Khai Ngộ Phải Ðược Ấn Chứng Mới Ðúng Pháp
Trước thời Oai Âm Vương Phật ra đời, ai ai cũng có thể khai ngộ mà chẳng cần người nào ấn chứng cả. Từ thời Oai Âm Vương Phật trở về sau, những ai tự giác khai ngộ đều nhất định phải có Tổ-sư hoặc bậc Thiện-tri-thức (đã khai ngộ) ấn khả, chứng minh thì mới đúng phép. Cũng như ở Pháp-hội Lăng-Nghiêm, có hai mươi lăm vị Thánh-nhân tường thuật sự chứng đắc viên-thông của họ và thỉnh Ðức Phật Thích-Ca ấn chứng.
Bây giờ tôi kể cho quý vị nghe một công án về sự ấn chứng.
Ðời Ðường (nước Trung Hoa), có Ðại-sư Vĩnh Gia. Ngài sinh ở huyện Vĩnh-gia, tỉnh Triết-giang. Bởi vì cả đời Ngài không rời huyện Vĩnh-gia nên người đương thời gọi Ngài là Ðại-sư Vĩnh Gia. Sau khi xuất gia, Ngài nghiên cứu giáo lý Thiên-Thai Tông, thích tu Thiền-quán; nhờ xem Kinh Duy Ma Cật mà hoát nhiên đại ngộ. Về sau, khi gặp Thiền-sư Huyền Sách (đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng), ngài Vĩnh Gia bèn thuật lại tự sự. Thiền-sư Huyền Sách khuyên ngài nên đến Tào-khê tham bái Lục Tổ để thỉnh cầu ấn chứng; nếu không, chẳng nhờ thầy mà ngộ, thì là hàng "ngoại đạo Thiên-nhiên."
Khi ngài Vĩnh Gia tới Chùa Nam Hoa ở Tào-khê, gặp đúng lúc Lục Tổ đang tọa Thiền. Ngài rất cống cao ngã mạn, tới bên Thiền-sàng của Lục Tổ, cũng chẳng vái chào, chẳng đảnh lễ, cầm cây tích-trượng đi nhiễu quanh Thiền-sàng ba vòng, rồi đứng chống tích-trượng.
Lục Tổ mới hỏi: "Một vị Sa-môn cần hội đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Một hạnh cũng không khiếm khuyết thì được gọi là Sa-môn (dịch là Cần Tức-cần tu Giới Ðịnh Huệ, tức diệt Tham Sân Si-siêng tu Giới Ðịnh Huệ, dứt bỏ Tham Sân Si). Ðại-đức từ nơi nào tới, sinh lòng đại ngã mạn như thế?"
Ngài Vĩnh Gia đáp: "Chuyện lớn là sinh tử, vô thường quá chóng vánh."
Lục Tổ hỏi: "Sao không thể hội cái vô sinh? Sao chẳng liễu ngộ thứ chẳng chóng vánh?"
Ngài Vĩnh Gia đáp: "Thể hội tức là vô sinh. Liễu ngộ vốn không chóng vánh."
Lục Tổ dạy rằng: "Ông thật hiểu ý nghĩa của vô sinh vậy."
Ngài Vĩnh Gia hỏi vặn: "Vô sinh mà còn có ý hay sao?"
Lục Tổ trả lời rằng: "Không có ý thì ai đang phân biệt?"
Ngài Vĩnh Gia đáp: "Phân biệt cũng chẳng phải là ý!"
Lục Tổ dạy: "Như thị! Như thị!"
Rồi ngài Vĩnh Gia được ấn khả chứng minh, trở thành Pháp-tự của Lục Tổ.
Sau khi được Lục Tổ ấn chứng, ngài Vĩnh Gia muốn lập tức trở về Chùa Khai Nguyên ở Vĩnh-gia. Song Lục Tổ lưu ngài ở lại một đêm, hôm sau mới xuống núi về quê nhà. Bởi vì chỉ trong một đêm mà giác ngộ được chân-đế của Phật-pháp nên người đương thời gọi ngài là "Nhất Túc Giác Hòa Thượng" (vị Sư giác ngộ nội trong một đêm). Về sau ngài cực lực tuyên dương pháp Ðốn-ngộ của Thiền-môn, viết tác phẩm Chứng Ðạo Ca thuyết minh cảnh giới đốn-ngộ. Ðó là một tác phẩm bất hủ, đã trở thành bản văn phải học trong Phật môn.
Khi chúng ta ngồi trong Thiền-đường, cứ nhìn bề ngoài thì giống như chúng ta đang dụng công tu hành, song thật ra thì chỉ ngồi nghĩ ngợi, vọng tưởng lăng xăng, chẳng dụng công tu hành chút nào cả. Có vị nghĩ rằng: "Bây giờ là thời đại khoa học, phải dùng phương pháp khoa học để khai ngộ"; nhưng lại nghĩ lui nghĩ tới mãi, chẳng chút khoa học gì cả, đó chính là "kẻ ngốc nói chuyện mộng mỵ."
Kẻ nào khai ngộ rồi thì đều phải thắng được mọi khảo nghiệm, nếu không y sẽ mắc tội đại vọng ngữ, phải đọa địa ngục Vô-gián. Phàm lệ, ai tự rêu rao về mình: "Tôi đã khai ngộ rồi! Tôi đã chứng quả rồi!" thì đều phải chịu quả báo (đọa địa ngục). Hy vọng quý vị đều hết sức cẩn thận, không tùy tiện nói càn, kẻo về sau phải chịu quả báo!
Ở đây quý vị dậy rất sớm, ngủ thật trễ. Vì sao lại tu cực khổ như vậy? Bởi vì thêm một phút tham Thiền là thêm một cơ hội giác ngộ. Hiện tại quý vị ngồi ở Thiền-đường tập trung tinh thần, dụng công tham cứu câu "Niệm Phật là ai?", tuy chẳng phải là không có vị chuyên tâm dụng công, song những vị chân chính muốn giác ngộ, đắc được thọ dụng, thì ít lắm. Phần đông người ta không biết rõ việc tham Thiền ra sao, cũng không nhiệt tâm; họ chỉ tu cho có lệ, làm cho qua ngày. Với thái độ đả Thiền-thất như vậy thì dù có đả thất tới "tận vị lai kiếp" cũng chẳng thể khai ngộ được. Tôi hy vọng mỗi quốc gia đều có nhiều vị giác ngộ, để họ giúp ích cho tiền đồ Phật-giáo mai sau.
Trong lúc đả Thiền-thất, quý vị chớ nói chuyện, đừng nghĩ ngợi lăng xăng. Quý vị hãy chân thật dụng công thì mới có cảm ứng, mới khai trí huệ. Có trí huệ thì mới không điên đảo. Không điên đảo thì mới có thể giáo hóa chúng sinh. Nếu chính mình không hiểu rành mạch chân lý thì lấy tư cách gì để dạy kẻ khác? Ðây chẳng phải là "kẻ đui dắt người mù" sao? Thật là vô cùng nguy hiểm!
Việc tham Thiền thì cũng tương tự như bác nông phu gieo hạt ngũ cốc vào mùa xuân; đến mùa hè thì cày cấy, tưới nước, nhổ cỏ, bón phân; qua mùa thu mới gặt được mùa tốt và khi mùa đông tới thì bác mới được no ấm. Hy vọng suốt một năm của bác nông phu là được đủ ăn đủ mặc. Tham Thiền cũng vậy. Quý vị cần cẩn thận giữ chặt tâm niệm, lúc nào cũng quản thúc chính mình. Trong Thiền-đường, lúc đi mình có dụng công chăng? Lúc ngồi mình có dụng công chăng? Nói tóm lại, đi, đứng, nằm, ngồi, đều phải dụng công tu hành. Quý vị cảm thấy dụng công làm sao thích hợp, thì cứ theo đó mà dụng công, chẳng có gì hạn chế. Ví dụ, quý vị cảm thấy tham thoại đầu chẳng tương ưng, thì có thể niệm Phật, hoặc tu chỉ-quán. Chỉ cần phương pháp ấy thích hợp, tương ưng với quý vị thì quý vị sẽ có cơ thành tựu.
Vô luận là dụng công ở pháp môn nào, tâm phải chuyên nhất, đừng có vọng tưởng. Khi dụng công tới cực độ thì sẽ có tin tức tốt đẹp. Nếu có vọng tưởng, suy nghĩ lăng xăng hoài, thì dụng công ở pháp môn nào cũng chẳng có tương ưng. Phàm nếu là người chân chính dụng công, thì đi chẳng biết là đi, ngồi cũng chẳng biết là ngồi-đi hay ngồi đều không để ý thì làm sao khởi vọng tưởng được chứ? Quý vị chỉ cần biết "Niệm Phật là ai? Niệm Phật là ai?" Cứ một câu này, niệm niệm chớ để gián đoạn, luôn luôn tham cứu trong lòng. Bấy giờ, dù khát quý vị chẳng biết khát, đói cũng chẳng biết đói; nóng cũng không biết là nóng, lạnh cũng chẳng hay là lạnh. Vì sao không biết? Vì tâm chuyên nhất vậy. Lưng đau cũng quên đau, chân nhức cũng không biết nhức, mọi ý niệm đều tiêu vong cả. Chỉ còn có một niệm: "Ai niệm Phật?" Luôn đề khởi nó, rồi buông bỏ. Buông bỏ xong lại đề khởi. Lúc nào cũng miên mật, dụng công liên tục, không gián đoạn. Dụng công tới chỗ cực độ, thì bất kỳ một va chạm ngẫu nhiên nào cũng có thể làm quý vị hốt nhiên khai ngộ.
Tại sao quý vị không hốt nhiên khai ngộ? Vì quý vị chưa chuyên tâm trì chí, chưa hiểu đạo lý minh tâm kiến tánh, không biết cảnh giới phản bổn hoàn nguyên, cũng chẳng biết cố hương ở nơi đâu nên lưu lạc nơi đất khách như tên ăn mày.
Cuối cùng tôi nói với quý vị câu này: Hãy tham cứu câu "Niệm Phật là ai?" cho tới chỗ "núi cùng nước cạn, nghi hết đường"; bấy giờ, quý vị sẽ thấy cảnh giới "bóng liễu, hoa xinh hiện một thôn."
(Thiền thất 12/1980)
Thiện, Ác Không Rời Một Niệm Ở Tâm Ta
"Không làm việc ác,
Làm mọi việc lành,
Tự thanh tịnh tâm mình,
Là điều Phật dạy."
Ðây là chân-đế của đạo Phật. Ai cũng hiểu đạo lý ấy, song chẳng ai thực hành được cả, nên thiên hạ đại loạn.
Ðả Thiền-thất tức là cơ hội tốt nhất để chúng ta "sửa ác hướng thiện, sửa lỗi đổi mới." Với một ý niệm ác độc, thiên địa có thể sinh ra cuồng phong, bão táp, tạo đủ tai ương. Nếu nhân loại khắp toàn cầu ai ai cũng biết thọ giữ Năm Giới, thực hành Mười Thiện, thì trời đất sẽ mưa thuận gió hòa, thế giới nơi nơi an lạc. Nói tóm lại, nếu trên từ bậc nguyên thủ xuống tới nhân dân trăm họ, ai cũng giữ Năm Giới, làm Mười Thiện, thì quốc gia ấy hẳn được cơm ăn áo mặc sung túc, người người an cư lạc nghiệp. Nếu mọi người phạm Năm Giới, tạo Mười Ác, thì chẳng phải nghi ngờ gì nữa, tại quốc gia ấy, gia đình sẽ không hòa thuận, xã hội không an ninh, đất nước chẳng giàu mạnh, nhân dân phải sống cuộc đời lầm than, vất vả.
Tham Thiền chính là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Tại Thiền-đường, quý vị hãy chuyên tâm tham Thiền, đề khởi thoại đầu, buông bỏ mọi chuyện, chuyên tâm vào chữ "Ai." Lúc nào cũng chiếu tìm, khiến tất cả mọi vọng tưởng khác đều ngừng lại hết, đó chính là trì giữ Năm Giới, cũng là thực hành Mười Thiện. Do vậy, tọa Thiền ở Thiền-đường thì đầy đủ Năm Giới, Mười Thiện vậy. Vì thế, chớ nên lãng phí thời giờ, nghĩ chuyện vớ vẩn vô ích, mà phải nắm lấy thời cơ tham cứu "Niệm Phật là ai?"
Lúc tham Thiền, chúng ta cần phải nỗ lực dụng công, dũng mãnh tinh tấn. Chúng ta phải hồi quang phản chiều (thâu nhiếp tâm trí, chiếu ngược nội tâm), tự vấn lòng mình, hỏi xem mình đã sinh bao nhiêu niệm thiện, dấy bao nhiêu niệm ác, khởi bao nhiêu vọng tưởng. Hãy thống kê xem.
"Chưa sinh niệm thiện, khiến sinh thiện niệm
Ðã sinh niệm thiện, khiến nó tăng trưởng
Chưa sinh niệm ác, khiến nó chẳng sinh
Ðã sinh niệm ác, khiến nó diệt mất."
Ðó là bước đầu căn bản của việc tu hành.
Vì sao thế giới bị hủy diệt? Vì người ta khởi "ít niệm thiện, nhiều niệm ác." Với một niệm thiện, trời đất tăng thêm chính khí. Chỉ một niệm ác, trời đất chất thêm trược khí. Vì thế chúng ta phải làm sao để biến khí ác-trược thành khí an-lành. Trược-khí chính là độc-khí, mà hễ chúng ta sinh một niệm tham lam thì độc-khí trong vũ trụ sẽ tăng lên một chút, nảy một niệm sân hận thì độc-khí trong vũ trụ cũng tăng lên một ít, khởi một niệm si mê thì độc-khí trong vũ trụ lại thêm hơn một tí. Nếu chúng ta dùng tham, sân, si để xử lý mọi việc thì trời đất sẽ u ám đen tối, tai nạn sẽ nảy sinh; nhưng nếu dùng Giới Ðịnh Huệ để giải quyết mọi sự thì trời trong đất lặng, nơi nơi an bình. Do đó nói rằng, nơi kẻ ác ở đông, chỗ đó tai nạn dẫy đầy; nơi đông người tốt cư ngụ, điều lành tăng gia. Nói tóm lại, tại ương hay cát tường đều do con người tạo ra cả.
Cổ nhân nói: "Thiện ác hai con đường, ai tu thì tu, ai tạo (nghiệp) thì tạo." Kẻ tu thiện thì sẽ thoát khỏi Tam Giới, kẻ tạo ác thì sẽ đọa Tam Ác Ðạo. Thiện, ác chỉ ở trong một ý niệm cách biệt. Có trí huệ tức là thiện niệm, có ngu si tức là ác niệm.
Mọi sự trên đời đều nói pháp (hiển bày chân lý). Có thứ nói pháp lành, có thứ nói pháp ác. Có thứ nói pháp bàng môn tả đạo, quan điểm sai lầm. Có thứ nói pháp Trung Ðạo Liễu Nghĩa, quan niệm đúng đắn. Nói cách khác, nói pháp lành tức là dạy người ta nhìn thông suốt mọi hiện tượng, buông bỏ mọi chấp trước, đạt được tự tại; còn nói pháp ác tức là dạy người ta đừng nhìn thủng, đừng buông bỏ chấp trước, chẳng đắc được tự tại. Vì sao con người điên đảo? Bởi vì chấp trước, không chịu buông bỏ. Câu thơ xưa nói rằng:
Cổ lai đa thiểu anh hùng hán,
Nam Bắc sơn đầu ngọa thổ nê.
Nghĩa là:
Xưa nay bao kẻ anh hùng hảo hán,
Nằm dưới đất bùn khắp núi đầy non.
Quý vị hãy nghĩ xem: bao nhiêu người ở trần gian, ai có thể nhảy thoát qua cửa sinh tử? Lúc sống, mưu đồ hư danh, chết rồi, danh nào còn? Ham chức quan lớn, chết rồi, quan cũng hết luôn! Mọi thứ đều hóa thành không. Trung Quốc có Tần Thủy Hoàng vì muốn bảo vệ con cháu, khiến muôn đời sau sẽ mãi làm hoàng đế, nên cho xây Vạn Lý Trường Thành. Nào ngờ chỉ truyền tới đời thứ hai, con là Hồ Hải (Tần Nhị Thế) nối ngôi chưa được ba năm thì bị Thừa-tướng Triệu Cao giết chết. Thế chẳng phải là đã hao phí tâm cơ sao?
Xưa nay, từ trong đến ngoài nước, những kẻ cực kỳ giàu sang, kẻ làm quan to chức lớn, đều sống một đời mê muội tranh danh đoạt lợi, tạo ra biết bao nghiệp chướng tội lỗi; tới lúc chết thì với hai tay không đi gặp Diêm Vương. Xem đấy, khi tham Thiền chúng ta phải quyết chí dụng công, không thể giải đãi, không thể buông lung, chớ để lỡ cơ hội rồi sau này hối hận không kịp. Rằng:
"Một chút thời gian, một chút mạng sống."
Có người nói: "Chờ tôi thành danh rồi, tôi sẽ buông bỏ mọi thứ, chuyên tâm tu Ðạo." Song, thời gian không chờ đợi ai, chờ tới lúc đó thì đã quá muộn rồi.
Tham Thiền hay niệm Phật đều tốt cả. Chỉ cần chân thật tu hành thì có thể thoát khỏi vòng sinh tử, tới lúc lâm chung tất sẽ "thân không bịnh khổ, tâm chẳng tham luyến, như nhập Thiền-định, vui cười vãng sinh." Ðó mới là nắm chắc được việc sinh tử trong tay mình vậy!
(Thiền Thất 12/1980)
Sự Tích Ngài Huyền Trang Ði Thiên Trúc Thỉnh Kinh
Pháp sư Huyền Trang ra đời vào năm thứ hai niên đại Nhân Thọ, đời Tùy Văn-Ðế tức năm 601 công nguyên. Sư quê ở Trần-Lưu, Hà-nam, người họ Trần, lúc thiếu thời đã tỏ ra thông tuệ khác thường, chỉ mới 7 tuổi đã học Ngũ Kinh. Năm lên 13 tuổi, Sư theo anh thứ hai là Pháp sư Trường Tiệp đi Lạc Dương, xuất gia tại chùa Tịnh Ðộ và từ đó học tập Kinh điển. Theo chế độ đời nhà Tùy, ai muốn xuất gia đi tu đều phải qua một cuộc khảo thí. Nếu hợp cách thì được một tờ chứng thư, gọi là độ điệp, và lúc đó mới đủ tư cách làm Sa-di. Sư đặt chân tới Lạc Dương nhằm đúng vào lúc có kỳ khảo sát, nhưng vì quá nhỏ tuổi Sư không được phép ứng thí. Trước cổng trường thi, Sư đứng bồi hồi, than tiếc khôn nguôi! Lúc ấy, quan Chủ khảo là Trịnh Thiện Quả nhác thấy, nhận ngay ra Sư thuộc hàng long tượng trong Phật giáo, nên đặc cách cho Sư vào dự thi.
Năm 20 tuổi, sau khi thọ giới Cụ túc, Sư lên đường hành cước đi tham vấn Thiện tri thức khắp nơi. Sư có dịp nhận thấy các điều thuyết giảng của các vị Tăng so với Kinh điển có nhiều phần không phù hợp, khiến cho người tu không biết y cứ vào đâu, nhất là theo nội dung của Thập Thất Ðịa Luận thì kiến giải lại có nhiều điểm bất đồng. Sư bèn phát nguyện đi Thiên Trúc (tức Ấn-độ ngày nay) để nghiên cứu Phật Pháp đặng giải các mối nghi này.
Bởi đường đi Thiên Trúc quá gian nan, phải vượt qua bao nhiêu chướng ngại, núi thì cao chót vót, đèo thì vô cùng hiểm trở, do đó để chuẩn bị cho cuộc hành trình mạo hiểm này, Pháp sư Huyền Trang phải tự luyện tập kỹ thuật leo núi.
Sư dùng các vật liệu như bàn, ghế, lấy cái nọ chồng lên cái kia, chất đống lại như hình một hòn núi giả, rồi hàng ngày tập leo lên leo xuống, đến khi thuần thục, lại đi vào rừng núi thực tập. Thời gian tập luyện như vậy kéo dài khoảng một năm.
Sư dâng biểu tâu vua, xin phép đi Thiên Trúc thỉnh Kinh. Hồi đó nhà Ðường đương có pháp lệnh cấm chỉ việc xuất cảnh, nên biểu tấu của Sư không được vua Ðường Thái Tông phê chuẩn. Tuy nhiên, vì đã có chủ ý từ trước, bất luận có được phép hay không, cuối cùng Sư vẫn nhất quyết ra đi.
Từ Tràng An xuất phát, Sư một mình cứ nhắm phía Tây mà hướng tới.
Có một hôm, Sư đi ngang qua một hang núi, thấy trước cửa hang có nhiều phân của loài dơi. Sư nghĩ rằng trong hang này ắt hẳn không có bóng người trú ngụ, vì nếu có, thì đâu có nhiều phân dơi như vậy! Ðộng lòng hiếu kỳ, Sư đi vô hang, và chẳng đi bao xa thì thấy một hình thù quái dị, như một quái vật, trên đầu thì tóc kết lại, ở đó chim làm thành một cái tổ, trong tổ chim nhỏ kêu chíp chíp! Mặt của quái vật thì phủ một lớp bụi đất dầy, hình thù như một tượng đá, Pháp sư lại gần quan sát kỹ: hóa ra đây là một vị tu hành già, đã nhập định từ lâu. Sư lấy khánh gõ nhẹ, dụ cho vị này xuất định, và, chờ một lúc sau lão tăng bắt đầu cựa quậy.
Sư hỏi ông vì lý do gì mà ngồi ở đây. Quai hàm lão tăng nhúc nhích được một lát thì có âm thanh phát ra như sau:
-"Tôi chờ đức Phật Hồng Dương (tức Phật Thích-Ca) xuất thế để tôi có thể giúp Ngài hoằng dương Phật Pháp".
Ðến khi nghe Pháp sư nói cho hay Phật Thích Ca đã nhập Niết-bàn từ lâu rồi, thì lão tăng tỏ vẻ kinh ngạc hỏi:
- Ðức Thích-ca Mâu-ni ra đời hồi nào?
- Ngài đã ra đời trên một ngàn năm nay và Ngài cũng đã nhập diệt từ lâu.
Lão tăng nói:
- Ðức Thích-ca đã nhập Niết-bàn ư? Vậy thì tôi lại nhập định chờ đức Phật Bạch Dương (tức Phật Di-lặc) ra đời để giúp Ngài hoằng dương Phật Pháp.
Pháp sư nói:
- Ông bất tất phải nhập định chờ đức Phật Di-lặc ra đời. Như vậy ông sẽ có thể bỏ lỡ cơ hội mật lần nữa. Chi bằng nay ông hãy theo tôi đi qua Chấn Ðán (tức Trung quốc). Ngày nào tôi trở về nước ông sẽ giúp tôi hoằng dương Phật Pháp.
Lão tăng suy nghĩ xong cho là có lý, bèn tỏ ý ưng thuận với lời đề nghị của Pháp sư Huyền Trang.
Pháp sư dặn dò như sau: "Cơ thể này của ông đã quá cũ kỹ, ông nên đổi qua một thân mới. Khi tới Tràng An, ông xem căn nhà nào lợp bằng ngói sắc vàng lưu ly thì tìm vào đó đầu thai. Ngày sau, khi tôi ở Thiên trúc thỉnh Kinh về, tôi sẽ đến đón ông".
Dặn xong, hai người chia tay lên đường, người đi về hướng Ðông, kẻ về hướng Tây.
Pháp sư Huyền trang leo đèo lội suối, trải qua biết bao lần tai nạn hiểm nghèo nhưng không bao giờ biết thối chí. Sư đã có lời thề:
Thà một bước chết ở trời Tây
Còn hơn sống lui bước về Ðông Ðộ
Một tinh thần vì Pháp quên mình như vậy, quả là vĩ đại! Có như thế Pháp sư mới hoàn thành được một sự nghiệp cũng rất là vĩ đại, một cống hiến lớn lao cho Phật giáo Trung Hoa, đồng thời Sư cũng là người khai sáng ra tông phái Duy Thức.
Có câu nói "kiến hiền tư tề". Chúng ta muốn thành tựu Ðạo nghiệp, ắt phải noi theo gương sáng của Pháp sư Huyền Trang, lấy Pháp sư làm mẫu mực để làm theo, khiến cho trí huệ bổn hữu của chúng ta xuất hiện, đặng cống hiến chút phần công sức cho Phật giáo.
Từ đó, ngày lại ngày, gối đất nằm sương, Ngài cứ theo hướng Tây mà tiếp tục hành trình, kiên nhẫn giữ vững ý chí, quyết một lòng, chưa tới đích thì chưa ngưng nghỉ. Người xưa nói: "Có chí thì nên". Ngài trải qua vạn ngàn gian khổ, đi trong ba năm thì tới được Thiên Trúc, và, tại Ðại học Phật giáo Na-lan-đà, Ngài bái Ðại sư Giới Hiền (Shilabhadra) làm thầy, đương thời là một vị cao tăng nổi tiếng về môn Duy thức học. Ở đây Ngài chuyên học về Thập Thất Ðịa Luận và Du-già Luận.
Kết thúc thời gian tu học, Ngài trở về nước. Khi đi ngang qua thành phố Khúc Nữ (Kanyakudja), Ngài được quốc vương nơi đây là Giới Nhật (Shiladitya) cung thỉnh. Vào lúc thành Khúc Nữ tổ chức một cuộc hội thảo lớn, có sự tham gia của mười tám vị quốc vương cùng với các tông phái Ðại thừa, Tiểu thừa, Bà-la-môn và cả các phái ngoại đạo, tổng cộng khoảng chừng sáu ngàn người, tóm lại một pháp hội lớn xưa nay chưa từng có, Pháp sư được mời đến giữ vai làm hội chủ. Ngài cũng thảo một luận chương xiển dương Ðại Thừa và luận chương này được yết ngay trước cửa hội trường, kèm theo một lời ghi chú: "Nếu sửa được một chữ, nguyện xin bái làm thầy". Hội thảo kéo dài mười tám ngày, nhưng không một ai sửa được chữ nào, cuối cùng Ngài trở thành vô địch, không ai thắng nổi, tên tuổi vang lừng khắp năm nước ở Thiên Trúc và không ai là không biết tới đại danh của Pháp sư Huyền Trang.
Năm Trinh Quán thứ 19 (công nguyên năm 645), ngày 24 tháng giêng, Ngài về tới Tràng An, với sự nghênh đón của cả mấy chục ngàn người, cả Tăng lẫn tục gia. Vua Ðường Thái Tông phái tướng quốc là Lương Quốc Công, và Phòng Huyền Linh đón tiếp Ngài. Sau này Ngài trụ trì ở chùa Hoằng Phúc làm công tác phiên dịch Kinh điển Phật giáo.
Ngài lưu học tại Ấn-độ mười hai năm, cộng với thời gian đi về năm năm, thành thử Ngài coi như là vị Tổ sư trong các Tăng sĩ du học. Kinh điển mang về Trung Hoa chứa trong năm trăm hai mươi cái rương, tính ra hơn sáu trăm bộ. Ngài cung hiến tất cả cho quốc gia. Vua Ðường vời đến triều kiến rồi ban thưởng cho Ngài.
Thoạt gặp vua Ðường, Ngài có lời mừng: "Cung hỷ bệ hạ!" Vua không hiểu ý tứ ra sao mới hỏi lại: -"Mừng về chuyện gì?"
- Mừng bệ hạ vừa có thái tử.
Vua Ðường hết sức ngạc nhiên, đáp lại rằng:
- Không có chuyện đó.
Pháp sư tự nghĩ: "Rõ ràng ta đã căn dặn lão tăng đến đây đầu thai, mà sao nay lại không thấy?" Ngài liền nhập định quan sát. Thôi rồi! Ông ta không chịu tìm cho kỹ càng nên đã đầu thai lầm vào tôn phủ của Uất Trì Cung rồi! Ngài bèn tâu lên vua đầu đuôi sự việc. Ðường Thái Tông nói:
- Hóa ra sự thể như vậy. Pháp sư độ cho y đi.
Ngài tới thăm Uất Trì Cung, kể rõ sự tình. Khi thoạt trông thấy người cháu của vị công thần này, Ngài vô cùng hoan hỷ, bởi trang thiếu niên trông rất khôi ngô, tỏ dạng một anh tài, sau này ắt sẽ trở thành một pháp khí lớn. Do đó Ngài mở đầu nói ngay: "Ngươi hãy theo ta xuất gia!". Thiếu niên nghe nói tỏ vẻ không vui, đáp:
- Ðại sư nói gì? Bảo tôi xuất gia ư? Ðâu có chuyện đó được?
Nói rồi, thiếu niên quay gót bỏ đi.
Pháp sư Huyền Trang chỉ còn cách tâu lại vua Ðường, nhờ vua chu toàn cho đoạn nhân duyên đó. Ðường Thái Tông bèn hạ chỉ, ra lịnh cho cháu của Uất trì Cung xuất gia. Vị đại thần tiếp chỉ gọi cháu ra thì gặp ngay sự cự tuyệt của cháu. Y nói:
- Có lý nào như vậy! Vì cớ gì Hoàng Ðế bắt cháu phải xuất gia? Ðể cháu gặp Hoàng Ðế nói cho rõ chuyện này!
Ngày hôm sau, Uất trì Cung mang cháu ra mắt vua. Thiếu niên tâu lên:
- Bệ hạ bảo thần xuất gia, được lắm! Nhưng thần xin ba điều kiện.
Ðường Thái Tông nói:
- Ngươi muốn bao nhiêu điều kiện cũng được.
- Thần vốn thích uống rượu và không thể không có rượu. Vậy bất luận ở chỗ nào, phải có một xe chất đầy rượu cho thần.
Nhà vua thầm nghĩ: "Giới của kẻ xuất gia là không được uống rượu. Có điều Pháp sư Huyền Trang đã có lời dặn dầu điều kiện nào cũng ưng thuận cho y." Vua đáp:
- Ðược! Ta ưng thuận. Ðiều kiện thứ hai là gì?
- Thần biết rằng người xuất gia không được ăn thịt, nhưng thần lại thích món này. Vậy bất luận thần ở chỗ nào cũng phải có một xe thịt tươi đi theo thần.
- Ta ưng thuận. Còn điều kiện thứ ba?
Người cháu của Uất trì Cung không thể ngờ rằng nhà vua lại chịu cho hai điều kiện y vừa yêu cầu, y nói tiếp:
- Kẻ xuất gia thì không thể có vợ, nhưng thần thì không thể thiếu đàn bà. Vậy bất luận thần ở chỗ nào cũng phải có một xe chở con gái đi theo thần.
Vua Ðường nghĩ bụng: "Ái chà! Ðiều kiện này làm sao mà cho được? Nhưng Pháp sư đã dặn, dầu điều kiện nào cũng chấp thuận cho y". Nghĩ vậy, vua đáp:
- Ðược! Ta hoàn toàn chuẩn y cả. Bây giờ ngươi xuất gia được rồi!
Thiếu niên thấy không còn biện pháp nào khác để từ chối, đành miễn cưỡng nhận lời xuất gia. Cho nên, tới ngày đã định, khi y đi đến chùa Ðại Hưng Thiên để làm lễ, thì theo sau y, là một xe chở rượu, một xe chở thịt tươi, một xe chở mỹ nữ. Trong khi đó, tại chùa, cũng đã có sự chuẩn bị sẵn, nên khi nghe tin đoàn người sắp tới, tiếng chống và tiếng chuông trong chùa đều nhất tề gióng lên. Thoạt nghe tiếng chuông trống, thiếu niên bừng tỉnh ngộ: "Ồ! Ta vốn là vị lão tăng năm đó, đến chỗ này để giúp Pháp sư Huyền Trang hoằng dương Phật Pháp". Ngay đó, y đuổi hết cả đoàn ba xe về, và không cần một thứ gì nữa.
Thiếu niên đó, sau này là Ðại sư Khuy Cơ, và được người đương thời đặt danh hiệu là Tam Xa Tổ Sư.
Trong số các luận về Duy Thức Tam Thập Tụng mà Pháp sư Huyền Trang mang về Trung Hoa có tất cả tác phẩm của mười Luận gia. Pháp sư dịch hết ra tiếng Hán, theo sát ý tứ trong nguyên văn, một chữ chẳng thêm, một chữ chẳng bớt. Hồi đó Ðại sư Khuy Cơ đảm nhiệm công tác nhuận sắc. Khi hoàn tất việc dịch cả mười bộ Luận, Ðại sư Khuy Cơ đưa ra đề nghị như sau: "Trong mười tác phẩm của các Luận gia, mỗi bộ đều có sở trường riêng và đều có chỗ dị biệt. Nếu không đồng nhất thì e rằng học giả đời này và đời sau sẽ hoang mang, không biết đâu mà y cứ. Chi bằng nay bỏ bớt đi cái vỏ rườm rà, chỉ giữ lại cái cốt tủy mà đem đúc thành một bộ, khiến cho người đời này và đời sau khi nghiên cứu Duy Thức học có thể đi tới cùng một kết luận, không lãng phí nhiều thời gian mà có thể lãnh hội được pháp yếu".
Pháp sư Huyền Trang thấy lời đề nghị có lý, cho nên tất cả hợp lại thành một bổn luận, tức nay là bộ "Tam Thập Tụng Duy Thức Luận".
Pháp sư lại thân truyền cho Ðại sư Khuy Cơ môn Nhân Minh Luận (logic) khiến về sau Ðại sư Khuy Cơ trở thành một chuyên gia về Duy Thức Học. Ðem hết tâm trí để truyền bá tư tưởng Duy Thức. Ðại sư được coi như Tổ thứ hai Tông Duy Thức.
Hai năm sau ngày về nước, Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu soạn bộ "Ðại Ðường Tây Vực ký", gồm 12 quyển. Tới năm Hiển Khánh thứ nhất đời Ðường, tức năm 660 công nguyên, lúc đã 59 tuổi, Ngài bắt đầu dịch bộ Kinh Ðại Bát-nhã. Trong bản nguyên văn bằng tiếng Phạn, Kinh Ðại Bát-Nhã gồm hai trăm ngàn (200.000) câu tụng. Ngài dịch toàn bộ, không hề lược bớt một đoạn nào, theo rất sát với nguyên văn, và sau bốn năm trường dịch xong thành sáu trăm quyển. Qua năm sau, Ngài tính dịch Kinh Ðại Bảo Tích, nhưng vì ngả bệnh nên việc dịch phải đình lại.
Pháp sư viên tịch vào tháng 2 năm Lân Ðức thứ nhất, tức năm 664 công nguyên, hưởng thọ 64 tuổi, an táng tại Bắc Nguyên thuộc Phàn Xuyên. Công tác dịch Kinh điển của Pháp sư gồm tất cả 75 bộ, 1335 quyển. Như vậy Ngài là một trong bốn nhà dịch kinh lớn của Trung quốc. Ðệ tử của Ngài rất đông, trong số này, Ðại sư Khuy Cơ, Viên Trắc là các vị truyền thừa về Duy Thức, còn Phổ Quang và Thần Thái là truyền thừa của Câu Xá (Kosa) Tông.
Hai triều Tùy và Ðường chính là các thời đại hoàng kim của Phật giáo, thời đại của "trăm nhà đua tiếng", các Tổ sư lần lượt xuất hiện và sáng lập Tông phái. Ðương thời kể ra có mười Tông, Tiểu thừa hai Tông còn Ðại Thừa gồm tám Tông.
Trong số mười Tông này, Tam Luận Tông và Duy Thức Tông hoàn toàn bảo tồn tư tưởng gốc tại Thiên Trúc, giáo lý được truyền qua đất mới nhưng tinh nghĩa được giữ nguyên vẹn. Còn như đối với Tông Thiên Thai - lấy Kinh Pháp Hoa làm tông - và Tông Hiền Thủ - lấy Kinh Hoa Nghiêm làm tông - nội dung đã có sự hội nhập với các tư tưởng của Trung quốc. Bốn Tông vừa kể được xếp vào loại Giáo môn. Cho tới nay, thời gian biến diễn, các phân loại hiện tại chia thành năm phái lớn. Ðó là Giáo, Thiền, Tịnh, Luật, Mật.
Kỳ thực tất cả đều cùng chung một mục đích tối hậu là đạt Niết-bàn, chỉ có phương pháp tu trì là khác biệt mà thôi.
Thiền thất khai thị, tháng 12 năm 1980
Tham Thiền Phải Hồi Quang Phản Chiếu
Ði đứng nằm ngồi
Không lìa bỏ nó
Lìa bỏ cái đó
Tức thành lầm lỗi.
Cái đó là cái gì? Chính là câu thoại đầu để chúng ta dụng công tham thiền. Lấy chân tâm mà tu Ðạo, đề khởi câu thoại đầu rồi tham cứu một cách miên mật, không dứt đoạn. Hàng giờ, hàng khắc, hàng phút, hàng giây, không một tạp niệm nào, một vọng tưởng nào xen vào, tóm lại trong tâm tư, niệm trước niệm sau, chỉ rặt một câu thoại đầu là đề mục tham cứu. Vậy thì đâu còn thời gian nào khác để nói chuyện với nhau, làm rộn người khác? Cũng không có cơ hội để lười biếng nghỉ ngơi, càng không có dịp để nói chuyện thị phi, chuyên một lòng giữ câu thoại đầu để tham ngộ. Có câu kệ rằng:
Mọi sự qua suông sẻ
Khó xả duy nổi nóng
Nếu quả không tức giận
Ðó là hòn ngọc quý
Lại không biết hận người
Sự việc đều trôi chẩy
Phiền não chẳng hề sanh
Lấy đâu tạo oan nghiệt?
Thường chỉ rặt trách người
Khổ đau chuốc mãi mãi.
Người tham Thiền nếu có được thái độ như vậy mới mong có ngày "nhập môn". Tại Thiền đường ai ai cũng phải hồi quang phản chiếu, quay về nơi mình, tự hỏi mình, có phải ta đương dụng công, hay ta đương phóng tâm theo vọng tưởng? Hãy nhìn chính mình, phải chăng ta đương rọi sáng để soi chính ta? Chớ không phải soi ra ngoài? Ðó là điều chúng ta phải rất mực chú ý.
Dụng công nơi Thiền đường, ta phải ghi nhớ hai câu sau:
Ma-ha-tát, chẳng lý tới kẻ khác
Di-đà Phật, ai nấy tự lo lấy!
Từng thời từng khắc, tự quản lý mình, khỏi cần để ý tới ai, càng không nên làm phiền hà người khác, như vậy là chướng ngại sự dụng công của mọi người, khiến họ có thể lỡ cơ hội khai ngộ, một việc không thể chấp nhận được. Như tôi thường nói với quý vị:
Thành thực nhận lỗi mình
Không bàn lỗi người khác
Lỗi người tức lỗi ta
Ðồng thể gọi Ðại bi.
Ai ai cũng có tư tưởng đó thì tất cả đều một lòng một ý tu hành, không còn nghĩ gì khác, chẳng còn nhiều chuyện bàn tán, làm rộn mọi người.
Người tham thiền cốt yếu phải nhận định cho rõ rệt một vấn đề căn bản. Ðó là vấn đề gì? Cái đó là tập khí. Ngồi thiền là để loại trừ tập khí, những thói xấu, để thanh lọc tâm tư, để giải trừ những thói xấu đố kỵ những ai hơn mình. Hãy mang những tâm đố kỵ, những tâm phiền não vô minh, gạt bỏ hết. Có như vậy, Chân tâm sẽ tỏ lộ, trí huệ sẽ hiển bầy, và lúc đó thiền giả mới có hy vọng nhận được tin vui.
Bởi đâu mà mọi người ưa những chuyện thị phi? Chính vì lý do ngu si. Bởi đâu mà sanh tâm tật đố? Cũng là do ngu si. Bởi đâu mà có tâm hại người? Là ngu si hết. Phàm làm những chuyện không hợp lý đều do ngu si mà phát sanh ra. Vậy bởi đâu mà có ngu si? Chính vì không chịu tu tập thiền định, nên không có trí huệ, cho nên chúng ta cứ luẩn quẩn trong vòng nhân ngã thị phi, không ra khỏi được. Do đó, chúng ta phải hồi quang phản chiếu, nhìn nhận lỗi mình trong quá khứ, dốc lòng hối cải, thay vì khư khư giữ mãi những tập khí xấu xa mà không chịu buông bỏ.
Tại sao khi ngồi thiền lại buồn ngủ? Bởi cầu Pháp mà lòng không chân thực. Nếu như thành tâm cầu Ðạo thì tuyệt đối không bao giờ buồn ngủ. Quý vị hãy thử kinh nghiệm coi, tôi nói lẽ đó có đúng hay không?
Thiền thất khai thị, tháng 12, 1980
Thiền Ðường Là Ðạo Tràng Tuyển Phật
Mọi người đến Thiền đường dụng công có thể coi như dự một cuộc khảo thí, khảo thử ai là người được quả vị Phật. Làm sao để có thể được trúng tuyển? Cốt yếu họ phải đạt được trạng thái "bên trong không thân tâm, bên ngoài không thế giới", hay nói cách khác đây là cảnh giới:
Nhìn mà không thấy,
Nghe mà không hay
Ngửi không có mùi.
Ai có được công phu này sẽ có hy vọng trúng tuyển.
Tại sao nhìn mà không thấy? Bởi có sự "hồi quang phản chiếu". Tại sao nghe mà không hay? Bởi "phản văn văn tự kỷ" tức quay cái nghe để nghe chính mình. Tại sao ngửi mà không có mùi? Bởi vì thâu nhiếp thân tâm, nên mùi vị không làm cho dính mắc. Ðây là trạng thái khi mắt nhìn sắc mà không thấy sắc, tai nghe tiếng mà coi như không âm thanh, mũi ngửi mùi hương mà không thấy hương, lưỡi nếm mà vô vị, thân xúc chạm mà không cảm giác, ý có pháp mà không dính pháp. Tới được cảnh giới này mới có hy vọng trúng tuyển thành Phật. Chỉ khi nào "trong lò lửa mà sắc vẫn xanh tươi" (lô hỏa thuần thanh), chân đứng trên "đỉnh cao chóp núi", tại "đầu sào trăm thước" mà nhảy tới, chừng đó mới có hy vọng. Bởi vậy, trong chốn Thiền đường, chúng ta không thể bỏ phí thời gian. Cổ nhân đã từng nói:
Một tấc quang âm một tấc vàng
Tấc vàng khôn đổi tấc quang âm
Vàng mất rồi ra còn kiếm được
Quang âm để mất biết tìm đâu.
Chúng ta phải nắm lấy thời cơ, cố gắng dụng công tu hành. Pháp tu thì có nhiều, duy có pháp "tham thiền" là cao siêu hơn cả. Trong pháp môn này, nếu dụng công cho tới mức độ chín mùi thì có thể làm một cuộc xoay chuyển hoàn toàn, có thể "bội trần hiệp giác", và được trúng tuyển thành Phật.
Người tu Ðạo Bồ-tát có thể bỏ cả nước, cả nhà, cả vợ con. Bên trong thân thể còn có thẻ bỏ cả đầu, mắt, não tủy, chỉ một lòng lo cho chúng sanh, bố thí mọi thứ mà không tiếc. Nếu được trang bị một trạng thái tinh thần như vậy, thì tại "trường tuyển Phật" mới có hy vọng được trúng tuyển. Quý vị nên biết rằng đây là sự tuyển chọn của chư Phật, tuyệt đối công minh, không thể nhờ cậy vào sự cầu may mà phải nhờ vào công phu chân thực của chính mình mới được.
Phật tuyển lựa Phật, chẳng phải ma tuyển lựa Phật, nhưng ma giúp Phật. Phật thì trực diện giáo hóa chúng sanh, còn ma thì giáo hóa gián tiếp, giáo hóa bằng mặt trái, thúc đẩy chúng ta phát đại nguyện lực, giúp chúng ta nỗ lực tu hành. Cho nên ma chính là khuôn mặt khác của Thiện tri thức. Tôi thường nói:
Ma mài dũa đường Ðạo
Chân Ðạo mới có ma
Càng mài thì càng sáng
Càng sáng càng thêm mài
Mài như trăng trong sáng
Giữa trời chiếu quần ma
Ánh sáng chiếu tan ma
Bổn lai Phật xuất hiện.
Cho nên chúng ta không nên đối xử với ma như một kẻ thù mà coi ma cũng như một Thiện tri thức. Quán tưởng cách đó, chúng ta sẽ an tâm mà tránh được phiền não. Tỷ dụ có người nói xấu ta, người đó là Thiện tri thức của ta. Một việc ta làm đúng, nhưng có người bảo ta làm không đúng, ta lại càng cố làm cho đúng thêm một mức nữa, như câu nói: "Tới đầu sào trăm thước, còn dấn thêm bước nữa". "Thấy được lỗi của ta, người đó là thầy ta", chúng ta phải coi người nào kiếm ra lỗi lầm của mình chính là thầy của mình, chúng ta phải tạ ơn người đó, chớ không phải coi người đó là kẻ thù.
Chư Phật không phải hồ đồ như chúng ta, do đó nếu chúng ta cứ mang mãi cái diện mạo giả dối, thì không bao giờ có thể được tuyển lựa thành Phật. Chúng ta phải chân thành cầu cái chân thực, đã chân thực còn cần phải chân thực hơn, phải "chân, chân, chân, chân, chân, chân, chân!" bẩy lần chân mới mong được tuyển chọn. Ðó là "thất chân bát chánh", trong thiền thất 7 ngày phải chân thực tu hành, đến ngày thứ 8 là cải tà quy chánh. Tới lúc đó bao nhiêu tập khí xấu cùng một lượt quét sạch để tới chỗ tịnh khiết hoàn toàn!
Thiền thất khai thị tháng 12 năm 1980
Trong Tứ Thập Nhị Chương Kinh có câu: "Cúng dường ba đời mười phương Phật không bằng cúng dường một Ðạo nhân vô tâm". Thế nào là Ðạo nhân vô tâm? Chính là nói về người tham thiền tại Thiền đường, người nào không có tâm cầu danh cầu lợi, ai đã diệt trừ được năm gốc rễ của địa ngục, tức là tiền tài, sắc dục, danh tiếng, ăn và ngủ, không có tâm gì, không có niệm gì khác, trong lúc ngồi tham thiền. Ðược như vậy gọi là Ðạo nhân vô tâm.
Muốn thực sự hoằng Pháp tại Tây phương này thì phải theo pháp môn "Vô tâm Ðạo nhân". Nói như vậy không phải là mong cầu một sự cúng dường dành cho "vô tâm Ðạo nhân", bởi có chủ ý được cúng dường tức là đã có tâm rồi. Do đó thời gian tu ở Thiền đường là thời gian chúng ta thực sự tu thiền tập định, không thể để các vọng tưởng ào tới cái nọ tiếp theo cái kia, như các hình trên màn điện ảnh diễn ra trước mắt, như vậy là xa Ðạo cả mười vạn tám ngàn dặm. Quý vị càng đi thì càng xa quê nhà, quý vị biến thành một kẻ lang thang du tử, đáng tội biết bao!
Chúng ta tu phải cố gắng thực sự, chỉ có thể bằng vào công phu thực của mình. Chớ ham danh tiếng, lợi lộc, tránh tự tuyên truyền mình. Phải tu tập theo tinh thần các Ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm, Ðịa Tạng cùng các Bồ-tát, phải hộ trì Ðạo tràng và giáo hóa chúng sanh. Các vị Bồ-tát thường lấy sự thành tựu của các chúng sanh làm sự thành tựu của chính mình, các Ngài không có sự phân biệt người với ta. Bồ-tát thường nghe thấy rồi tùy hỷ tán thán công đức của mọi người.
Tục ngữ có câu: "Hữu xạ tự nhiên hương, hà tu đại phong dương?". Người tu mà vô tâm tới mức độ cao, tự nhiên sẽ có cảm ứng. Làm việc Phật tức là Phật, làm việc của Bồ-tát là Bồ-tát, làm việc của A-la-hán là A-la-hán, làm việc của quỷ là quỷ, đó là một điều tự nhiên. Người tu Ðạo không thể kiếm đường tắt, hoặc cầu may mà được. Phải thực sự dấn thân, qua từng bước chắc chắn, thành tâm tu tập mới mong có ngày thành tựu Ðạo nghiệp.
Thiền thất khai thị tháng 12, năm 1980
Tham Thiền Là Thực Tập Lục Ðộ Ba-La-Mật
Làm nhiệm vụ Duy-na phải chú ý điều này: Ðến giờ khai tịnh, vị Duy-na phải gõ một tiếng khánh báo hiệu, để mọi người chuẩn bị đứng dậy; khi thấy tất cả đã chuẩn bị xong bèn gõ thêm một tiếng khánh nữa, tức thì tất cả đồng loạt đứng lên, tiếp theo là hai tiếng mõ báo hiệu bắt đầu bước đi. Khi chạy hương thì phải chia ra làm hai vòng, vòng ngoài dành cho người chạy mau, vòng trong cho những ai chạy chậm. Ðây là một cách thức điều hợp, cốt sao cho tất cả cùng theo được dễ dàng, người chạy mau hay chạy chậm đều thích nghi. Người ta nói: "Xiết quá thì chặt, lơi tay thì lỏng; chẳng chặt chẳng lỏng mới nên công", ý nói không chấp vào một pháp nào nhất định, mà phải linh động.
Trong Kinh Kim Cang có câu: "Không có pháp nào nhất định có tên là A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề". Muốn một cái gì cố định tức là tạo thành vấn đề.
Kinh Kim Cang còn có câu: "Các pháp là bình đẳng, không có cao thấp". Do đó người tu cũng phải bình đẳng. Tuy rằng Phật có Tam Thân, Tứ Trí, Ngũ Nhãn, Lục Thông, nhưng Phật vẫn tự coi như không có gì khác với chúng sanh, do đó có câu nói: "Tâm, Phật, chúng sanh, cả ba không có sai biệt", tâm là Phật, Phật là chúng sanh; chúng sanh là Phật, Phật là tâm.
Chạy mau cũng tham thiền, chạy chậm cũng tham thiền, tự liệu sức của mình mà theo. Cốt ở chỗ tự nhiên, không kiểu cách, không có chút gì miễn cưỡng, cứ như thế dụng công, kiên nhẫn. Sống lưng thấy khó chịu, chân có đau, cũng đừng quan tâm. Thứ gì cũng không ham, cái đó gọi là bố thí. Thân không làm điều ác, tức là thân nghiệp thanh tịnh; miệng không nói chuyện thị phi, tức là khẩu nghiệp thanh tịnh; tâm không có vọng tưởng, tức là ý nghiệp thanh tịnh. Ba nghiệp thanh tịnh gọi là trì giới. Có thể chịu đựng sự đau, gọi là nhẫn nhục; có thể dụng công liên tục, bất chấp các khó khăn, mà không thối chí, gọi là tinh tấn. Có thể ngồi an ổn chẳng động, mà thường biết rõ ràng, gọi là thiền định. Do định mà phát sanh trí huệ, tức là Bát-nhã. Cả lục độ thành tựu viên mãn vậy là đáo bỉ ngạn, tới bờ giác ngộ.
Ðến khi chỉ tịnh, Thầy Duy-na phải xem chừng khi nào vị ban thủ đi tới đúng chỗ ngồi của người đó thì gõ một tiếng mõ. Khi tất cả đều đến đúng chỗ của họ rồi thì gõ thêm tiếng mõ nữa. Ai nấy ngồi xuống ngay ngắn, sống lưng thẳng, đầu không gục xuống, lưng không cong. Người ta nói "tọa như chung", nghĩa là ngồi như hình cái chuông, đầu ngay, lưng thẳng, tư thế an ổn và vững vàng.
Tham câu "Niệm Phật là ai" không có nghĩa là niệm (recite) câu thoại đầu này. Ðây là tham tức là nghiên cứu cái chữ "ai". Có người bảo: "Tôi biết rồi, niệm Phật là tôi". Như vậy là không đúng! Câu thoại đầu này nếu ta thực sự giải đáp được rõ ràng, tức là ta đã thấy tánh, tìm được cội nguồn của Pháp, nhờ đó mà ta đã về được quê nhà. Thực tế không phải đơn giản và dễ dàng theo như kiểu chúng ta nghĩ: "Chính là tôi đó mà! Tôi đang niệm Phật". Quý vị niệm Phật ư? Vậy khi con người quý vị chết thì còn niệm Phật được không? Quý vị sẽ bảo là "không". Nếu không thì sao lại nói là người niệm Phật là quý vị? Nên nhớ rằng người niệm Phật là không chết, nếu quý vị phải chết thì người niệm Phật không phải là quý vị. Niệm Phật thành Phật, nhưng ai thành Phật? Ai tới quả vị Phật? Quý vị đã chết rồi kia mà!
Bởi vậy, chính tại nơi này quý vị phải tham cứu, tham không buông lơi, cho tới lúc "biển cạn đá tan", cuối cùng sẽ tới ngày "nước chảy, đá hiện", và, trong khoảnh khắc quý vị bừng ngộ: "A! Nguyên lai là như vậy!"
Thiền thất khai thị tháng 12,1980
Phải Thực Tập Công Ðức Vô Tướng
Thiền Ðường là chỗ tuyển Phật, nơi đây là phước điền để gieo trồng công đức. Có câu nói:
Chỉ trong giây lát ngồi tĩnh tọa
Hơn xây hằng sa tháp bẩy báu
Tại sao có thể nói như vậy? Bởi việc xây dựng chùa tháp chỉ là công đức có hình có tướng.
Trong Kinh Kim Cang có câu:
Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng
Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như lai.
Tạm dịch:
Phàm có tướng đều là hư vọng
Nếu thấy mọi tướng không tướng, tức thấy Như lai.
Công đức do ngồi tĩnh tọa dù trong chốc lát cũng không bao giờ mất. Có người nói: "Vậy tôi khỏi làm những công đức ở bên ngoài, tôi chỉ làm công đức bên trong". Nghĩ như vậy là sai. Phải làm cả hai loại, vừa tu công vừa tu đức, cho tới lúc công đức được tròn đầy, phước và huệ đều đầy đủ, mới thành "Lưỡng Túc Tôn" được.
Nên nhớ rằng xây dựng chùa miếu, thì chùa miếu lâu ngày cũng sẽ bị biến hoại theo thời gian; tạo được tháp, tháp cũng bị cháy tiêu khi có hỏa hoạn. Duy ngồi tĩnh tọa là có thể mang tự tánh của Tam bảo Phật Pháp Tăng đi đến chỗ thành tựu, đó là công đức vô lậu, bất chấp mọi thứ gió mưa, hỏa hoạn, muôn đời không mất, do đó công đức vô tướng có giá trị gấp muôn vạn lần hơn công đức hữu tướng.
Ngồi tham trong chốn Thiền đường, xả bỏ mọi vọng tưởng, lấy tâm chân thật để tu tập, thì công đức ấy là vô lượng. Ngược lại không được như vậy thì chẳng có ích lợi gì, cho nên có câu nói: "Công đức tĩnh tọa dù trong giây lát còn giá trị hơn là công xây tháp nhiều như cát sông Hằng".
Quý vị đến đây tham dự Thiền thất, đều là những người có sẵn căn lành nên mới gặp được nhân duyên này, để cùng tham thiền chung với nhau. Nay, chúng ta hãy giữ lòng thanh tịnh, đừng theo lối "tâm viên ý mã" để cho tư tưởng chạy ra bên ngoài. Như vậy là không đúng với Ðạo, bỏ uổng thời gian bẩy ngày trôi qua, không có ích lợi gì, để phụ chính lòng mình khi mới tới. Phải tìm cách chế ngự vọng niệm cho tâm được an tịnh. Có câu rằng:
Tâm thanh, trăng hiện đáy nước
Ý định, trời không vẩn mây
Nhằm mục đích này, sang năm (năm 1982), một khóa thiền kéo dài mười tuần Thiền Thất sẽ được cử hành, thời gian tĩnh tọa là bảy mươi ngày. Hiện nay trên toàn thế giới, không thể kiếm ở đâu ra một Ðạo tràng mà người ta tham thiền trong bảy mươi ngày liên tục như vậy.
Vạn Phật Thánh Thành muốn sửa đổi thời Mạt Pháp thành thời Chánh Pháp nên mới xả thân mạng lo việc tu hành, dụng công cho Ðạo. Nếu như có ai thực lòng tu, thì chỉ có thể tới Vạn Phật Thánh Thành họ mới có được cơ hội này. Các nơi khác thì tu hời hợt, công phu chỉ là làm cho qua chuyện. Theo danh nghĩa thì cũng là Thiền Thất, nhưng trên thực tế thời gian biểu không giống nhau. Tại Vạn Phật Thành mỗi buổi từ 2 giờ rưỡi sáng đã bắt đầu đi hương, cho tới 12 giờ đêm mới nghỉ, và trong khoảng thời gian này chỉ có một tiếng đồng hồ là gián đoạn mà thôi. Ðây là quy lệ của chúng ta về Thiền Thất.
Thiền thất khai thị tháng 12 năm 1980