được ba phương tu kể trên, thì đời sẽ biến thành cảnh Cực-Lạc Thiên-Ðường tại thế. CHÍ KHÍ TINH-THẦN PHẤN-ÐẤU Con
người sanh ra tại thế nầy, mọi sự hành-trình cần phải có chí phấn đấu,
bất luận làm một việc gì, trước khi khởi sự ta phải suy nghĩ cho đáo để,
xét đoán điều lợi hại phân minh rồi mới quyết định thật hành, khi đã
khởi công phải có chí khí phấn đấu, thì mới đặng kết quả mỹ-mãn và sớm
muộn ta sẽ đạt thành nguyện vọng, ấy là cái chí khí của người
trượng-phu, làm những việc gì cũng cương-quyết, không bao giờ nản lòng
bán đồ nhi phế. Nếu
con người làm chuyện chi, mà chẳng có sự quyết định và thiếu chí phấn
đấu, thì công-trình dầu cực nhọc bao nhiêu, kết cuộc cũng trôi theo dòng
nước. Thiết
tưởng kẻ sĩ vào trường-học, cũng phải có chí phấn đấu, là siêng-năng
cần mẫn thức khuya dậy sớm, chuyên lo nấu sử xôi kinh thập niên đăng
quả, mới đậu cấp bằng tốt-nghiệp ra làm quan giúp nước trị dân. Nếu
kẻ sĩ vào trường mà không kiên tâm học hỏi, lại thiếu chí phấn đấu thì
chẳng khi nào lập nên danh phận mà còn trốn học bỏ trường, cam chịu
tiếng chê cười thấp hèn dốt nát. Người
làm ruộng cũng phải có chí phấn đấu, là chịu dầm mưa chải nắng, quanh
năm luống phận cần-cù khai mở đồn điền cho rộng lớn, nông-vụ tấn thời,
cày cấy cho kịp thì tiết mùa màng, đến ngày kết-quả mới có lúa nhiều, để
bảo tồn sự sống cho con người được ấm no đầy-đủ. Trái
lại, người nông-phu mà không có chí phấn đấu, thì cũng như kẻ thiếu nợ
làm ruộng giao cho chủ điền, chỉ có công làm mà không được ăn. Luận
qua người tu-hành đạo-đức phải có đủ chí khí tinh thần phấn đấu. Chịu
trải qua lắm nỗi truân-chuyên khảo-đảo lao tâm tiêu tứ vạn khổ thiên
tân, mới đạt thành phẩm-vị thiêng-liêng, cao thấp và tùy theo
công-nghiệp. Nếu
người tu mà không có chí phấn đấu, không thắng nổi lục-dục thất-tình,
lại thiếu đức-tin với Ðạo, thì sớm muộn sẽ cuốn tượng thôi tu, thất thệ
xa Thầy phản Ðạo. Nho-Giáo có câu: "Chấp đức bất hoàng, tín đạo bất đốc, yên năng duy-hữu, yên năng duy-vô". Nghĩa
là: người giữ Ðạo mà không hoằng-hóa ra rộng lớn, tin Ðạo không đốc
thực, thì dầu có nhiều người như vậy cũng chẳng lợi ích chi, mặc dầu
không có cũng chẳng hại chi. Kết-luận trong Ðạo Cao-Ðài: Từ
Chức-Sắc Thiên-Phong cho đến Chức-việc và Ðạo-hữu nam nữ, mà được tồn
tại vững bền tới ngày nay, trước mắt trông thấy cơ Ðạo tiến-triển như
thế. Ấy là nhờ có đủ nghị lực tinh-thần phấn đấu, đã từng gian lao khổ
hạnh dầu phải hi-sinh vì Ðạo cũng chẳng ngã lòng, thật là xứng đáng con
cái hiếu-hạnh của Ðức CHÍ-TÔN, và trọn bổn phận tín-đồ trung-thành với
Hội-Thánh. Vậy
từ đây anh em chúng ta cần phải nung nấu tinh-thần phấn đấu cho được
tăng tiến thêm nữa, và hiệp cả Thánh-tâm đoàn-kết với nhau, cho thành
một khối kiên cố vững bền, để chung lo tô điểm nền Chơn-giáo, cho được
rực-rỡ quang minh và lo kiến-thiết sự nghiệp nước nhà, cho sớm phục hồi
trật-tự an-ninh, dân-tộc đặng chung hưởng hòa-bình, ấy là ngày của chúng
ta đạt thành nguyện vọng, mới xứng đáng một kiếp sanh hữu duyên gặp
Ðạo. TINH-THẦN ÐOÀN-KẾT Từ xưa đến nay dân-tộc trong nước, hay là một xã-hội nào có tình đoàn-kết với nhau, thì thấy đủ năng lực tinh thần mạnh-mẽ. Theo lời của Bà Ðoàn-Thị-Ðiểm nói: Trong vũ-trụ hiệp hòa là mạnh, Phận đồ thơ phải gánh non sông. Anh em bạn tác vầy đông, Xô thành cũng ngã lấp sông cũng bằng. Ðức Thanh-Sơn Ðạo-Sĩ dạy hai câu: Vầy thuyền chi sợ cơn giông tố, Hiệp chủng còn hơn cuộc chiến tranh. Xem như thế thì sự đoàn-kết là một khối năng-lực dõng mãnh phi thường. Trải qua mấy năm trên mặt báo chương hằng thấy nêu lên những câu: Ðoàn-kết là sống, chia rẽ thì chết. Vậy
anh em đồng đạo và đồng-bào của chúng ta, nên để tâm chiêm nghiệm cho
đáo để thì thấy rõ trong một đoàn thể nào, mà có cảm tình thương yêu
liên-lạc với nhau, đồng tâm hiệp lực, kết dây thân ái cho được vững bền
thì mọi hành trình sẽ kết-quả trăm phần thắng lợi. Còn một việc dở tệ
hơn hết là: Người chung thờ một nền Tôn-giáo, một chủ-nghĩa với nhau mà
chẳng biết đoàn-kết thuận-hòa cùng nhau, lại cố tâm chia rẽ phân phe lập
phái thù nghịch kích-bác lẫn nhau để cho thiên-hạ trông vào cười chê
khinh bỉ, trong Tôn-giáo hay một đoàn thể nào, có những hành động trái
ngược như vậy thì kết-cuộc sẽ thấy tai hại chẳng nhỏ. Xem
gương trước như ba vị anh hùng Lưu, Quang, Trương hay Sài, Triệu,
Trịnh, chỉ có ba người hiệp đồng tâm đoàn kết với nhau, mà tạo thành
giang-san Hớn-thất cơ nghiệp Tống Triều ấy là gương hiệp-hào để nêu cao
cho đoàn hậu tấn. Riêng
về Ðạo Cao-Ðài, thì Ðức CHÍ-TÔN cùng các Ðấng Thiêng-Liêng, đã chỉ giáo
sự thương yêu liên-lạc đoàn-kết cùng nhau, thì sự lợi ích thế nào? Còn
chia rẽ thù nghịch lẫn nhau thì tội-lỗi ra sao đều có dạy rõ. Vậy
anh em chúng ta cần phải sưu-tầm những lời Thánh-Giáo để làm
phương-pháp thiệt hành cho đặng vẹn toàn phận sự môn-đệ của Ðức CHÍ-TÔN. BÁT-NƯƠNG DIÊU-TRÌ-CUNG chỉ giáo bốn câu thật là chí lý: Ong kiến là loài rất tế vi, Nó còn ưu-ái chẳng quên nghì. Người đời ví biết hai điều ấy, Thử hỏi ai mà lại dám khi. Xét
ra loài ong kiến là vật tế vi, còn biết đoàn-kết với nhau mà tạo thành
hang ổ có trật-tự phân minh và đủ năng lực đáng kiêng nể.... Làm
người có tánh linh hơn vạn-vật, nếu chẳng biết thương yêu đoàn-kết với
nhau, lại còn tranh đua cừu hận giết hại lẫn nhau thì cũng lấy làm tủi
hổ. Than
ôi, phong-hóa suy tồi, nhơn-luân điên đảo, lòng người quỉ quái ngậm
xương nòi giống, xé thịt lẫn nhau, hằng ngày xảy ra những tấn tuồng thảm
thương bi kịch xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, những người có tấm
lòng bác-ái từ-bi, cũng phải ngậm-ngùi khổ tâm than trách. Ðến
như cuộc thế-giới chiến-tranh, nhơn-sanh điêu linh đồ thán, ấy là tại
mất sự thương-yêu đoàn-kết với nhau, nên mới xảy ra tai nạn tương-tàn
tương-sát. Ngày
nào toàn thể nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy, mà biết đồng tâm hiệp lực
đoàn-kết với nhau thì thiên-hạ mới được hòa-bình an-cư lạc-nghiệp. THIỆN-ÁC PHÂN MINH Giải thích sở hành thiện, ác của con người, từ buổi sơ khai cho đến thời kỳ Hạ-Nguơn hiện tại. Kỳ Hạ-Nguơn cận mãn, cuộc tuần-huờn tái tạo qui cổ hầu sang. Ðức
CHÍ-TÔN hoằng khai Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ, gọi là cơ-quan cứu thế,
chủ-nghĩa giáo dân qui thiện, tức là xây chuyển tâm-lý của người phản
bổn huờn nguyên. Bởi con người đồng thọ nhứt điểm linh-quang của Tạo-hóa, ban cho một cái tánh lành. Có câu: "Nhơn chi sơ tánh bổn thiện". Người
mới sanh ban đầu thì có tánh trọn lành, biết giữ theo đường Thiên-lý,
làm việc chi cũng noi phép công-bình chánh trực, không nhiễm loạn một
điểm vạy tà "Tài thị không sắc thị không" gọi
là tâm hữu Thánh-đức. Ðời Thượng-cổ người người đồng giữ một tánh lành,
kêu là tánh tương cận. Trải qua đến Trung-Nguơn và Hạ-Nguơn nhơn tâm
thất chánh, con người chia ra làm hai hạng, quân-tử và tiểu-nhơn. Hạng
người quân-tử thì biết giữ bổn tâm chơn tánh, lương-tri, lương-năng vẫn
còn tự nhiên. Hạng tiểu-nhân thì buông lung tâm tánh, bỏ phép công-bình,
vật dục sở nhiễm khí bẩm sở câu, sa đắm hồng trần sắc, tài, tửu, khí
làm cho điểm linh-tâm mờ ám, không phân biệt đường chánh nẻo tà, gian
tham xảo trá trộm cướp bạo tàn, luân-lý cang-thường đều nghiêng đổ. Hạng
người ấy đã trở nên hung ác, toàn thể phải hẩm vào con đường tội lỗi,
chịu các điều hình phạt khổ sở truân chuyên, đó là sự lầm-lạc của con
người chẳng biết khử nhơn-dục tồn thiên-lý. Cho
nên người đời ngày nay, chỉ có hai phương-diện một là thiện, hai là ác.
Phân ra lành dữ đen trắng hai đường chánh tà đôi nẻo, để cho mọi người
tùy ý mà tuyển chọn mà thi-hành.... Ai xu hướng theo việc làm lành lánh dữ, dưỡng tánh tu tâm, lập công bồi đức cứu độ nhơn-sanh, thương người mến vật căng cô truất quả, kỉnh lão hoài ấu, tế nhơn chi cấp, cứu nhơn chi nguy, chú trọng về đạo-đức tinh-thần, thì đặng an-nhàn thung dung tự toại. Còn
ai thích hợp việc làm dữ, chuyên môn sát sanh hại mạng, xuy mao cầu tỳ,
đồ mưu hoạch kế, gian tham trộm cướp tàn bạo sanh linh, hại nhân ích kỷ
tán tận lương tâm, chẳng kiêng phép nước, không sợ luật Trời, cho kiếp
chết là mất, xem sự luân-hồi thưởng phạt là điều vô hiệu-quả, cho nên
việc ác nào cũng dám làm. Những hạng người làm dữ thì dầu có dõng lực
chấn thế, cường bạo đến bực nào, cũng còn quyền luật-pháp hữu hình, hay
là vô-vi trừng-trị, chẳng bao giờ thoát khỏi chốn lao-lung. Có câu: Nhược hữu nhơn tác bất thiện đắc hiển danh giả, nhân bất hại thiên tất tru chi. Bằng có người làm những việc chẳng lành, mà đặng giàu sang danh cao lộc cả, thì người chẳng hại, Trời ắt giết đó ... Ðáng
quí những người biết làm lành, vị chủ bất vị ngã, làm nhiều việc có lợi
ích chung cho nhơn-quần xã-hội, đặng hưởng mọi điều hạnh-phúc; trên
thuận với lòng Trời, dưới cộng hòa cùng đồng chủng quốc-dân, đáng mặt
râu mày ưu thời mẫn thế. Nếu
con người từ ấu chí trưởng, mà biết trau-giồi tâm đức, un-đúc tinh-thần
cho trở nên chí-thiện thì chẳng còn cái quyền hành thế lực nào, mà
cường bức chuyên trị cái quyền tự-do chí-thiện ấy đặng. Bởi nước nào cũng trọng dụng cảm thương yêu người làm lành. Có câu: Sở quốc vô dĩ vi bửu, dĩ thiện vi bửu dã. Nghĩa là: Bên nước Sở không lấy vật chi mà làm của báu trong nước, chỉ dùng người lành mà làm vật quí báu trong nước vậy. Nếu
nhơn-sanh toàn thể hiệp đồng nhứt tâm, chung thờ chủ-nghĩa nhân đạo,
thì tự nhiên đắc giải thoát. Bởi luật hình của đời, là để răn phạt những
kẻ gian tế, làm rối loạn quốc-dân, mất sự trị an trong nước. Chớ không
có khuôn luật nào để buộc tội lỗi những người đạo-đức hiền lương. Ngày
nào nhơn-sanh thật hành cho đặng trọn lành, thì đương nhiên là kế bảo
an quyền hành tự chủ. Bởi con người có nhứt điểm linh-tâm, đủ năng-lực
làm chủ xác thân, mà tại người chẳng kỉnh trọng linh-tâm nên mới mất
quyền vi-chủ. Nếu con người biết giác-ngộ, tầm phương lập quyền tự-chủ,
điều khiển cái thân thể của mình, thì chẳng còn ai đặng phép làm chủ mà
cai-trị mình nữa. Tóm lại, nhơn-sanh biết thức tỉnh tâm hồn ăn-năn sám
hối, cải cựu ác tùng tân lương, diệt giả phò chơn, khử tà qui chánh thì
quyền tự-do tự-chủ tự-lập sẽ huờn nguyên phản bổn, ấy là chí-thiện vậy. TRIẾT-LÝ THIỆN VÀ ÁC Thiện ác là thế nào? Thiện là lành ác là dữ. Chiếu theo luật công-bình thiêng-liêng của Tạo-hóa, thì lành thưởng dữ răn, lành siêu dữ đọa. Tùng thiện như đăng, tùng ác như băng. Làm theo việc lành thì thuộc thanh khí nhẹ nhàng tức nhiên thăng phù siêu thoát. Còn
làm theo điều dữ, thì thuộc về ác khí trọng trược, là phải hạ giáng
trầm luân. Cũng như thế gian hiện-hữu, người lành thì được thong thả
tự-do. Kẻ dữ phải chịu lao tù khổ sở. Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo. Lành
có lành trả, dữ có dữ trả. Thiện ác nhược vô báo, càn-khôn tất hữu tư.
Nếu làm lành mà không được hưởng phước còn làm dữ mà chẳng có tai họa,
thì Trời Ðất ắt có tư vị hay sao? Không, Trời Ðất chẳng bao giờ mà tư vị
ai tất cả. Bởi có câu: Thiên Ðịa chí công, Thần minh ám sát, bất vị tế hưởng nhi giáng phước, bất vị thất lễ nhi giáng họa. Nghĩa
là: Trời Ðất công-bình có các Ðấng Thần-minh soi xét, chẳng phải vì sự
cúng tế cầu khẩn mà ban phước, cũng chẳng vì thiếu lễ vật cúng kiếng mà
xuống cho tai họa. Chỉ có làm lành hay làm dữ mà định phần phước cùng
họa, báo ứng phân minh. Ðức Thái-Thượng nói: Thiện ác chi báo như ảnh tùy hình. Lành dữ đều có trả cũng như bóng theo hình.... Xem
về mặt hình-thức hữu vi, thì những hạng làm lành thấy chơn-chất
nhu-nhược, không bằng cái thể tướng của kẻ làm dữ, bởi kẻ dữ thì có oai
thế hùng cường mạnh bạo, ai xem thấy cũng đều kinh khủng. Mà kết cuộc
người làm lành vẫn được trường tồn, còn kẻ làm dữ thị tự nhiên
tiêu-diệt. Có câu: Hành
thiện chi nhơn như xuân viên chi thảo, bất kiến kỳ trưởng nhựt hữu sở
tăng, hành ác chi nhơn như ma đao chi thạch, bất kiến kỳ tổn nhựt hữu sở
khuy. Nghĩa là những người làm lành như cây cỏ mùa xuân, tuy là
khô-khan còi cọc chẳng thấy lớn, mà đến lúc mưa dào thì phát triển thạnh
mậu, nhành lá tươi tốt sum-sê. Còn những hạng người làm dữ thì xem sắc
sảo cũng như lưỡi dao bén mài trên đá, tuy là chẳng thấy hao mòn, mà tự
nhiên nó cùn tận. Chẳng khác cái lưỡi với răng. Cái lưỡi tuy mềm mà còn mãi mãi, cái răng rất cứng mà kết cuộc thì nó gãy hết không còn.... Chiếu
theo Nho-Giáo của Ðức Khổng-Tử lưu truyền thì mỗi bộ sách đều có dạy
việc thiện và ác, nhưng có chỗ thì nói sự báo ứng thậm tốc, về mặt
hình-thức, còn có chỗ thì nói quả báo bí ẩn vô-vi. Có câu: Sỡ
dĩ nhơn tâm khởi ư thiện, thiện tuy vị vi nhi kiết thần dĩ tùy chi,
hoặc tâm khởi ư ác, ác tuy vị vi nhi hung thần dĩ tùy chi.Nghĩa là:
lòng người muốn làm việc lành tuy là việc lành chưa làm mà đã có vị
kiết-thần chứng-minh rồi đó. Hoặc lòng người mống khởi làm việc dữ, mà
việc dữ ấy chưa làm, thì đã có vị hung-thần chép biên rồi đó.... Lại có câu: Nhứt nhựt hành thiện, phước tuy vị chí họa tự viễn hỉ, nhứt nhựt hành ác, họa tuy vị chí phước tự viễn hỉ. Một ngày làm lành phước tuy chưa đến, mà tai họa đã lánh xa, một ngày làm dữ họa tai tuy chưa đến mà phước đã lánh xa. Hai
bài sách trên đây, là nói sự báo ứng về cơ mầu-nhiệm. Mặc dầu con người
tin hay là không, đến khi kết cuộc thì sở hành thiện ác đều thấy rõ. Sự lành thưởng dữ răn của nhân-loại trên mặt địa-cầu nầy ví như: Trong
gia-đình có đặt quyền của một ông cha cai-quản, khi mà ông cha nhứt
định sẽ giao gia-nghiệp cho con gìn-giữ thì tự nhiên ông chọn lựa trong
bầy con, người nào trọn tâm hiếu-nghĩa với cha mẹ, hòa-thuận với anh em,
biết lo bồi-bổ mọi sự trong gia-đình, tánh tình hiền-lương đạo-đức, thì
ông cha mới giao sự sản đất vườn cho người ấy bảo hộ. Chớ không bao giờ
cha lại giao gia-nghiệp, chìa khóa tủ, bằng khoán đất cho một đứa con
bất hiếu ngổ nghịch bạo tàn, ấy là lẽ cố nhiên trong gia-đình như thế. Ðức
CHÍ-TÔN là Cha cả, có quyền năng chưởng-quản toàn thể nhơn-loại trên
mặt địa-cầu nầy, thì ông cha Thiêng-liêng muốn giao đại-nghiệp trong
thế-giới cho một sắc dân nào cầm quyền thống-nhứt về mặt vật-chất hay là
tinh-thần, thì Ðại Từ-Phụ cũng chọn lựa một dân-tộc nào, có trọn tâm
hiếu hạnh, biết tôn trọng thành kỉnh Ðấng Cha lành và có lòng đạo-đức
nghĩa-nhơn, biết giữ luật-pháp công-bình chánh trực thì Ðức Chí-Tôn mới
giao phó cả đại-nghiệp trong vũ-trụ nầy, cho dân-tộc ấy giữ-gìn
cai-quản. Chẳng khi nào Ðức Chí-Tôn lấy giao sản-nghiệp vĩ đại trong
hoàn-cầu cho một sắc dân bất nghĩa vô nhơn bạo tàn hung ác, mà được cầm
quyền bá chủ. Trái
lại dân-tộc ấy, đã không đặng hưởng hồng-ân của Ðấng Cha lành ban cho,
mà còn phải chịu luật Thiên-điều trừng trị, ấy là lẽ công-bình của Ðức
CHÍ-TÔN, lành thưởng dữ răn hai đường đặc biệt. THI ÐỨC CHÍ-TÔN Thiện ác đáo đầu đã biết chưa, Hiểu rồi cái ác cũng nên chừa. Theo làm âm-chất may bồi đấp, Thì sẽ trở về chỗ vị xưa. PHƯỚC VÀ TỘI Con
người sanh ra trên mặt thế nầy, hạn định bách tuế chi kỳ mà chưa từng
thấy ai được sống đủ đầy trăm tuổi, thiết tưởng trong thời kỳ
chiến-tranh loạn-lạc, thì bất luận già trẻ cũng có thể chết một cách
dễ-dàng. Vậy
thì lẽ phải của con người, nên làm những điều gì cho có phước đặng
hưởng sự vui-vẻ tương lai, chẳng nên làm việc chi phạm tội, rồi kết cuộc
phải ăn-năn hối hận, dầu có kêu than cũng đã muộn. Nên nhớ câu sách Nho dạy rằng: "Ô hô! Tam thốn khí tại thiên ban dụng, nhứt đáng vô thường vạn sự hưu". Than
ôi! Ba tấc hơi còn thì ngàn việc cần dùng tranh danh đoạt lợi, chẳng
may đến buổi vô-thường muôn việc đều thôi chỉ đem theo xuống chốn dạ đài
có hai món phước và tội. Trong Kinh Sám-Hối có câu: Người lương thiện ra vào thong-thả, Kẻ tội nhiều đày đọa rất minh. Sở hành của con người làm thế nào mà được phước, còn làm sao mà bị tội? Tổng luận từ trong gia-đình, xã-hội cho đến Tôn-giáo các khoản như sau: 1-
Trong gia-đình những người con mà được hưởng phước của cha mẹ ban cho,
thì người con ấy biết nghe lời cha mẹ dạy bảo, hằng lo trông nom bồi-bổ
mọi sự trong gia-đình, tức là người con chí hiếu. Còn đứa con mà bị tội,
là bất tùng giáo-hóa, không tuân lời cha mẹ khuyên răn, phóng tâm
du-đảng theo cờ bạc điếm-đàng, làm cho cha mẹ lắm nỗi thảm sầu, thiên-hạ
cười chê khinh bỉ, ấy là đứa con bất hiếu đã không được hưởng phần
hương hỏa, mà còn bị tội là con giặc trong gia-đình. 2-
Trong quốc-gia xã-hội có văn thần, võ tướng, những vị nào được hưởng
phước lộc của chánh-phủ ban cho, thì vị quan ấy là bậc trung thành, dám
hy-sinh với Tổ-quốc, gầy dựng cơ nghiệp nước nhà, tạo hạnh-phúc cho
giống nòi chung hưởng như thế mới có phước đức lưu tồn. Bổn
phận làm dân trong nước phải tuân theo luật-lệ của chánh-phủ, thật hành
y theo lịnh của nhà cầm quyền trong địa phương truyền dạy. Sưu đi thuế đóng cho tròn bổn-phận lương dân mới là có phước. Còn
làm dân mà bất tùng luật-pháp quốc-gia, trốn xâu lậu thuế, gian tham
trộm cướp không kiêng phép nước, thì phải chịu tội tù ấy là lẽ tự nhiên
cổ kim như thế. Luận
qua trong Tôn-giáo Cao-Ðài, từ hàng phẩm Chức-Sắc Thiên-Phong cho tới
Chức-việc và Ðạo-hữu nam nữ, những người tận tâm trung thành vì Ðạo,
thật hành y theo luật-pháp chơn-truyền, trọn tuân Thánh-giáo của Ðức
CHÍ-TÔN cùng các Ðấng Thiêng-Liêng chỉ dạy, biết trọng mạng lịnh của
Hội-Thánh ban hành, dầu gặp việc hi-sinh vì Ðạo cũng chẳng thối chí ngã
lòng, ấy là người trọn tâm phụng thờ Tôn-giáo. Trên
thuận với lòng Trời, dưới nhơn-sanh đồng tín nhiệm, thì sẽ được hưởng
phước của Ðức CHÍ-TÔN ban cho, đạt thành phẩm vị Thiêng-liêng siêu
thoát. Còn
những kẻ lợi dụng danh Ðạo, tạo hạnh-phúc riêng về phần cá-nhân, thì
mọi sự hành-động đều trái với luật-pháp khuôn viên của Ðạo, làm nhiều
việc bất nghĩa vô nhân, mưu sâu chước độc, phá Ðạo hại người, phản loạn
chơn-truyền bất tùng Thiên-lý, ấy là kẻ tội nhơn trong nền Tôn-giáo,
phải chịu luân-hồi chuyển kiếp trả quả tiền khiên, do theo lẽ công-bình
thưởng răn của Tạo-hóa. Muốn
biết phước và tội, thì xem cả hành-vi của con người, bất luận làm những
việc gì có lợi ích chung cho đồng loại, được thiên-hạ kính mến ca tụng,
do sở hành của mình mà mọi người được hưởng nhờ ấy là phước. Trái
lại, làm điều chi mà hại nhơn ích kỷ, sanh chúng bất bình, kêu ca thán
oán, bởi việc làm của mình mà thiên-hạ phải chịu thảm sầu đau khổ, ấy là
kẻ đại tội trên thế gian. Ngày
nào nhơn sanh biết tìm những việc có phước đức mà thật hành, tránh xa
mọi điều tội ác, được như vậy thì đời sẽ trở nên thuần-phong mỹ-tục, gia
vô bế hộ, lộ bất thập di nhà không đóng cửa, đường chẳng ai lượm của
rơi, thiên-hạ cọng hưởng thái-bình, tức là phục lại đời Thánh-đức. TU-HÀNH VÀ HỌC-HÀNH Tu-hành
và học-hành, ấy là cái thể với cái dụng. Tu gõ mỏ tụng kinh niệm Phật
là cái thể, cố tâm thật-hành theo lời của Phật dạy trong kinh mới là
sở-dụng. Học, đọc sách viết vở làm bài là cái thể, chỉ có thi hành theo lời dạy của Thánh-Hiền thì mới là hữu dụng. Có câu: "Tụng kinh giả minh Phật chi lý". Tụng
kinh là cần hiểu rõ giáo-lý của Phật, mà làm y theo mới có hiệu quả,
chớ không phải tụng kinh niệm Phật lần chuổi mà đắc đạo. Cũng như câu: "Nhứt cú Di-Ðà vô biệt niệm, bất lao đàng chỉ đáo Tây-Phương". Nghĩa là một câu lục tự Di-Ðà cứ niệm hoài, thì chẳng nhọc khảy móng tay cũng đến cảnh Tây-Phương. Câu
nói mới nghe qua thì sự hành đạo rất dễ, nhưng phải hiểu ý-nghĩa lục tự
Di-Ðà là thế nào? Và thật-hành theo cho châu đáo, thì mới mong mỏi về
đến cảnh Tây-Phương. Nói về Nho-Giáo thì có câu: "Tạo chúc cầu minh, độc thơ cầu lý, minh dĩ chiếu ám thất, lý dĩ chiếu nhơn tâm". Ðốt
đèn đuốc để cầu ánh sáng, còn đọc sách để kiếm hiểu chơn-lý, cái ánh
sáng để rọi trong nhà tối, ý-nghĩa trong sách để soi vào lòng người cho
được thông-minh. Ðức Khổng-Tử dạy rằng: "Vi thiện tối lạc, Ðạo lý tối đại". Làm
lành rất vui, đạo lý rất lớn, thì người có học ai cũng biết như vậy, mà
tại sao không chịu làm lành đặng hưởng sự vui-vẻ, để làm những điều tàn
bạo gian tham, mà phải bị các tội tình rồi ăn-năn thảm sầu hối hận. Ðã
biết Ðạo-lý là rất trọng mà chẳng chịu làm, để xu hướng theo điều bất
nghĩa vô nhơn, có phải tại người chỉ có tu có học bề ngoài, mà trong tâm
không thật hành nên mới ra nông nổi. Luận
về Ðạo Cao-Ðài thì toàn thể môn-đệ của Ðức CHÍ-TÔN, khi vào nơi
Bửu-Ðiện đãnh lễ, trước hết tay bắt ấn Tý để lên trán niệm: Nam-mô Phật,
Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng, ấy là Tam-qui: Qui-Y Phật, Qui-Y Pháp, Qui-Y
Tăng, thì ta phải noi theo cả hành-vi của Phật, từ-bi bác-ái, tế độ
chúng sanh. Lại nữa phải trọn tuân theo luật-pháp chơn-truyền của Ðạo và
làm thế nào cho tròn bổn phận tín-đồ trong nền Ðạo-giáo, mới xứng đáng
là môn-đệ của Ðức CHÍ-TÔN. Trong bài Khai Kinh của Ðức Lữ-Tổ, ta nên chủ tâm ghi nhớ một câu: "Trong Tam-giáo có lời khuyến dạy, Gốc bởi lòng làm phải làm lành". Ðã
trải qua ba mươi năm trường, nếu toàn Ðạo nam nữ mà cố tâm thi-hành cho
được vuông tròn một câu đó, thì hiện nay Hòa-Viện không còn phân xử
tội-tình của ai nữa. Bởi vì mỗi người đã biết làm phải làm lành, thì có
điều chi mà phạm vào luật Ðạo, được như vậy mới tròn bổn-phận người
tu-hành đạo-đức. TRIẾT-LÝ CHỮ TÂM Tâm là vi chủ tất cả châu thân của con người, nên hư phải trái đều do nơi tâm chủ trương sở định. Làm người biết chú trọng lương-tâm, tức là biết kỉnh thờ Trời. Có câu: "Tồn tâm dưỡng tánh sở dĩ chi sự Thiên", gìn-giữ bổn tâm chơn tánh cho chẳng phóng túng mà làm các điều sái quấy, mới gọi là biết thờ Trời vậy. Trời chẳng phải cao, mà cũng chẳng phải xa, chính thiệt ở nơi lòng người, lòng người có tín-ngưỡng thì Trời Ðất ắt biết đó. "Phi cao diệc phi viễn đô chỉ tại nhơn tâm, nhơn tâm sanh nhứt niệm Thiên Ðịa tất giai tri". Vậy con người chẳng nên khinh dễ bản tâm, mà phải đắc tội với Trời. Có câu: "Khi kỳ tâm tất tự khi kỳ Thiên, Thiên bất khả khi hồ". Người
tu-hành đắc đạo cùng chăng, là do nơi tâm biết giác ngộ thì được
siêu-thoát, con tâm mờ-hồ si-mê thì phải chịu luân-hồi chuyển kiếp. Có câu: "Vạn sự do tâm tạo". Muốn
việc chi thảy đều có kết-quả, là tại sự tư-tưởng của lương-tâm. Hễ tâm
tư-tưởng việc chánh đáng công-bình, thì thân thể đặng thung-dung nhàn
lạc, tức là Bồng-Ðảo Niết-Bàn tại thế. Còn tâm vọng động những điều
vô-nghĩa vô-nhân gian ác bạo tàn, thì thân thể phải chịu mọi điều thảm
khổ. Cho nên con người cần phải biết kỉnh trọng linh-tâm, nhứt là làm
những việc gì, trước khi khởi sự thực-hành ta nên trầm tỉnh xét suy cho
đáo để và phải nhớ hỏi lại chủ-nhơn Ông (tức là linh-tâm) thì mọi sự
phải trái thiệt hư tâm đều chỉ rõ.... Trong Tam-giáo: Nho, Thích, Ðạo dạy phép tịnh luyện cũng dùng chữ Tâm. Ðức
Khổng-Tử dạy tồn tâm, yếu-dụng hai chữ trung-thứ. Ðức Thích-Ca dạy minh
tâm, thiệt hành hai chữ từ-bi. Ðức Thái-Thượng dạy tu tâm, chú trọng
hai chữ cảm-ứng. Bởi sáu chữ: Trung-thứ, Từ-bi, Cảm-Ứng đều có trùng
tâm. Chữ tâm là: "Tam điểm như tinh tượng, hoành câu tợ nguyệt tà, phi mao tùng thủ đắc tố Phật giã do tha". Ba chấm như tượng hình sao, giòng ngang giống như trăng xiên, dỡ lông theo ấy đặng thành Phật cũng bởi tâm mà nên. "Dục tu kỳ thân giả, tiên chánh kỳ tâm". Muốn tu thân cho nên người hiền-lương đạo-đức, thì trước phải sửa lòng cho được ngay thẳng"Tương tâm tỉ tâm tiện thị Phật tâm". Ðem cái lòng của mình mà sánh với cái lòng của người ấy là cái lòng nhơn từ, cũng như lòng Phật vậy. Làm người mà biết bảo thủ lương-tâm, thì mới đủ tư-cách làm người cao thượng, đời trở nên tận thiện. Còn người tu-hành mà biết trau-giồi tâm đức cho được kiên cố vững bền, thì mới đặng thành-công đắc đạo. THÁNH-GIÁO ÐỨC CHÍ-TÔN Bạch-Ngọc từ xưa đã ngự rồi, Chẳng cần hạ giới vọng cao ngôi. Sang hèn trối kệ tâm là quí, Tâm ấy tòa sen của Lão ngồi. Tâm ấy là Trời chớ dễ tâm, Phải trau cho sạch điểm lương-tâm. Ngôi Trời tâm ấy là nơi dựa, Mình biết tâm, tâm mới biết tâm. Ðạo cao thâm, Ðạo cao thâm, Cao bất cao, thâm bất thâm. Cao khả xạ hề thâm khả điếu, Cao thâm vạn sự tại nhơn tâm. Tâm an mao ốc ổn, Tánh định thể căng hương. DIỆT TẬN PHÀM-TÂM Giáo-lý
của nhà Phật, cần yếu là diệt tận phàm tâm tham, sân, si. Người tu hành
đạo-đức mà còn tích trữ lòng tham, thì không khi nào siêu phàm đạt Ðạo. Bổn-phận
của người tu là xả thân cầu đạo, xả phú cầu bần, chưa từng thấy một vị
Phật nào mà còn tham lam của thế-gian. Người đời vì tham quyền lợi mà
giết hại lẫn nhau, gây thù kết oán cũng vì tham.... Sân
là giận hờn gây-gổ cải-cọ, tánh tình nhỏ mọn, thắc-mắc khó khăn,
độ-lượng hẹp hòi, thiếu lòng từ-bi bác-ái thì mất đức-hạnh người tu, tự
nhiên phải lánh xa cửa Phật. Con người vì tánh sân mà xảy ra lắm điều oan-nghiệt có khi dứt tình thân-ái nghĩa-nhơn cũng vì sân. Si
là mê-tín dị đoan, đụng đâu nghe đó, không phân biệt đường chánh lẽ tà,
nên phải lầm vào Bàn-môn Tả-đạo không thoát khỏi bến mê. Ðạo-đức tinh thần là phương thức tỉnh nhơn-sanh, người tu-hành mà không phát huệ-tâm, thì cũng khó mong thành chánh quả. Giáo-lý
của nhà Phật, thì người tu cần phải diệt tận phàm tâm, tức là trừ bỏ
tánh tham, sân, si, thì mới có thể siêu phàm đắc đạo. "Nhơn dục tịnh tận, Thiên-lý lưu hành". Lòng dục vọng của con người lặng-lẽ, thì đường Thiên-lý phát khởi quang minh. Con người giữ được Thánh-tâm cho thanh tịnh mới rõ biết đường Thiên-lý, thì phàm-tâm nhơn dục không nảy sanh. "Tịnh tịnh thường lạc cố viết Niết-Bàn". Thánh-tâm thanh tịnh an vui, thì gọi là cảnh Niết-Bàn Cực-Lạc. GIẢI-THÍCH TAM-CANG NGŨ-THƯỜNG Tam-Cang
Ngũ-Thường tức là điều-mục của Nho-giáo, lại là một vai tuồng đặc biệt
của nam nhân, cần phải thật hành cho vẹn toàn bổn-phận. Tam-Cang
là: Quân-thần, Phụ-tử, Phu-phụ. Vua tôi, cha con, chồng vợ; Chúa ở với
tôi có đạo-đức, thì tôi thờ chúa mới tận kỳ trung; Cha ở với con
từ-thiện, thì con thờ cha chí hiếu; Chồng giữ trọn nghĩa với vợ, thì vợ
phải thủ tiết thờ chồng ấy là Tam-cang tức là đời có Ðạo. Còn
đời thất chánh vô nhơn đạo, thì phong-hóa suy tồi nhân tâm bất cổ,
đạo-đức sai dời lòng người chẳng giống xưa. Luật Tam-cang chẳng giữ,
phép Ngũ-thường không noi, Vua vô đạo, tôi bất trung, cha chẳng lành con
chẳng thảo, chồng không giữ nghĩa với vợ, vợ lại thất tiết với chồng.
Anh em không thuận hòa, xóm riềng chẳng có tình thương-yêu liên-lạc cùng
nhau, luân-lý cang thường đều nghiêng đổ, tức là đời Hạ-nguơn cuối cùng
mạt kiếp. Ngũ-thường là: Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. 1- NHƠN là trắc ẩn chi tâm, ái vật chi lý, bất sát bất hại thể háo sanh chi đại-đức. Lấy lòng nhơn phóng xá cho loài vật, đặng phần sống sanh hóa như loài người, mới có lòng từ-bi bác-ái gọi là nhơn.... Chữ
nhơn là nhân đứng bằng chữ nhị, nhân là người, nhị là hai. Làm người
phải giữ cho đặng trọn hai phần, một là đối với Trời Ðất, thì phải noi
theo phép công-bình thiêng-liêng của Tạo-hóa, thuận tùng Thiên-lý. Hai
là đối với người, vật, thì phải giữ lòng đạo-đức, thương người mến vật,
trợ cấp phò nguy mới trọn lòng nhơn ... Theo Thánh-giáo của Ðức CHÍ-TÔN: Nhơn là đầu hết các hành tàng, Cũng bởi vì nhơn dân hóa quan. Dân trí có nhơn nhà nước trị, Nước nhà nhơn thiệt một cơ-quan. Tu nhơn thì thành Thần; niệm nhơn thì thành Thánh; hành nhơn thì thành Tiên; đắc nhơn thành Phật 2- NGHĨA là Nhứt thảo nhứt mộc, các hữu kỳ chủ, cả thảy mọi vật đều có chủ, cấm chẳng đặng gian tham ham muốn của người, mà làm cho thất nghĩa. Chữ
nghĩa là toàn ngã hiệp thành, chữ toàn là trọn, chữ ngã là ta, hiệp lại
thành chữ nghĩa, làm người giữ trọn cùng ta thì nên nghĩa, còn chẳng
trọn cùng ta là thất nghĩa. Muốn thật hành chữ nghĩa, thì phải noi theo
câu: "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhơn". Những
việc gì ta chẳng muốn ai làm cho ta chịu đau khổ thảm sầu thì ta không
nên đem các điều ấy mà làm cho người khác, mới là trọn nghĩa. Chữ
nghĩa bao hàm rất lớn thay. Như là nghĩa cha con, nghĩa thầy trò, nghĩa
chồng vợ, nghĩa anh em cốt nhục đồng-bào, nghĩa bằng hữu chi giao, ấy
là ngũ-luân chi đạo. Mọi sự đều phải có nghĩa, thì mới đủ tư-cách làm
người cao trọng. Chữ nhơn và chữ nghĩa thường đi đôi với nhau, cho nên trong Kinh Sám Hối có hai câu dạy rằng: Làm người nhơn-nghĩa xử xong, Rủi cho gặp lúc long-đong chẳng sờn. Làm người nhơn-nghĩa giữ tròn, Muôn năm bóng khuất tiếng còn bay xa. Xem
trong truyện sử đời nhà Châu, vua Võ điếu dân phạt Trụ, dĩ danh
Nhơn-Nghĩa, mà thâu phục cả tâm-lý của tám trăm chư-hầu qui thuận nhà
Châu cho đến các bậc Tiên-gia Xiển-giáo, cũng đồng ủng hộ Võ-Vương,
thuận thọ thiên-mạng diệt giả phò chơn, thì rõ biết cái năng lực danh-từ
nhơn-nghĩa tinh-vi hiệu quả là thế nào. Hiện
nay ta muốn biết trước những người cầm quyền bĩnh cán trong một nước
nào, có thể lập thành sự-nghiệp phục hưng quốc-thể được trường tồn, hay
là làm cho dân tâm ly tán, vận nước khuynh nguy, thì chỉ xem sở hành của
vị ấy có nhơn-nghĩa hay không mà quyết đoán ... 3- LỄ là yết dục dưỡng tinh, cấm
không đặng tà tình hoa nguyệt, làm cho hao tổn nguơn-tinh biến ra thất
lễ. Lễ là khuôn viên trọng thể của con người, làm người sở dĩ linh hơn
muôn vật, chỉ nhờ biết giữ lễ mà đặng phần tôn quí hơn. Nhơn sanh vạn-vật tối linh, lễ giả Thiên Ðịa chi tự giả. Qui
cũ chữ lễ là để chế sửa phong-tục, nhân quần xã-hội, quan hôn, tang tế,
Triều-đình Hương-đảng, cả thảy đều dùng lễ mà làm cho đời được tận
thiện tận mỹ. Lễ
là thiết yếu để giữ chừng mực cho mọi sự hành-vi của con người.... Con
người có thể sống cao thượng, phẩm giá được tôn quí là do nơi biết giữ
lễ, còn bị tội lỗi làm mất tư-cách con người, thiên-hạ chê bai khinh bỉ
nhục-nhã, là do nơi thất lễ. Chữ lễ rộng lớn bao la, xem bài giải-thích về Kinh Lễ mới rõ biết. 4- TRÍ là
tồn tâm dưỡng tánh, chẳng nên dùng tửu nhục ẩm thực quá độ, rối loạn
trí não tâm thần, hoại hư tạng-phủ biến ra người mất trí. Chữ
trí là tri trên bạch dưới, chữ tri là biết, chữ bạch là trắng, làm
người phải biết giữ lòng thanh bạch, chẳng cho nhiễm vào một điểm nhơ ố
vạy tà, mới gọi là hạng người trí-thức.... "Trí giã nhạo thủy". Bậc trí-thức tánh lưu thông như nước, mọi sự đều rõ biết, cư xử việc gì cũng được phân-minh, chẳng khi nào phạm vào luật-pháp. 5- Chữ TÍN là
bằng hữu chỉ ư tín, thỉ chung như nhứt trước sau như một, không thay
lòng đổi dạ, dầu hứa hẹn một việc nhỏ cũng chẳng sai lời, mới gọi là
người chơn-chất biết thủ tín. Chữ
TÍN là nhơn bằng chữ ngôn, nhơn là người ngôn là lời nói. Làm người mọi
điều thốt ra, phải giữ sự chơn thật thì mới đủ lòng tín-nhiệm của quần
chúng, nếu việc không mà nói có, việc có lại nói không, thì chẳng còn ai
tín-dụng. Người ở đời mà thất tín thì chẳng làm gì nên danh phận. Nên
có câu: "Nhơn vô tín như xa vô luân". Người mà không thành tín thì cũng như chiếc xe không có bánh, chẳng hề cử-động được nữa. Lại có câu: "Nhơn vô tín bất lập". Người không giữ tròn câu tín nghĩa thì chẳng lập nên danh-thể trường tồn, mà cũng không đứng vững trên mặt thế. Vấn-đề
Tam-cang Ngũ-thường, tức là nền tảng của Nho-Tông, thuộc về phần
Nhơn-đạo để giáo-hóa nhơn sanh cho đủ tư-cách làm người cao thượng, nếu
mỗi người thật hành y theo qui-điều kể trên cho châu đáo, thì đời sẽ
được mỹ-tục thuần-phong, tức là đời thái-bình an-cư lạc-nghiệp. Ðiều-mục
của Khổng-giáo cũng như qui-giới của Phật-giáo, Tiên-giáo. Ngũ-thường,
ngũ-giới, ngũ-hành kỳ trung hiệp đồng nhứt lý.... Ðệ-tử nhà Phật, nhà Tiên muốn đi tới Bồng-Ðảo, Niết-Bàn thì tức nhiên phải đi qua đò nhà Nho trước. Phật, Ðạo cũng như hành bộ khách, nền Nho ví tợ chiếc đò qua.... Ấy là: "Dục tu Tiên-đạo, tiên tu Nhơn-đạo, Nhơn-đạo bất tu, Tiên-đạo viễn hỉ".... Luận
về đạo-lý rất quảng đại bao la, không thể giải cho cùng tận, chỉ do
theo trình-độ của mọi người, hiểu biết đặng bao nhiêu lược biến ra để
làm phương-châm thật-hành cho được vẹn toàn, cũng là điều bổ ích. CHÁNH-TRỊ CỦA KHỔNG-GIÁO Chánh-trị của Khổng-giáo cốt yếu là dùng người có tài có đức để cầm quyền hành-chánh giúp nước trị dân. Ðức Khổng-Tử nói: "Nhơn-đạo chánh vi đại". Ðạo
của người thì chánh-trị là lớn, dùng đạo nhân làm gốc, lấy hiếu đễ lễ
nhạc làm căn-bản trong sự giáo-hóa, để lập thành nền đạo-đức,
nhơn-nghĩa, lấy chánh-trị mà làm công-dụng, thi thố cho ra đời trở nên
thuần-phong mỹ-tục. Cái
quan-niệm của Nho-giáo, về đường chánh-trị trong một nước thạnh, suy,
bĩ, thới đều do nơi người cầm quyền hành-chánh, người hành-chánh có đủ
tài đức, thì trong nước được thái-bình, dân an cư lạc nghiệp. Còn
người hành-chánh mà thiếu đạo-đức, nhơn-nghĩa thì nước phải loạn-lạc
suy tồi, nhơn tâm ly tán. Mặc dầu cái chánh-thể hay, mà người cầm quyền
dở thì không ích lợi cho nước, mà còn làm hại quốc-gia là khác. Ðức Khổng-Tử nói: "Văn Vũ chi chánh bố tại phương sách, kỳ nhân tồn tắc kỳ chánh cử, kỳ nhân vong tắc kỳ chánh tức". Nghĩa
là: Việc chánh-trị của vua Văn, vua Vũ bày ra ở trong sách, nếu có
người biết noi theo vua Văn, vua Vũ thì nền chánh-trị ấy được thi thố ra
rất hay, bằng chẳng có người noi theo phương sách của vua Văn, vua Vũ,
thì cái chánh-trị tự nhiên phải hư hỏng. Vậy nền chánh-trị trong nước
hay dở, cốt ở người cầm quyền hành-chánh. Những người cầm quyền bao giờ
cũng phải kính cẩn, hằng lo sửa mình cho ngay thẳng, lấy đạo-đức để cảm
hóa dân, và dùng người hiền cất lên làm quan để chung lo việc nước,
không ứng nạp những kẻ gian-tham ấy là nền chánh-trị của Khổng-giáo lập
thành trường tồn kiên cố. Chánh-trị
là việc trọng yếu của một nước, người có trách-nhậm cai trị dân, cần
phải lấy sự kinh-nghiệm mà làm phương-pháp thật hành, phải xem xét cái
Ðạo của Thánh-Hiền đời trước là thế nào, rồi mới quyết-định sửa đổi mọi
việc cho được hoàn-toàn. Bởi
các bậc Thánh-Hiền là Ðấng thông-minh, đã hiểu rõ về đường Thiên-lý, và
đạt được nhân sự, biết dùng điều nhơn-nghĩa, lễ, trí, mà làm phép trị
dân trị nước đặng hòa-bình. Những công việc của các bậc Thánh-Hiền tích
lũy đã lâu đời và kinh-nghiệm rất châu đáo, có ích lợi cho nước cho dân,
lại được thuận tùng Thiên-lý, phù hạp nhơn tâm, tức là nền chánh-trị
vững-vàng trường-cửu. Ðức Khổng-Tử dạy: Chánh-trị là làm mọi việc ngay thẳng lấy sự công-bình chánh-trực mà khiến người, thì ai dám làm những điều vạy tà sái quấy. Hễ người trên đã ngay thẳng thì kẻ dưới ắt phải noi theo. Có câu: "Kỳ thân chánh bất lịnh nhi hành, Kỳ thân bất chánh tuy lịnh bất tòng". Mình
làm việc ngay thẳng thì chẳng sai khiến người ta cũng làm, còn mình
không được ngay thẳng, thì dầu có bắt buộc cũng chẳng ai tuân theo. "Chánh kỷ dĩ giáo dân giả thuận, thích kỷ dĩ giáo nhân giả nghịch". Tự
lập mình cho chánh đáng, rồi mới dạy người ta là thuận chơn-lý, còn
mình dung-túng sự sái quấy của mình mà dạy người ta làm phải là trái
ngược. Luận
qua chánh-trị hà khắc bạo tàn, trong một nước dầu có oai-quyền thế lực
hùng cường, mà thiếu phần đạo-đức nhơn-nghĩa, thì chẳng bao giờ vững bền
tồn-tại. Mạnh-mẽ như Tần Thỉ-Hoàng, gồm thâu lục-quốc khanh sĩ phần
thơ, kết cuộc cũng vì thiếu đạo-đức, mà phải mất nước tiêu nhà hại mạng,
truyện sử còn ghi chép đến ngày nay, thiên-hạ phê bình vua Tần là bạo
ngược. Sở
Bá-Vương Hạng-Võ cũng oai-quyền ám-á sất sá chúng dân đều kinh khủng,
đến khi thế cùng lực tận phải đành tự-vẫn nơi Ô-Giang, là bởi không
thiệt hành nghĩa-nhơn đạo-đức. Ông Lưu-Bang tức là Hớn Bái-Công, thuận thọ thiên-mạng tuy là nhu-nhược "Dĩ đức phục nhơn, tam phân thiên-hạ đoạt kỳ nhị". Cơ nghiệp nhà Hớn thuộc về Hớn Bái-Công, ấy là nhu thắng cang nhược thắng cường, sách xưa chẳng lầm đó vậy. Tóm
lại đường lối chánh-trị của Khổng-giáo thì người cầm quyền trong nước,
phải dùng đạo-đức để cảm hóa chúng dân, phải giữ phép công-bình
chánh-trực, trong sự thưởng phạt cho được phân minh. Cần yếu là tạo
hạnh-phúc cho quốc-dân chung hưởng. Mọi sự hành-vi trên thuận tùng
Thiên-lý dưới phù hạp nhơn tâm, thì vạn sự tổng giai thành, ấy là nền
chánh-trị đại-đồng thế-giới. Ngày
nào những người cầm quyền trong các nước mà biết noi theo phương sách
của vua Văn, vua Vũ và thật hành theo nền chánh-trị của Khổng-giáo cho
ra chơn tướng, thì đời mới phục lại thái-bình, dân an-cư lạc-nghiệp, tức
là cơ bảo tồn qui thượng-cổ. CHÁNH-DANH ÐỊNH-PHẬN DĨ ÐỨC GIÁO DÂN Chánh-trị của Khổng-giáo là dùng đạo-đức để cảm hóa dân, lấy nhân chánh làm phép trị bình thiên-hạ.... Một hôm Thầy Tử-Lộ hỏi Ðức Phu-Tử: Giả như vua nước Vệ cậy Thầy sửa việc chánh-trị, thì Thầy định làm việc gì trước? Ðức Khổng Phu-Tử trả lời rằng: Tất giả chánh danh hồ, ắt phải sửa cái danh cho chánh vậy. Hễ cái danh được chánh thì ngôn thuận tự nhiên mọi sự đều nên. Ðức Khổng-Tử nói: Danh bất chánh tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc vạn sự bất thành.... Danh-từ
đã chánh thì làm việc gì đều có nghĩa lý rõ rệt, còn danh phận đã định
thì địa-vị của mỗi người, trên dưới có trật-tự quyền hành trách-nhậm
phân minh, trên lấy lễ mà sai khiến dưới, dưới lấy lòng trung mà thật
hành phận sự, thì trong nước lo chi không được thạnh-trị. Ðức Khổng-Tử nói: Vi chánh dĩ đức thí như Bắc-Thần cư kỳ sở, nhi chúng tinh củng chi. Làm việc chánh dùng lấy đức ví như sao Bắc-Thần đứng một chỗ, mà các vì sao khác đều qui chầu tất cả. Có câu: Quân-tử chi đức phong, tiểu-nhân chi đức thảo, thảo thượng chi phong tất yển. Cái
đức của người quân-tử cũng như gió, cái đức của kẻ tiểu-nhân cũng như
cỏ. Gió thổi trên cỏ thì cỏ phải lướt xuống mà theo. Ðây là nói những
bậc cầm quyền trị dân, phải giữ đạo-đức thì dân tự nhiên trọn tuân mạng
lịnh. Việc chánh-trị có ba điều trọng yếu: Thâu phục cho được phần đa số dân, Làm thế nào cho dân giàu có, Dạy dân cho biết lễ nghĩa.
Việc
trị dân trong nước là phải lo cho dân được no ấm, nước có đủ người tài
đức cầm quyền hành-chánh, làm cho toàn thể chúng dân trong nước đủ lòng
tin cậy, thì mới đủ năng-lực làm cho nước vững bền trường-cửu. Người
quân-tử làm việc chánh-trị phải có tài có đức cho xứng-đáng mới làm
được hữu ích cho quốc-gia, nếu tự lượng tài đức của mình không đủ, thì
chớ quá tham lam ... Ðức Khổng-Tử nói: Ðức bạc nhi vị tôn, trí tiểu nhi mưu đại, lực tiểu nhi nhiệm trọng, tiểu bất cập hỉ. Nghĩa là: Ðức mỏng mà ngôi cao, trí nhỏ mà làm việc lớn, sức yếu mà gánh việc nặng, thì ít khi thành công vậy. Mạnh-Tử viết: Tam-đại chi đắc thiên-hạ giả dĩ nhân, kỳ thất thiên-hạ giả dĩ bất nhân. Thầy
Mạnh-Tử nói: Ðời Tam-đại sở dĩ được thiên-hạ là vì làm điều nhân, sở dĩ
mất thiên-hạ là tại làm điều bất nhân. Tam-đại là: Nhà Hạ, nhà Thương,
nhà Châu. Vua Vũ, vua Thang, vua Văn, vua Võ làm điều nhân mà được
thiên-hạ. Vua Kiệt, vua Trụ, vua U, vua Lệ, làm điều bất nhân mà mất thiên-hạ. Xem như lời Thánh-Hiền đã nói, thì sự đắc thất là do sở-hành của người cầm quyền nhân và bất nhân. Những
người cầm quyền trong nước mà có đạo-đức nhơn-nghĩa đủ đầy, thật hành
theo đường chánh-trị của Khổng-giáo cho được hoàn-toàn, trên thuận tùng
thiên-lý, dưới phục đắc nhơn tâm, thì nước nhà sẽ được thái-bình, chúng
dân cọng hưởng mọi điều hạnh-phúc. CHÁNH-TRỊ TRONG NƯỚC cần phải có đạo-đức hay không? Từ
cổ chí kim nền chánh-trị trong một nước nào, những người cầm quyền trị
dân có đạo-đức, biết giữ luật công-bình thiêng-liêng của Tạo-hóa, thì
nước ấy mới được trường tồn, lê dân chung hưởng mọi điều hạnh-phúc. Nếu người cầm quyền chánh-trị, mà không lấy đạo-đức để cảm hóa dân, thì trong nước ắt phải suy tồi loạn-lạc. Có câu: Bang hữu đạo tắc trí, bang vô đạo tắc nguy. Nước
nhà có đạo-đức hiền lành, dân mới mở mang trí hóa cao thượng, còn nước
không có đạo, thì dân tranh cạnh hiếp đáp giết hại lẫn nhau, ắt phải
nguy vong đại biến. Nước có Ðạo dân an quốc thới, Nước không Ðạo dân tán quốc khuynh. Ðạo là hồn của nước vậy. Con
người có linh-hồn thì đặng khôn ngoan tỉnh táo trí-huệ minh-mẫn
cao-siêu, còn người mà không có linh-hồn thì ảnh hưởng lu-lờ, tinh-thần
tối-tăm bạc nhược.... Xem
trong truyện sử đời xưa, các bậc Ðế-Vương hằng lo sửa mình cho được
chơn-chánh, cố tạo hạnh-phúc cho quốc dân và do theo nguyện-vọng của dân
mà định vận-mạng chánh thể trong nước, hễ thuận lòng dân thì tự nhiên
phù-hạp với lòng Trời. Nhơn tâm tức thị Thiên tâm. Xem
như đời Thành-Thang, vua Ðế-Ất, thiệt hành đạo-đức nghĩa nhơn, bá tánh
được thái-bình an-cư lạc-nghiệp, ấy là nhờ ông Vua có lòng từ-bi
quảng-đại biết thương người mến vật, ố sát háo sanh. Ðến khi Ngài đi săn
bắn với bá quan, giăng lưới chỉ dùng có một mặt, thì đủ biết ông Vua
nhơn đức là thế nào? Vì vậy mới truyền ngôi đến sáu trăm năm. Trải
qua đời Ân-Thọ là Trụ-Vương, hành tàng vô đạo giết vợ chém con, sát hại
các quan trung-thần, lại ưa thích những kẻ gian tà sủng nịnh. Cho nên
cơ Trời dứt nghiệp Thành-Thang. Chúa Thánh Tây-Kỳ ra đời hưng Châu diệt
Trụ. Bởi nhà Thương chánh-trị bạo tàn, vì thiếu phần đạo-đức mà phải mất
nước tiêu nhà hại mạng. Châu
Võ-Vương thuận tùng Thiên-lý, dĩ đức phục nhơn, gồm thâu bá tánh, lập
thành quốc-thể, lập hạnh-phúc cho lương dân, ấy là nền chánh-trị đủ đầy
đạo nghĩa. Cho nên nhà Châu lưu truyền đến tám trăm năm, thật là
cơ-nghiệp vững bền trường-cửu. Có câu: Quốc chánh thiên tâm thuận, quan thanh dân tự an. Nghĩa
là người cầm quyền trong nước, giữ được chánh tâm thì mới thuận với
lòng Trời, còn làm quan biết giá-trị thanh liêm, thì dân chúng được
an-nhàn tự-toại. Trái
lại, người cầm quyền trị dân, không giữ phép công-bình, chẳng noi theo
đường đạo-đức, lại dùng quyền chuyên-chế hà khắc lương dân, gian tham tư
lợi chẳng kiêng luật Thiên-điều, làm cho lòng dân thán oán, thì vận
mạng trong nước ắt phải nguy vong. Ðức Khổng-Tử dạy chư môn-đệ của Ngài ghi nhớ một câu rằng: Hà chánh mãnh ư hổ. Chúng dân đã ghê sợ cái chánh-trị hà khắc còn hơn là sợ cọp.... Một cường-quốc có thế lực quyền hành, mà không lấy đạo-đức làm nền tảng, thì nước ấy sẽ bị tiêu-diệt. Còn
nước nào muốn cho nền móng chánh-trị được kiên cố vững-vàng thì người
cầm quyền trong nước phải noi theo đường đạo-đức nghĩa nhơn, thì tự
nhiên nước nhà mới được thạnh hành trường tồn vĩnh-viễn. CHÁNH-TRỊ KHỔNG-GIÁO cần phải có đạo-đức Từ
xưa đến nay, nước nhà được thạnh-trị, hay là loạn-lạc suy tồi, đều do
nơi người cầm quyền hành-chánh. Người cầm quyền biết giữ theo đường ngay
lẽ phải, thuận thọ Thiên-mạng, biết lấy nhơn-nghĩa để cảm hóa dân, thì
nước nhà được thái-bình, chúng dân đặng âu-ca lạc-nghiệp. Còn
người cầm quyền không noi theo đường đạo-đức mà sửa trị, lại chẳng biết
thương dân, thì nước nhà ắt phải chinh nghiêng rối loạn. Bởi
dân tâm tức là Thiên-ý, làm trái lòng dân ấy là nghịch mạng Trời, mà hễ
nghịch mạng Trời thì tự nhiên sẽ đi vào lối diệt vong đó vậy. Trong Kinh Thơ có câu rằng: "Hoàng thiên bất thân, duy đức thị phụ, dân tâm vô thường, duy huệ chi hoài". "Vi thiện bất đồng, đồng qui vu trị, vi ác bất đồng, đồng qui vu loạn". Nghĩa
là: Trời chẳng thân riêng ai, chỉ người có đức thì được Trời trợ giúp,
lòng dân không có thường, chỉ có người thi ân-huệ thì được dân cảm mến. Làm
việc lành chẳng giống nhau, nhưng kết-quả là bình trị, làm việc dữ cũng
không giống nhau, nhưng kết-quả là đảo-điên loạn-lạc. Ðức
Khổng-Tử cho đạo nhân là gốc của việc chánh-trị, cũng như đất tốt là
gốc của sự sanh-sản ra cây trái thạnh mậu tốt tươi. Vì vậy người
hành-chánh dầu có tài mà thiếu đạo-đức, thì cũng không định quốc an dân
cho được. Huống
chi người cầm quyền bỉnh cán trong một nước, dầu là Vua nước quân-chủ,
hay là Tổng-Thống nước Cộng-hòa dân-chủ, cũng đều có ảnh-hưởng chịu mạng
Trời, ấy là thể thiên hành hóa. Cái quyền hành ấy có quan-hệ đến
vận-mạng của một xã-hội, một dân-tộc, vì vậy nên trị dân phải biết
thương dân và do theo lòng dân mà thật-hành cho tròn sứ mạng. Lại
nữa, những người đem thân ra phụng-sự cho quốc-gia, thì thân của mình
là thuộc về của quốc-gia, và của chung của thiên-hạ, cái thân ấy không
còn riêng về gia-đình nữa, vậy phải trọng sứ-mạng của mình là
thiêng-liêng, coi thân của mình nhẹ hơn hạnh-phúc của nhơn-sanh, chính
là con đường dìu người hành-chánh đi đến mức thành-công. Ðược như vậy
thì người cầm quyền đối với dân cũng như cha đối với con. Phải lo tu
nhơn tích đức cho dân được an-cư, dạy dân cho được khôn ngoan sáng-suốt,
y như cha lo cho con vậy. Trái
lại, làm những điều của dân ghét bỏ, và ghét những điều của dân yêu
chuộng, hoặc là ham muốn xa-hoa, lo cho thân của mình được giàu sang vui
sướng, ngoài ra mặc kệ dân khốn-khổ lầm than, ấy là hành-động trái với
lòng dân, thì người cầm quyền dầu có tài ba lỗi-lạc cũng không tránh
khỏi đi đến con đường thất bại. Lẽ
dĩ-nhiên là trị dân mà chẳng làm cho dân mến yêu tin cậy, hành-động
trái ngược khiến cho trăm họ đổi lòng tùng phục mà trở lại oán ghét
nghịch thù, thì người cầm quyền sẽ đem tai họa cho mình và cho nước. Những
Ðấng Minh-Quân đời trước, thương dân như con đỏ, hằng chịu lao tâm tiêu
tứ, để lo gầy tạo hạnh-phúc cho dân. Người trong nước không kể sang
hèn, hễ ai có tài có đức, thì đưọc cất nhắc lên làm quan giúp nước trị
dân. Vua với quan đều lấy sự ích nước lợi dân mà làm chủ đích. Trên
thân dưới như tay chơn đối với lòng dạ, dưới thân trên như con trẻ đối
với mẹ lành, vì sự thương yêu lẫn nhau mà mối nước được vững bền, muôn
dân âu-ca lạc-nghiệp. Kết-luận,
người cầm quyền chánh-trị cần phải có đạo-đức, nếu không thật-hành theo
đạo-đức, thì tức nhiên là chánh-trị hà khắc bạo tàn, làm cho lòng dân
ly tán vận nước khuynh nguy, dầu có lập hình-pháp nghiêm trị thế nào,
cũng không khắc phục được lòng dân. Ðời
nay văn-minh tấn bộ, nền văn-hóa mới lan tràn trong nước, dường như phe
tân-học quá thuyên về đường vật-chất, nên phần nhiều người cầm giềng
mối chánh-trị, chỉ biết quyền-hành chớ không muốn biết đến nghĩa-nhơn
đạo-đức. Giữa
xã-hội người ta thấy bao nhiêu sự bất-bình bực tức, mạnh lấn yếu, chúng
hiếp cô, vì lẽ thế lực kim tiền được tôn thờ sùng kính. Cái khổ của dân vì đó càng ngày chồng-chất thêm mãi, mà chẳng biết kêu ca vào đâu, phải cam chịu phận thiệt-thòi mãn kiếp. Cái thuyết cao-siêu của Ðức Mạnh-Tử là: "Dân vi quí, xã-tắc thứ chi, quân vi khinh". Ngày nào mà thuyết ấy được thật-hành trên mặt địa-cầu nầy, thì thế-giới sẽ đặng hòa-bình đại-đồng nhơn-loại. LUẬT THƯƠNG-YÊU, QUYỀN CÔNG-CHÁNH Ðức
Chí-Tôn đã định luật thương-yêu và quyền công-chánh tại mặt thế nầy, để
cho những người nắm luật cai-trị chúng dân, phải có lòng thương-yêu
giáo-hóa chúng dân làm lành lánh dữ, như vậy trong nước mới được
thái-bình. Còn người có quyền phải giữ phép công-bình chánh-trực trong sự thưởng phạt phải cho được thông-minh (*1), thì đời mới đặng lạc-nghiệp âu ca, chúng dân cọng hưởng huệ-ân hạnh-phúc. Trái lại, người hành luật thì giam hãm chúng sanh trong vòng thống khổ, kẻ cầm quyền lại hà khắc con dân thảm sầu ta thán. Vì
cớ mới nảy sanh phong-trào cách mạng, gây nên đời loạn-lạc chiến tranh,
ấy là tại những người cầm-quyền, hành luật không tùng thiên-lý, chẳng
thuận nhơn tâm, nên mới có tai nạn đao binh lan tràn khắp xứ. Ngày
nào luật thương-yêu và quyền công-chánh được thật hành châu đáo, thì
đời sẽ trở lại hòa-bình, phục hồi Nghiêu thiên Thuấn nhựt. (Bài nầy Ðức Hộ-Pháp giảng) GIÁ-TRỊ CỦA CON NGƯỜI Con
người sanh ra tại thế nầy, từ ngôi Thiên-tử xuống tới hàng thứ-dân,
giá-trị của mỗi người được cao trọng, hay là thấp hèn, là do nơi sở-hành
của người đào tạo. Hễ làm việc có đạo-đức nhơn nghĩa, biết giữ lẽ
công-bình, trên thuận tùng thiên-lý, dưới được lòng tín-nhiệm của chúng
dân, thì giá-trị đặng tôn-nghiêm cao trọng. Còn
làm những điều gì mà hại nhân ích-kỷ, độc ác gian tham lương-tâm tán
tận, vụ lợi bỏ nghĩa, thì danh thể giá-trị của con người thấp hèn đê
tiện. Ðời
xưa vua Nghiêu, vua Thuấn trị bình thiên-hạ là nhờ giữ chánh tâm, thiệt
hành bác-ái, khoan-dung đại độ, thưởng phạt phân minh, cố tạo hạnh-phúc
cho dân cọng hưởng. Nghiêu
Thuấn không lập luật hình, Võ Thang chẳng tạo khám đường ngục thất, đời
vô vi nhi trị thiên-hạ thái-bình do sở hành đạo-đức nghĩa nhơn, mà
giá-trị của vua Nghiêu, vua Thuấn sánh cùng Trời Ðất.... Còn
vua Kiệt, vua Trụ cũng thời làm vua trong một nước, vì bởi hành tàng
bạo ngược sát hại trung lương, làm cho nhân tâm ly tán, không kiêng luật
Thiên-điều, cho nên thiên-hạ phê-bình là hôn quân vô đạo, giá-trị thấp
hèn cả chư-hầu đều khinh bỉ. Luận
qua các bậc văn thần võ tướng đời xưa, tên tuổi vẫn còn nêu vào truyện
sử, thì ai cũng được biết rõ: Quan-Công Hầu, Nhạc-Phi, Bàng-Cử, Ðịch
Vương-thân, Tiết Hiền-thần cùng các bậc tiền-vãng trong nước Việt-Nam
giá-trị cao thượng thế nào? Chẳng cần biện-bạch mà người đời hoài-cảm ca
tụng thương tiếc vô cùng. Còn như Bàng-Hồng, Tôn-Tú, Tần-Cối, Trương-Huờn giá-trị đê tiện ra sao, chẳng luận minh tả thì nhơn-sanh cũng chán biết đủ điều. Trong
buổi hiện tại nầy, những mày trung mặt nịnh đã biểu lộ trên sân khấu
của đời. Người thì tận tâm trung thành hy-sanh vì Tổ-quốc, kẻ thì gian
xảo bán nước hại dân, trải qua thời kỳ lệ-thuộc trên mười (*1) năm,
người chánh kẻ tà, lành dữ trắng đen, Việt-sử cũng còn ghi chép rõ, để
cho đoàn hậu-tấn so-sánh điều hay lẽ phải mà làm phương-châm tự lập thể
thống giá-trị của mỗi người, cho đặng tiến-hóa lên cao thượng, mới xứng
đáng một kiếp sanh trong vũ-trụ. Trong
nền Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ của Ðức Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế, hoằng khai
trong nước Việt-Nam, trải qua trên bốn mươi năm, Chức-sắc hành đạo
giá-trị Thánh-danh cao thấp, cũng do nơi mỗi vị đào tạo, để lưu truyền
cho đàn hậu-tấn khen hay chê. TRÍCH LỤC NHO-GIÁO YẾU-ÐIỂM TRONG NGŨ-KINH Ngũ-Kinh là: Kinh Thi, Kinh Thơ, Kinh Diệc, Kinh Lễ, Kinh Xuân-Thu. Mỗi
một bộ kinh Ðức Thánh dạy, cốt yếu trong một câu hay là một chữ, ta có
thể do theo đó mà làm phương-pháp thật hành, thì cũng như học suốt thông
một bộ sách vậy. 1- Kinh Thi cốt yếu có một câu: "Thi, Tam bá thiên nhứt ngôn dĩ tế chi, viết tư vô tà". Nghĩa là trong Kinh Thi có ba trăm bài, gồm lại một điều chủ tâm đừng suy nghĩ những sự vạy tà sái quấy.... 2- Kinh Thơ có
58 thiên cốt yếu là tại hai chữ chấp-trung, nghĩa là ta làm việc chi từ
lúc khởi đầu cho đến khi kết cuộc, phải giữ một mực thường, thỉ chung
như nhứt chẳng vì sự khó khăn mà thối chí ngã lòng, bán đồ nhi phế mọi
việc làm cần phải giữ bậc trung-dung, không thái quá mà cũng không bất
cập, thì sớm muộn sẽ được thành công. Ðức Khổng-Tử: "Ngô Ðạo nhứt dĩ quán chi". Ðạo của ta từ đầu suốt đến đuôi chỉ có một là thuận thiên-lý. 3- Kinh Diệc có
348 hào cần yếu là một chữ thời, thời là tùy thời mà thuận theo, hay là
chống lại.... và do theo thời thế biến đổi cho phù-hạp thiên-lý, cùng
thuận nhân tâm. 4- Kinh Lễ có 48 thiên chỉ dùng ba chữ: "Vô Bất Kỉnh". Bởi
lễ là chủ ư kỉnh, dầu ngồi trong nhà kín hay là ở dưới hang sâu, lúc
nào cũng xem như có các Ðấng Thiêng-Liêng ở trên đầu, đã thấy rõ mọi sự
hành-động của mỗi người lành hay dữ. Cho nên ta phải thành kỉnh luôn
luôn, ấy là người biết giữ Lễ. Ðức Khổng-Tử nói: Lễ giả thiên địa chi tự giả, nhạc giả thiên địa chi hòa giả. Lễ là trật-tự của Trời Ðất, còn nhạc là sự điều hòa của Trời Ðất.... 5- Kinh Xuân-Thu chép việc 242 năm, tóm lại là: khuyến thiện, răn ác. Ðức Khổng-Tử tác thành Kinh Xuân-Thu biên chép việc đời hai trăm bốn mươi hai năm để lưu-truyền hậu thế. Những điều lành sự dữ của các nhà vua, cùng các bậc chư-hầu, khanh-tể, chỉ rõ hai điều: thưởng phạt, khen chê. "Nhứt tự chi bao vinh ư hoa cổn, Nhứt tự chi biếm nhục ư phủ việt". Một lời khen thì vinh hơn cái áo hoa cổn của vua ban cho, còn một tiếng chê nhục hơn bị tội xử bằng rìu búa. Kinh Xuân-Thu, cốt-yếu là để dạy đời, khen đời và chê đời. Ðạo
Cao-Ðài gọi là Nho-Tông chuyển thế, thì cần phải thật hành theo giáo-lý
của Ðức Khổng-Tử trong Ngũ-Kinh. Nếu mỗi người mà giữ đặng các điều
cần-thiết kể trên cho được vẹn toàn, thì danh-thể giá-trị sẽ tiến lên
cao thượng, để làm gương soi-sáng cho bước đường của đàn hậu-tấn noi
theo. Ðạo
Cao-Ðài hoằng khai từ năm Bính-Dần cho đến ngày nay, trong hàng
Chức-Sắc, Chức-việc và Ðạo-hữu nam nữ, cũng có nhiều người trọn tâm
trung thành với Hội-Thánh, dám chịu khổ-hạnh hy-sinh vì Ðạo. Mà cũng có
kẻ lợi dụng danh Ðạo, tạo gia-nghiệp riêng về phần cá-nhân, bất tùng
luật-pháp, phản loạn chơn-truyền, thất thệ nghịch Thầy phá Ðạo. Hai
lẽ chánh tà, trung nịnh, vẫn còn chép ghi vào Sử-Ðạo để lưu-truyền thất
ức dư niên. Cũng như bộ sách Xuân-Thu của Ðức Khổng-Tử lưu-truyền từ cổ
chí kim. Thì
những người đạo-đức nhơn-nghĩa, chánh-trực công-bình, vì nước vì dân,
vì Ðạo làm hữu-ích chung cho nhơn-loại được hưởng nhờ, để làm gương cho
đời hậu tấn, noi bước hành trình, và tránh những thói mị tà gian tham
xảo-trá đặng khỏi mang tại họa tội tình hành-phạt vi xủ vạn niên. Trong
Kinh Xuân-Thu phân biệt trắng đen, chánh tà, phước họa đều rõ lý, để
cho con người chọn lựa mà thật hành, làm thế nào cho được danh thơm
tiếng tốt lưu truyền, vạn đại thiên-thu mới xứng đáng một kiếp sanh hữu
duyên gặp Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ. NHƠN-NGHĨA ÐẠO-ÐỨC Thầy Mạnh-Tử yếu dụng hai chữ nhơn-nghĩa không nói đến việc lợi, Ngài đi tới nước nào cũng giảng đạo-đức, thuyết nhơn-nghĩa. Ngài nói: Tiên nghĩa hậu lợi là chánh, còn vụ lợi bỏ nghĩa ấy là mị tà. "Nhơn, nhân chi an trạch dã, Nghĩa, nhân chi chánh lộ dã". Ðiều nhơn là cái nhà yên ổn của người ta vậy, điều nghĩa là cái đường chánh đại quang-minh của người ta vậy. "Khoáng an trạch nhi phất cư, xá chánh lộ nhi bất do ai tai". Ðể không cái nhà yên ổn, mà chẳng ở, bỏ cái đường chánh mà không noi theo, khá thương thay! Hai chữ Nhơn-Nghĩa đại-ý: Ngày nào nhơn-sanh hiệp nhứt tâm thật hành nhơn-nghĩa cho được hoàn toàn, thì mới thấy tinh-vi hiệu quả. ÐẠO-ÐỨCÐạo lẽ phải nhứt định, ấy là một con đường cái người ta phải do theo đó mà đi, Ðạo giả đại lộ dã. Ðức là làm theo lẽ phải mà đặng vừa lòng thích ý tất cả mọi người. Ðạo-đức là căn bản của con người. Do theo sách Trung-Dung nói chữ Ðạo là: Thiên mạng chi vị tánh, suất tánh chi vị đạo, tùng đạo chi vị giáo, đạo giả dã bất khả tu du lỵ giả, lỵ giả phi đạo dã. Nghĩa
là: Trời ban cho con người một cái tánh lành, đem sự lành thi thố ra
gọi là đạo, do theo đạo-lý mà dạy người, gọi là giáo-hóa nhơn-sanh. Ðạo
chẳng rời trong tâm giây phút nào, nếu để cho đạo lìa xa lòng người,
thì chẳng phải đạo mà cũng chẳng nên người. Làm việc gì thuận thiên-lý
là có đạo, còn trái với thiên-lý là phi đạo dã. Ðức
là nguồn cội của con người, có đức dày thì bền vững trường tồn, nếu
thất đức thì chinh nghiêng xiêu đổ. Ví như cây có rễ nhiều thì đứng vững
chẳng sợ gió giông, còn cây không rễ lúc bảo tố tự nhiên phải trốc gốc. Lập
đức là thi ân tế chúng cứu độ sinh-linh, làm việc gì có lợi-ích chung
cho nhân-quần xã-hội, thiên-hạ được vui mừng là có đức. Còn làm việc chi
lợi riêng cho mình, mà hại người, sanh chúng bất bình kêu ca thán-oán,
ấy là điều tổn đức bất nhơn vô đạo. Ðạo-đức là sở hành của người quân-tử, nếu không có chí quân-tử, thì chẳng thế nào vẹn toàn đạo-đức. ÐẠI-ÐẠO TAM-KỲ PHỔ-ÐỘ ÐẠI-ÐẠO là nền Ðạo lớn Trời khai kỳ thứ ba, phô bày chơn-lý độ rỗi nhơn-sanh khắp cả thế-giới. Ðại-Ðạo là một con đường "Thiên-Linh" để
cho các phẩm chơn hồn nguyên-nhân hạ trần, do theo đó mà phục hồi
cựu-vị, và các bậc hóa-nhân cũng noi theo con đường ấy mà tiến lên đạt
thành địa-vị cao thấp là tùy nơi công-nghiệp. Luận về thường thức, Ðại-Ðạo là: "Ðại lộ giả nhân sở cọng do". Ðạo là con đường rộng lớn, để cho mỗi người đều đi trên con đường ấy mà tiến-hóa lên cao thượng. TAM-KỲ PHỔ-ÐỘ Nhứt-Kỳ Phổ-Ðộ: Tý Hội Thượng-Nguơn Khai Ðạo. Nhị-Kỳ Phổ-Ðộ: Sửu Hội Trung-Nguơn Khai Ðạo. Tam-Kỳ Phổ-Ðộ: Dần Hội Hạ-Nguơn Khai Ðạo. Ðạo Cao-Ðài hoằng-khai năm Bính Dần 1926, gọi là Hạ-Nguơn tái tạo, phục hồi Thượng-cổ. Nhứt-Kỳ và Nhị-Kỳ Phổ-Ðộ hồi đời nào? Mà ngày nay Ðạo Cao-Ðài xưng rằng Tam-Kỳ Phổ-Ðộ? ■ Nhứt-Kỳ
Phổ-Ðộ từ đời Bàn-Cổ, Văn-Tuyên Ðế-Quân lập Ðạo Thánh tại Trung-quốc.
Qua đời Ngũ-Ðế Ðức Thái-Thượng Ðạo-Tổ lập Tiên-giáo tại Trung-Nguyên. Ðức Nhiên-Ðăng Cổ-Phật lập Phật-Giáo cũng tại Trung-Nguyên. ■ Trải
qua tới Nhị-Kỳ Phổ-Ðộ, Ðức Lão-Tử lập Tiên-giáo tại Trung-Hoa,
giáng-sanh vào đời nhà Thương, vua Võ Ðinh năm Dậu, ngày 15 tháng 2. Ðức
Thích-Ca lập Phật-Giáo tại Ấn-Ðộ Tây Thiên-Trước, giáng sanh vào đời
nhà Châu, vua Chiêu-Vương, năm thứ 24 tháng 4 ngày mồng 8. Ðức Khổng-Phu-Tử lập Nho-Giáo tại Trung-Huê, giáng sanh vào đời nhà Châu, vua Linh-Vương, năm Kỷ-Dậu, ngày 15 tháng 9. Còn
Gia-Tô Giáo-Chủ cũng mở Ðạo Thánh bên Thái-Tây, ấy là Nhị-Kỳ Phổ-Ðộ.
Cũng lậpTam-giáo Nho, Thích, Ðạo dạy nhơn-sanh làm phải làm lành tu tâm
dưỡng tánh. ■ Nay
đến buổi Hạ-Nguơn hầu mãn, Ðức CHÍ-TÔN dùng huyền diệu cơ-bút khai Ðạo
Cao-Ðài, chuyển Tam-Giáo qui nguyên, Ngũ-Chi phục nhứt cho theo lẽ
tuần-huờn của Tạo-hóa, gọi là Tam-Kỳ Phổ-Ðộ. Ðức CHÍ-TÔN tuyển chọn 3 vị
Phật, Tiên, Thánh thay mặt cho Tam-giáo, cầm quyền Tam-Trấn Oai-Nghiêm: Thường cư Nam-hải Quan-Âm Như-Lai. Lý Ðại Tiên-Trưởng kiêm Giáo-Tông Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ. Hiệp-Thiên Ðại-Ðế Quan-Thánh Ðế-Quân.
Bởi
ba Ðấng Phật, Tiên, Thánh trong thời-kỳ cận đại mà toàn thể nhơn-sanh
đều rõ biết hạnh-đức từ-bi quảng đại Linh-Quan Thế-Âm Bồ-Tát cứu khổ cứu
nạn. Ðức Lý Ðại-Tiên cầm quyền thưởng phạt phân minh, thừa hành mạng
lịnh Ðức CHÍ-TÔN xây cơ chuyển thế. Ðức
Quan-Thánh Ðế-Quân, trung cang nghĩa khí, chánh-trực công-bình, Ngài
chú trọng bộ Xuân-Thu nối chí của Ðức Văn-Tuyên Khổng-Thánh. Ba vị kể trên tài đức hoàn toàn, đủ phương-diện độ đời đáng roi gương cho thiện nam tín nữ. Ðức
CHÍ-TÔN hoằng-khai Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ, là một nền Tôn-giáo trong kỳ
thứ ba, phổ truyền chánh-pháp độ tận 92 ức nguyên-nhân phục hồi cựu-vị,
và cứu vớt chúng sanh thoát khỏi chốn trầm luân khổ hải, lập đời
minh-đức tân-dân chỉ ư chí-thiện. TÔN-CHỈ ÐẠO CAO-ÐÀI Là qui Tam-giáo, hiệp Ngũ-Chi. Tam-giáo là: Nho, Thích, Ðạo. Ngũ-chi là: Nhơn-Ðạo, Thần-Ðạo, Thánh-Ðạo, Tiên-Ðạo, Phật-Ðạo. ÐỨC-TIN Ðức-tin con người chia ra làm ba phương-diện: 1-Tự-tín, 2- Tha-tín, 3- Thiên-tín. ■ Tự-tín là: mình tin nơi sở-hành và năng-lực của mình có thể bảo-đảm cái đời sống cùng giá-trị của mình được vững bền trường-cửu. Con
người từ ấu thơ cho đến trưởng thành những lời của cha mẹ dạy bảo công
việc làm ăn, cho tới sự ở đời giao-thiệp với nhơn-quần xã-hội thì việc
nào phải, trái nên hư, lợi, hại cha mẹ đều chỉ vẽ phân-minh. Ta do theo
đó mà làm bài học vỡ lòng, và ghi nhớ lời giáo-hóa của cha mẹ để làm căn
bản. Ngoài
ra sở-hành của ta làm những điều gì có đạo-đức nhơn nghĩa, mà được
thiên-hạ ngợi khen và thương yêu kính mến thì ta noi theo đó mà làm
phương-pháp thực hành. Còn điều nào của ta làm mà quần chúng cười chê,
khinh bỉ, thì ta phải chừa bỏ ra liền, được như vậy thì đủ đức-tin rằng:
sở hành của ta sẽ bảo tồn. Giá-trị của ta được cao trọng, ấy là tự-tín. ■ Tha-tín là:
tin nơi người khác, trước là tin ông thầy dạy ta học, những kinh sách
của Thánh-Hiền lưu lại ta noi theo đó mà lập thân cho nên người
hiền-lương đạo-đức. Lại nữa ta phải Quang tiền dũ hậu là
vẻ-vang được sự-nghiệp người xưa dành để cho đời sau đầy-đủ trong
xã-hội, chẳng phải họ cố ý dạy ta. Nhưng ta suy-xét công việc của họ làm
những điều gì có nghĩa có nhơn được nhiều phước đức, thiên-hạ hoài cảm
ca tụng hoan-nghinh, thì ta học theo các điều ấy mà làm. Còn họ làm việc
chi hại nhơn ích kỷ bất nghĩa vô lương phạm tội với luật đời, sanh
chúng nghịch thù oán ghét, thì ta truất bỏ các điều tình tệ ấy ra không
nạp dụng, làm người mà biết suy độ như thế, gọi là có kiến-thức ấy là
tha-tín. Tự-tín và tha-tín chưa đủ, cần phải có thiên-tín, thì mọi sự mới được hoàn-toàn. ■ Thiên-tín là:
trọn tin nơi Trời là một Ðấng CHÍ-TÔN chủ-tể Càn-khôn Thế-giới, có đủ
quyền linh mầu-nhiệm bảo hộ sanh mạng của nhơn-loại trong vũ-trụ, những
người biết thuận tùng thiên-lý thì hằng còn. Trời cầm luật công-bình lành thưởng dữ răn. Còn người có đủ đức-tin nơi Trời, thì đọc hai câu trong bài Ngọc-Hoàng Kinh rõ biết: Càn-kiện cao-minh vạn-loại thiện ác tất kiến, Huyền phạm quảng đại nhứt toán họa phước lập phân. Nho-giáo
có câu: Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu. Lưới Trời lồng-lộng thưa
mà chằng lọt. Những người được hiểu quyền linh của Trời thì không bao
giờ dám làm một điều gì trái với nhơn-tâm.... Mọi hành-vi phải thuận
tùng Thiên-lý, noi theo đức háo sanh là từ-bi bác-ái chánh-trực
công-bình, dụng đạo-đức nhơn-nghĩa mà làm phương-châm thực hành, thì
Trời ban cho ân-huệ được vẹn toàn hạnh-phúc. Hoàng thiện bất thân duy đức thị phụ. Ngày
nào chư đạo-hữu và tất cả nhơn-sanh, làm y theo ba phương diện: tự-tín,
tha-tín, và thiên-tín cho đặng châu đáo thì con người sẽ trở nên
chí-thiện, đời phục hồi trật-tự an-ninh, nhơn-loại chung hưởng
hồng-phước của Trời ban cho, trong thế-giới sẽ được thái-bình trường
cửu. BỔN-PHẬN TÍN-ÐỒ Bổn
phận ngưòi tín-đồ trong nền Ðạo, phải có đủ đức-tin và trọn tâm trung
thành với Ðạo. Mọi việc hành-vi phải đồ y theo khuôn viên luật-pháp của
các Ðấng Thiêng-Liêng và Hội-Thánh truyền dạy, chẳng nên canh cải
chơn-lý của Ðạo, cần phải giữ lời minh-thệ khi mới nhập-môn, trước sau
như một không đổi dạ thay lòng, tin theo giáo-lý mà thật hành, chẳng vì
khổ-hạnh mà thối chí ngã lòng nửa đường bỏ Ðạo. Ví
như một người học trò vào trường thì phải tín-nhiệm và cung kỉnh vâng
lời của vị giáo-sư chỉ dạy. Chuyên lo học tập cần mẫn, thức khuya dậy
sớm, nấu sử xôi kinh trải qua mười năm công-phu cực nhọc, mới có thể thi
đậu cấp bằng tốt nghiệp ra làm việc giúp ích cho nước nhà lập nên danh
phận hiển Tổ vinh Tông. Còn
những người nhập-môn theo Ðạo Cao-Ðài, thì gọi tín-đồ, tức là môn-đệ
của Ðức CHÍ-TÔN, phải giữ tâm thành đức vẹn, nhứt là tuân theo
Thánh-giáo, và luật-pháp Chơn-truyền của Ðạo mà thi-hành cho tròn
bổn-phận. Ngoài ra còn phải siêng năng lập công-quả cho đầy-đủ và học
hỏi cho được lảu thông kinh sám, thì mới có thể tiến-hóa lên vào hàng
Chức-việc cùng Chức-Sắc. Trái
lại kẻ học sanh vào trường mà không tuân theo lời dạy của thầy thì dầu
học kể cho nhiều năm cũng không thế thi đậu cấp-bằng cao đẳng. Người
nhập-môn vào hàng tín-đồ của Tôn-giáo mà chẳng thiệt hành theo khuôn
viên của Ðạo thì tu đến trọn đời cũng khó mong đắc Ðạo. Ngày nào toàn
thể chư môn-đệ của Ðức CHÍ-TÔN mà cố tâm thực-hành cho được vuông tròn
bổn phận hai chữ tín-đồ thì nền Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ sẽ tiến triển cao
siêu vô đối. Khuyên giữ cho tròn phận tín-đồ, Ðêm ngày khá niệm chữ Nam-Mô. Trước sau như một không dời đổi, Giữa biển chờ khi gặp Lão-Tô. GIẢNG-ÐÀI TÒA-THÁNH Chức-Sắc
Thiên-phong Thuyết Ðạo trên giảng đài Tòa-Thánh, trải qua mười lăm năm
giải thích đủ các đề-tài nào là đạo-đức nhơn nghĩa, từ-bi, bác-ái,
chánh-trực, công-bình, thương-yêu, liên-lạc, thuận-hòa, khiêm-cung,
nhẫn-nại, vân vân. Kể ra phương châm giáo-hóa cũng đầy-đủ lắm rồi. Nhưng tiếc vì chư đạo-hữu thật hành chưa được châu đáo theo các đề-mục kể trên. Hôm nay xin ôn lại hai điều cần: Một là: Ngôn cố hành. Hai là: Hành cố ngôn. Lời nói phải đoái lại việc làm, mà việc làm cho đúng lời nói. Ví-dụ: nói tôi là người tu, thì
phải làm thế nào cho ra vẻ người hiền-lương đạo-đức, ngôn từ hòa-nhã,
hạnh-kiểm trang hoàng, đủ tư-cách là người ở trong nền Tôn-giáo, mới
xứng đáng gương mẫu cho đàn hậu tấn noi theo. Nếu nói rằng: tôi là người tu, mà
còn tranh danh vụ lợi xu-hướng theo thói thường tình, không chừa bỏ
tánh tham, sân, si, cử chỉ thắc-mắc, khó-khăn thiếu lòng bác-ái
công-bình thì trái ngược với bổn phận của người tu, ấy là việc làm không
y theo lời nói, thì tự nhiên mất cả uy-tín làm cho người đời khinh bỉ
cười chê. Nên giữ lời nói với việc làm phải phù hạp cùng nhau, mới có đủ tư-cách làm người cao thượng. Hiện
nay có một ít người cũng tự xưng là tín-đồ trong Ðạo Cao-Ðài, mà
sở-hành chẳng noi theo Thánh-giáo của Ðức CHÍ-TÔN, không giữ theo
luật-pháp chơn-truyền của Ðại-Ðạo, ấy là nói một đường mà làm một ngã,
không nhớ khi quì trước Thiên-Bàn lập thệ rằng: Hiệp đồng chư môn-đệ, gìn luật-lệ Cao-Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục. Chư
Ðạo-hữu nên ôn lại sở-hành của mình có giữ theo luật-lệ của Ðạo hay
không? Xin ghi nhớ đại-cương trong Tân-Luật dạy: những người nhập-môn
phải ăn chay mỗi tháng sáu ngày là bực chót. Còn
lễ sóc vọng mỗi tháng hai kỳ ngoại trừ khi có bận việc hoặc là đau ốm
thì được chế giảm như thế chẳng phải khó-khăn gì mà làm không đặng. Nếu
chẳng thật-hành cho trọn lời minh-thệ, thì tức nhiên là kẻ giả dối với
Ðức CHÍ-TÔN, kết cuộc phải chịu luật Thiên-điều trừng-trị, chừng ấy dầu
có ăn-năn hối-hận thì đã muộn rồi, đáng tiếc cho một kiếp sanh làm người
hữu duyên ngộ Ðạo, mà không được chung hưởng ân huệ của Trời Phật ban
cho, là tại bởi sở-hành chẳng y theo lời nói. Tóm
lại: Chư Ðạo-hữu bất luận làm những việc gì cần phải suy-xét, coi có y
theo Chánh-giáo của CHÍ-TÔN và luật-pháp chơn-truyền của Ðạo hay không,
nếu nhận thấy sở-hành của mình còn sai suyển, thì nên sửa cải liền, đừng
để cho người chỉ trích mà phải chạm lòng tự-ái, có khi nảy sanh câu
chuyện không hay. Nhứt là lời nói đối với việc làm phải tương-liên mật thiết cùng nhau thì mọi sự được thành công kết quả khỏi mang câu: Năng thuyết bất năng hành./. CHUNGLiên Thanh Sưu Tập
|