Tủ Sách Thientamism

Khai Thị - Quyển 5 - Hòa Thượng Tuyên Hóa - Phần 6

Đăng lúc: 00:23 AM 17/05/2018 0   1743

Cùng Chủ Đề

Phương Pháp Học Thuộc Lòng Chú Thủ Lăng Nghiêm
Chú Lăng Nghiêm (tiếng phạn: Shurangama Mantra) – Thần Chú Uy Lực...
Phật Nói Uy Lực Của Lăng Nghiêm Thần Chú
Phật nói về uy lực của Thủ Lăng Nghiêm Thần Chú.Khi nào còn...
Sự Tích Những Cộ Bông Trong Hội Yến Diêu Trì
(NGÀY 15 THÁNG 8 BÍNH THÂN)CỘ BÔNG HÌNH ĐỨC PHẬT MẪU VÀ CỬU VỊ...

Nhân Duyên Xuất Gia Của Hành Giả Quả Tá

 

Hồi tôi trụ tại chùa Tam Duyên, thuộc trạm Bình Phòng, cách Cáp Nhĩ Tân (Harbin) khoảng 30 dặm về phía Nam, có một hôm trong lúc thiền quán tôi biết ngày hôm sau sẽ có một chú nhỏ đến xin xuất gia. Sáng ngày hôm sau, tôi dặn đệ tử của tôi là Quả Năng: "Hôm nay có một chú nhỏ đến xuất gia, khi nào chú nhỏ tới thì báo cho tôi biết".

Tới trưa hôm đó, Quả Năng đến phòng của tôi báo cáo với giọng nói vùng Sơn Ðông: "Trình sư phụ! Cái chú nhỏ mà Sư phụ nói, quả nhiên y đã đến!" Tôi đi ra phía trước thì thấy có một đứa con trai nhỏ, khoảng chừng 12 hay 13 tuổi, dung mạo toàn vẹn, thân thể tráng kiện, rõ ra tướng của một Tỳ kheo. Khi thấy tôi thì cảm tưởng của y giống như là gặp lại được một người thân đã từ lâu xa cách, y không dằn được tình cảm, bèn khóc lên vui sướng tột độ.

Tôi mới hỏi: "Tại sao chú muốn xuất gia?" Chú nhỏ đáp: "Bởi con có bệnh (hồi 5 tuổi chú nhỏ đã chữa được bệnh cho người ta, nhưng bệnh của mình thì không chữa được), thầy thuốc đã khám nhưng không tìm ra nguyên nhân, nên không biết thuốc nào chữa được. Cha mẹ con rất lo âu, tìm thầy chạy thuốc khắp mọi nơi nhưng chẳng có hiệu quả gì. Có một đêm, trong ba lần nằm mơ con đều thấy cùng một cảnh trong mộng. Con thấy một vị Tăng, người mập mạp, nói với con rằng bệnh của con không có hy vọng gì chữa khỏi, trừ phi con đến chùa Tam Duyên ở Cáp Nhĩ Tân, kiếm được Pháp sư An Từ rồi theo người xuất gia tu hành thì bệnh sẽ hết mà chẳng cần thuốc. Con ghi nhớ rõ ràng như vậy, bẩm với song thân của con để xin phép, rồi mới tới đây, để thỉnh cầu Pháp sư An Từ mở lượng từ bi thâu nhận con làm đệ tử".

Tôi cười và hỏi tiếp:

- Chú quen biết Pháp sư An Từ ư?

- Con không quen biết.

- Chú đã không biết thì làm sao kiếm được ông ấy? Ở đây không có người nào là Pháp sư An Từ cả.

Chú nhỏ nói một cách hết sức tin tưởng:

- Có chứ! Khi con vừa vào tới cửa chùa thì nhận ngay ra vị Tăng mập trong giấc mộng và bây giờ ông ấy đang ngồi ở chỗ này đây (y trỏ tay vào tượng của Bồ-tát Di Lặc). Ông ấy không có nói dối con đâu. Chính ông ấy bảo con tới đây, không sai mà!

Tôi hỏi tiếp:

- Giấc mộng của chú, có gì làm căn cứ để người ta tin? Hay là chú không có áo mặc, không có cơm ăn, không có nơi ở, nên chú muốn xuất gia?

Chú nhỏ quả quyết:

- Không phải vậy! Con theo đúng như sự chỉ dẫn của vị Thầy mập này (chú ta chỉ vào tượng của Ngài Di Lặc), bảo con kiếm cho được Pháp sư An Từ, vì chỉ có ông ấy mới chữa bệnh được cho con mà thôi. Vì lẽ ấy, trên một tháng nay, con đi bộ hơn một ngàn dặm đường (thuở ấy Nhật Bổn vừa đầu hàng vô điều kiện và đường xe lửa miền Mãn Châu chưa lưu thông trở lại). Có lúc con đi qua lữ điếm, rồi phía trước lại không có làng mạc nào, con đành phải ngủ ở giữa đồng trống. Ðể tranh thủ thời gian, con chỉ biết đi cho tới, chẳng kể đến chuyện gì khác. Có một đêm, con nằm ngủ ở trong một bãi ruộng, chợt có một đàn sói đến vây xung quanh, nhưng con không sợ hãi, con nói với chúng nó rằng: "Chúng bay đi khỏi ngay lập tức! Nếu không đi, tao sẽ không nhân nhượng, cho tụi bay ăn cái quả này (quả lựu đạn)!". Ðàn chó sói nghe xong, liền ngoan ngoãn bỏ đi.

Chú nhỏ kể xong câu chuyện thì nhìn tôi bằng ánh mắt khẩn cầu. Tôi lại muốn thử lòng coi y có thành tâm không. Tôi lấy một miếng bánh mì cho vào miệng nhai nát ra rồi nhổ xuống đất. Tôi bảo chú nhỏ: "Hãy lượm nó lên và ăn đi! Ăn xong rồi sẽ tính". Chú nhỏ không hề do dự, cũng chẳng nề hà lượm miếng mì đầy nước miếng dơ dáy lên, nuốt luôn vào bụng. Thấy thử lòng như vậy cũng đủ chứng minh chú có thành tâm và thiện chí muốn xuất gia, do đó tôi ưng thuận cho chú nhỏ thọ giới Sa di.

Sau ngày thọ giới - giới Sa di - chú dụng công tu hành, hăng hái học tập, không hề lười biếng, cũng không buông thả, và, chưa đầy nửa năm đã chứng được Ngũ nhãn Lục thông, bản lĩnh thì rất cao, có thể nói là thần thông quảng đại. Ðấy chẳng phải là điều nói ngoa, tuyệt đối là sự thực. Những người ở đấy, ai ai cũng biết vị tiểu Sa di đó có thần thông. Rất tiếc về sau này, y sanh tâm kiêu ngạo (cống cao ngã mạn), trong lòng tự mãn, cho rằng mình là hay ho lắm, nên các thứ thần thông cũng không cánh mà bay mất, có muốn biểu diễn thần thông cũng không được nữa.

Chúng ta là kẻ tu hành phải nên chú ý điểm này. Có thần thông cũng hay, mà không thần thông cũng hay, chớ bao giờ nên sanh lòng kiêu ngạo, sanh tâm chấp trước, càng không thể lấy chuyện đó để tự quảng cáo mình. Chủ yếu là phải an phận với mình, tinh tấn và thực tâm tu hành, ra công gắng sức mới là công phu chân chánh. Công phu hời hợt mà đã chấp vào, nào những thanh âm này, những cảnh giới kia, cho là ghê gớm lắm! Ðiều đó tuyệt đối chớ mắc phải, bởi như vậy là cách Ðạo cả mười vạn tám ngàn dặm xa!

Khai thị tại Vạn Phật Thánh Thành, Vạn Phật Ðiện

Thiền thất từ ngày 16 đến 23 tháng 7 năm1981

 

 

Nhân Duyên Xuất Gia Của Hành Giả Quả Thuấn 

 

Quả Thuấn quê ở thị trấn Cáp Nhĩ Tân (Harbin) thuộc tỉnh Cát Lâm, vốn giòng họ Diêu, chuyên nghề nông. Túc duyên đã có thiện căn, sớm cảm thấy trần thế lắm cảnh khổ, thế gian đầy tội ác, nên lòng đã chớm ý tưởng xuất gia. Y đi khắp các nơi cầu gặp được Minh sư. Một hôm, trên đường đi y bị lính Nhật bắt (hồi đó Nhật chiếm đóng Mãn châu). Họ cho rằng y là kẻ du đãng không nghề nghiệp nên đưa y đi lao công cưỡng bách tại biên giới.

Nơi ấy là một trại lao công tại Hắc Hà. Ngày ngày y mơ tưởng trốn trại, nhưng không sao có được cơ hội trốn đi. Số là xung quanh trại là một vòng hàng rào điện, kẻ nào đào tẩu nếu chẳng bị súng của lính canh bắn hạ, cũng bị đàn chó gác cắn chết, mà dù có qua được hai cửa ải này thì cũng bị điện giựt chết tại hàng rào nói trên. Như vậy trại lao công đúng là một địa ngục trần gian, khổ không thể nào nói hết.

Một buổi tối, Quả Thuấn thấy trong giấc mơ một ông lão râu dài nói với y rằng: "Ðêm nay chính là cơ hội cho ngươi thoát khỏi cái lồng giam này. Ở ngoài cửa có một con chó mầu trắng, ngươi cứ đi theo nó mà trốn!" Giật mình tỉnh giấc, y rón rén đi tới cửa nhìn ra, quả nhiên ở đấy có một con chó trắng đương chờ đợi. Y bèn theo sau con chó, lọt khỏi vòng rào điện một cách an toàn, rồi trốn về tới tận quê nhà.

Từ chỗ chết, Quả Thuấn may mắn được cứu sống, y lại nhận rõ bộ mặt thật của cảnh hồng trần, nên quyết chí xuất gia tu Ðạo.

Năm 1944, tôi đi tới thôn Ðại Nam Câu để chữa bệnh cho mẹ của một cư sĩ họ Cao. Ngày hôm sau đã có tin đồn rằng bà ấy khỏi bệnh một cách kỳ diệu. Ngày ấy, nghe được tin này, Quả Thuấn liền đến để xin bái tôi làm Thầy. Y quỳ gối xuống, không chịu đứng dậy, tôi thấy y thành tâm, nên ưng thuận cho y xuất gia để cho y được thỏa nguyện. Tôi có mấy lời khai thị như sau:

"Tại gia tu hành không phải là dễ, xuất gia còn khó hơn nữa. Có câu nói: ?Ðại sự chưa rõ thì giống như đưa ma mẹ; Ðại sự rõ rồi càng giống như đưa ma mẹ?. Người tu hành còn phải nhẫn những điều người ta không thể nhẫn được, chịu đựng những gì người ta không thể chịu đựng được, ăn những gì người ta không thể ăn được, mặc những gì người ta không thể mặc được. Phải chuyên cần tu Giới Ðịnh Huệ để tận diệt tham sân si, đó chính là bổn phận của một Sa môn." Tôi có đọc mấy câu kệ sau:

Niệm niệm chẳng quên khổ sanh tử

Tâm tâm mong thoát cảnh luân hồi

Hư không tan vụn thấy Phật tánh

Toàn thể rơi rụng nhận gốc nguồn.

Lại khai thị thêm:

"Hiện nay là thời Mạt Pháp, kẻ xuất gia thì nhiều nhưng kẻ tu hành thì ít; tin Phật thì nhiều, nhưng thành Phật thì ít. Nếu con đã phát nguyện xuất gia, điều cốt yếu là phải phát Bồ-đề tâm, nguyện làm ngọn đèn sáng đứng trước đầu gió, như thỏi vàng ròng trong lò lửa, chớ có phụ tấm lòng lúc ban sơ, ngươi phải cẩn thận!"

Quả Thuấn khấu đầu đảnh lễ, rồi theo tôi về chùa Tam Duyên thọ giới Sa-di, với pháp danh là Quả Thuấn. Sau đó, Quả Thuấn tinh tấn tu hành, nghiêm trì giới luật, không giải đãi, không phóng dật, chuyên chú một lòng dụng công tham thiền. Mỗi lần nhập định trải qua trên một ngày một đêm mới xuất định, và trong định chú còn biết hết dòng nhân quả từ quá khứ, hiện tại đến vị lai. Cảnh giới chú đạt được quả thực là bất khả tư nghì.

Tháng 9 năm 1945, Quả Thuấn dựng một căn lều cỏ để làm nơi tu hành, ở phía bên trái của miếu Long Vương, dưới chân núi Tây Sơn, trong địa phận Ðại Nam Câu. Khi làm xong, tôi dẫn một số đệ tử Quả Năng, Quả Tá, Quả Thực v.v... đến để làm lễ khai quang. Ngay trong đêm có mười vị Long thần đến xin quy y. Tôi nói với họ rằng:

- Các vị có bổn phận làm mưa, được người đời cúng dường. Nay trời hạn hán như vậy, sao không làm mưa đi?

Các vị Long thần đồng thanh đáp:

- Nếu không có sắc chỉ của Ngọc Hoàng Thượng Ðế, các tiểu thần chúng tôi đâu dám làm mưa!

- Các vị hãy thay tôi tâu với vua Ðế Thích (Ngọc Hoàng Thượng Ðế) để sao cho có mưa vào ngày mai, rồi sau đó tôi sẽ nhận cho các vị quy y.

Ngày hôm sau, quả nhiên trời mưa lớn, giải trừ cơn hạn hán khiến nông dân vui sướng vô cùng, tổ chức ăn mừng cảm tạ các vị Long thần và vui chơi thỏa thích.

Cũng là nhân việc khai quang cho căn lều cỏ của Quả Thuấn mà có câu chuyện trên, nên tôi đặt tên cho căn lều này là "Long Vũ Mao Bồng" để ghi lại chút kỷ niệm.

Trong căn nhà cỏ này có ba người cùng tu với nhau, cùng là đồng thôn với nhau cả. Một người họ Lưu, một người họ Dương, cả hai theo Quả Thuấn công phu sớm tối, lấy tụng Ðại Bi Chú làm công khóa chính. Về sau, ông họ Lưu xuất gia làm Tăng, còn ông họ Dương thì bị đăng vào lính, gia nhập đệ bát lộ quân. Ở trong quân ngũ, ông họ Dương vẫn luôn luôn gởi thư về nhà, nhưng về sau thì bặt tin hoàn toàn, khiến gia đình buồn phiền ngờ rằng y không còn tại thế.

Năm 1948, một hôm Quả Thuấn cùng ông họ Cao tụng Chú Ðại Bi trong căn nhà cỏ, hốt nhiên nghe có tiếng ai gõ cửa, và, khi mở cửa thì đó là ông cư sĩ họ Dương. Ông đã trở về, nhưng không nói năng gì mà đi ra phía sau nhà. Quả Thuấn trở vô tiếp tục tụng Chú Ðại Bi. Tụng xong, Chú đi ra phía sau để gặp ông Dương, tính hỏi chuyện coi hai năm qua ông ở những chỗ nào? Chẳng dè khi bước vào buồng phía sau thì chẳng thấy ai ở đây, chỉ thấy một con chồn vẫy đuôi và chạy mất.

Số là Quả Thuấn trì Chú Ðại Bi, nên có đủ oai đức thành thử không bị giống hồ ly (cáo, chồn) mê hoặc, bởi vậy nó phải hiện trở lại nguyên hình là giống chồn. Ðại khái câu chuyện xẩy ra là ông họ Dương đã chết tại chiến trường, não bị chồn ăn và vì đó mà chồn hiện thành hình ông ta để mê hoặc người khác. Nó có ngờ đâu rằng định lực của Quả Thuấn đã tới trình độ cao, không dễ gì bị giao động, tà không lấn át được chánh, nên con chồn tinh thấy khó làm gì nổi đành phải rút lui. Như vậy cho thấy rằng người tu cần có những cảnh huống đó để thêm kinh nghiệm và cần phải cảnh giác đừng để ngoại cảnh lay chuyển.

Năm 1945, vào dịp lễ Vu Lan ngày rằm tháng 7 âm lịch, tôi cùng các đệ tử dâng hương trước Phật đài. Tôi có khấn nguyện rằng: "Nếu tôi sống tới một trăm tuổi, tôi nguyện tự thiêu thân này cúng dường Phật để cầu Ðạo vô thượng". Lúc bấy giờ, tất cả các đệ tử đều phát tâm nguyện như vậy. Riêng Quả Thuấn phát nguyện: "Ðệ tử Quả Thuấn, nếu gặp được cơ duyên thích hợp, nguyện theo gương Bồ-tát Dược Vương, thiêu thân cúng Phật, không chờ tới năm một trăm tuổi". Trong lúc thiền quán, tôi đã biết rằng trong tiền kiếp Quả Thuấn đã từng có lời nguyện đó, nên tôi nhận cho y phát nguyện như trên.

Quả Thuấn nhận rõ cảnh thế gian vô thường, Phật giáo suy vi, trong lòng cảm thấy bi thương vô hạn, không cách gì tả xiết, do đó vào ngày 18 tháng 4 năm 1949, chú đã nguyện tự thiêu, hiến thân cho Phật Giáo. Chú chuẩn bị củi tẩm bằng dầu đốt, rồi ngồi ngay phía trên, tự đốt thân mình. Ngày hôm sau, dân trong thôn xóm mới biết, đến nơi quan sát thấy toàn thân Quả Thuấn đã thành tro, chỉ có trái tim là không bị đốt cháy. Người trong thôn lấy làm kính ngưỡng, đem khối tro tàn cùng trái tim chôn ngay tại chỗ.

Khai thị tại Vạn Phật Ðiện. Vạn Phật Thánh Thành

Thiền Thất từ ngày 16 đến 23 tháng 7 năm1981

 

 

Sáu Ðại Tông Chỉ Của Người Tu Ðạo

Kẻ tu hành phải có con mắt trạch pháp ("Trạch Pháp nhãn" hay "Dharma-selecting vision"), mới có thể chọn lựa thứ gì là chánh pháp, thứ gì là tà pháp. Chánh phápla?hông tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối. Ðây là sáu đại tông chỉ, người tu Ðạo noi theo sẽ có được chánh tri và chánh kiến. Ngược lại, tà pháp chính là tranh, tham, cầu, ích kỷ, tự lợi, nói dối. Nếu có sáu thứ đó thì sẽ có tà tri tà kiến. Ðây là điểm then chốt, là đường phân ranh giữa hai phía, hướng tới phía trước là Chánh pháp, về phía sau là tà pháp. Chúng ta phải nhận cho rõ điểm này.

Giả như không có tà tri tà kiến thì chỉ cần giữ định lực kiên cố, ma vương sẽ không có cách gì quấy phá ta, không thể làm cho tâm ta lay động. Có câu rằng: "Phật đến giết Phật, ma đến giết ma". Câu này là nghĩa thế nào? Ðây chỉ là lời khuyên ta không nên quá chấp vào cảnh giới. Thấy Phật đến mà cũng không tiếp nhận hình ảnh này, huống chi là thấy ma! Tuy rằng trong nhiều trường hợp các cảnh giới đó là những tin báo trước, rất linh ứng, nhưng chúng ta cũng không nên tin vào. Ðiều mà chúng ta cần tin tưởng chính là sáu đại tông chỉ, chẳng tranh, chẳng tham, chẳng cầu, chẳng ích kỷ, chẳng tự lợi, chẳng nói dối. Ðó chính là lưỡi gươm chém ma, cái chầy hàng phục ma vậy.

Như có đủ chánh tri chánh kiến thì dầu có được chư thiên hiện thân đến cúng dường, và cung kính khấu đầu, người tu cũng không động tâm. Rủi có sự động tâm hay sanh tâm hoan hỷ, thì loại ma hoan hỷ sẽ thừa cơ đến phá, làm người tu phát cuồng. Rủi có tâm u sầu thì loại ma u sầu sẽ đến làm cho tâm nhiễm phiền não, hoặc có khi sanh tâm chấp trước, tâm ngã mạn. Tất cả những thứ đó đều do ma quấy phá, khiến cho tâm mất sự thanh tịnh.

Bởi vậy cho nên hễ gặp bất cứ loại cảnh giới kỳ quặc nào, người tu cũng không nên tin, không để cho tâm động. Chỉ nên tin vào trí huệ của mình, tin rằng tự tánh có thể sanh ra vạn pháp, tự tánh bổn lai là thanh tịnh, bổn lai không bị nhiễm ô, bổn lai không điên đảo. Như vậy thì còn cái gì để mong cầu nữa? Phàm có sự cầu mong là có sự nhiễm ô; có tranh, có tham, có ích kỷ, có tự lợi, có nói dối tức là có nhiễm ô. Gặp bất cứ pháp nào chúng ta đều có thể lấy sáu tông chỉ lớn đó làm thước đo, để quan sát, thứ nào hợp là Chánh pháp, thứ nào không hợp là tà pháp.

Sáu đại tông chỉ có thể phá tà tri tà kiến của thiên ma ngoại đạo. Tất cả những hành vi tạo tác của thiên ma ngoại đạo đều có tính cách sở cầu, chủ ý để tranh, tham, cầu, ích kỷ, tự lợi, nói dối, cho chính mình chẳng phải cho tha nhân. Ðó là những tư tưởng thuộc về hàng bàng môn tả đạo.

Người tu Ðạo phải tích lũy công, bồi đắp đức hạnh, nhưng không được chấp trước những điều đã thực hiện, như câu thường nói: "quét sách mọi pháp, ly hết mọi tướng", chớ không thể nói rằng: "Tôi làm công đức này, tôi tu hành như thế kia" hay nói: "Tôi đã đạt tới cảnh giới này, tôi có pháp thần thông kia". Cho rằng có những thứ đó, nhưng xét kỹ chúng đều là hư dối, không nên tin, không thể bị mắc vào. Nếu tin vào nhưng điều kỳ dị, những pháp thần thông thì người tu không thể vào được chánh định, chánh thọ (tức Tam-muội). Nên hiểu rằng chánh định, chánh thọ không phải từ bên ngoài mà có được, nó phải từ trong tự tánh mà sanh ra. Bằng cách nào người tu đạt được? Ðó là do công phu hồi quang phản chiếu, quay lại nơi mình (phản cầu chư kỷ), chánh định chánh thọ mới thành tựu được.

Vạn Phật Thánh Thành là nơi tụ hội của muôn vạn bậc thánh. Tuy nhiên bốn phía xung quang Thành lại có những ma vương đương chờ cơ hội để nhập vào. Nếu như người tu mà tâm không thanh tịnh, trong đầu chỉ toàn là vọng tưởng thì ma vương sẽ thừa cơ lẻn đến xúi bẩy, tỷ dụ như chúng làm cho người tu tiên đoán chuyện này chuyện nọ. Nếu người tu lại tin rằng đó là thần thông mình đạt được, thì chính người đó đã bị cho vào tròng, thành kẻ quyến thuộc của Ma vương.

Cũng như khi nghe được một thanh âm nào, quý vị đã vội cho rằng đó là lời trong hư không. Thật ra hư không chẳng có tiếng nói, mà phải biết rằng: "lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng tâm theo duyên". Giả tỷ nghe thấy thanh âm của hư không, đó chỉ là cảnh giới ma chớ không phải do "Ðại Viên Kính Trí" mang lại. Có xá gì một chút tin tức nhỏ nhoi không đáng kể!

Tâm tư của người tu phải thanh tịnh. Chớ tham cầu khả năng dự tri. Dự tri chẳng mang lại điều gì hay mà ngược lại chỉ gây thêm phiền phức, khiến cho chúng ta phân tâm, không tập trung được tinh thần, do đó vọng tưởng sẽ rối bời và phiền não thêm chồng chất. Nếu chẳng có dự tri, quý vị sẽ không có phiền não, tâm không bị chướng ngại. Tâm Kinh có nói: "Bởi không chướng ngại, nên không sợ hãi, ly hết mọi mộng tưởng điên đảo, Niết-bàn cứu cánh". Ðây mới chính là mục tiêu của hành giả trên con đường tu Ðạo.

 

 

Tham Miết Sẽ Tự Nhiên Khai Ngộ 

 

Phép tắc ngồi tham thiền là mắt trông xuống mũi, mũi quán miệng, miệng quán tâm; cách đó dùng để chế ngự tình trạng tâm ý lăng xăng như câu người ta nói "tâm viên ý mã", và cốt giữ cho tâm khỏi hướng ra ngoài tìm kiếm. Trong Thiền đường, hành giả không được nghiêng ngó đông tây, vì nếu cứ như vậy thì tâm sẽ bắt theo cảnh bên ngoài mà không thể nào tham được. Ðiểm này là chỗ quý vị phải đặc biệt chú ý! Thời gian của thiền thất là vô cùng quý giá, một phút một giây cũng không thể bỏ phí, quý vị phải nắm lấy cơ hội đó mới có thể phát triển trí huệ.

Người tu hành chớ nên trân quý cái túi da hôi thối này. Phải lìa ý nghĩ đó mới có thể dụng công tu hành; Nếu không lìa được nó, người tu sẽ biến thành nô lệ của nó và từ sớm đến tối chỉ phục vụ nó mà thôi. Do đó người tu hành chân chánh phải coi nó như một túi da hôi thối, nghĩa là tránh sự coi trọng nó. Coi nó là quan trọng thì sẽ có chướng ngại trên đường tu. Chúng ta phải "mượn cái giả, tu cái thiệt", tức chỉ coi nó là một phương tiện.

Trong lúc tham, điều tối kỵ là ngủ gục. Có hai loại bệnh mà đa số thiền sinh thường mắc phải, một thứ là trạo cử, một thứ là hôn trầm; nếu như tâm không bị vọng tưởng, thì lại bị cảnh hôn trầm. Bởi vậy khi dụng công phải vận dụng hết tinh thần để tham, tuyệt đối không để cho ngủ gục. Nếu đã vào định rồi thì đó là chuyện khác.

Công phu tham thiền sẽ dẫn tới chánh định chánh thọ, cái đó cũng gọi là tam-muội. Nếu như chứng được thì đây là cảnh giới "như như bất động, liễu liễu thường minh". Làm sao đạt được? Tất phải một phen khổ công, tinh tấn vượt mực, trong tâm không một vọng tưởng, cho đến lúc "một niệm chẳng sanh, toàn thể hiện", cuối cùng thấy được "bổn lai diện mục, bổn địa phong quang".

Chìa khóa của tham thiền là thoại đầu. Niệm trước niệm sau là tham thoại đầu. Tham miết sẽ tự nhiên khai ngộ, tham cho đến lúc "sơn cùng thủy tận", tự nhiên sẽ có tin vui, cảnh giới "hoa tươi dưới liễu" sẽ xuất hiện trước mắt. Có người nói: "Tôi đã tham dự bao nhiêu lần thiền thất, chẳng biết tại sao tôi không khai ngộ?". Nguyên do vì bạn chẳng chịu khổ công mà lại cứ mong cầu sự khai ngộ. Nên hiểu rằng khai ngộ là kết quả của sự tích lũy công phu. Lâu dần công đức viên mãn, thời gian tới nơi, tự nhiên bạn được khai ngộ. Bạn không có công phu gì, mà lại muốn khai ngộ thì đó là một vọng tưởng si mê, chẳng khác gì "ếch nhái mà muốn thưởng thức thịt thiên nga", một chuyện không thể thực hiện được.

 

 

 Tu Ðạo Không Nên Tranh Hơn 

     Hiện nay trong Thiền Thất, các hành giả dụng công nhưng là loại công phu hời hợt. Người ta coi thiền như là một cuộc đua, để tranh nhau về nhất. Anh có thể ngồi trong ba tiếng đồng hồ thời tôi sẽ ngồi trong năm tiếng, hơn anh một bậc. Nếu thiền mà còn mang tâm lý đó thì quý vị ngộ làm sao được? Cho dù quý vị ngồi tới tám vạn đại kiếp cũng không thể nào minh tâm kiến tánh được. Tại sao vậy? Chỉ vì quý vị có tâm hơn thua. Có câu rằng:

            Tranh, do tâm hơn thua

            Là đi ngược với Ðạo

            Trong tâm sanh bốn tướng

            Làm sao đạt tam muội?

    Bốn câu kệ trên dùng để cảnh giác người tu không được sanh tâm tranh. Khi công phu đầy đủ, trí huệ hiển bày, tự nhiên sẽ có người khác phẩm bình đưa ta lên hạng nhất. Như vậy mới là hạng nhất thật sự. Còn như trong tâm quý vị tham đứng hạng nhất, thì đây là tâm hơn thua, đi ngược với Ðạo.

    Người tu hành phải giống như nước. Tánh của nước là khiêm nhượng, không tranh công, không tham đức, cái gì tốt thì để cho người, cái gì xấu thì giữ lấy cho mình. Lão tử nói: Cái thiện tột cùng giống như nước. Nước đem lợi ích cho vạn vật mà không tranh. Nước ở nơi mà mọi người khinh rẻ, do đó nước hợp với Ðạo".

    Thiện tột cùng chỉ những hành giả ưu hạng. Họ được ví như nước. Nước chảy tới những chỗ thấp, nước đem lại lợi ích cho muôn vật mà không tranh công tranh đức. Bất kể đối với loài nào, chim chóc, cá tôm, động vật hay thực vật, bất kể sanh ra do thai, do trứng, do khí ẩm, hay là hóa sanh, nước đều đối xử ngang nhau và cho đều tất cả. Người tu hành cũng vậy, đối với tất cả chúng sanh đều coi như cha mẹ của mình trong quá khứ, như các vị Phật trong tương lai. Người tu phải rải tâm từ bi, tìm các phương tiện để cứu chúng sanh ra khỏi bể khổ; trú ở những nơi mà chúng sanh không muốn trú. Có được những tư tưởng đó thì hành giả đã gần tới Ðạo. Còn như tâm hơn thua là không hợp với tông chỉ của kẻ tu hành, ngược lại với Ðạo vậy.

    Người tu hành không nên có bốn tướng.

    - Ai tu đó? Như tự cảm thấy là không có ai tu, tức là không có tướng ngã (vô ngã tướng).

    - Tự mình không cảm thấy hơn thua với ai, tức là không có tướng của người (vô nhân tướng).

    - Không thấy tướng mình, không thấy tướng người, tự nhiên tướng chúng sanh cũng không (vô chúng sanh tướng).

    - Như đã không có tướng chúng sanh thì lấy đâu ra tướng của thọ mạng? Vậy là vô thọ giả tướng.

    Như nếu còn tư tưởng muốn tranh hơn kém, tất nhiên sẽ có bốn tướng; có bốn tướng thì không sao đạt được tam-muội. Nghĩa lý đó chúng ta phải thực tập, mài dũa cho nhiều. Tóm lại, ai còn bốn tướng là phàm phu, ai không có bốn tướng là Bồ-tát.

    Người tu phải ghi nhớ bốn câu kệ trong Kinh Kim Cang:

            Hết thảy các pháp hữu vi

            Như mộng, huyễn, bọt, hình

            Như sương, như điện chớp

            Nên quán chúng như vậy.

    Phàm cái gì có hình có tướng đều là pháp hữu vi. Pháp hữu vi cũng giống như một giấc mộng, một thứ huyễn hóa, một cái bọt nước, một cái bóng hình, một tia điện chớp, toàn là những thứ hư vọng không có thực chất. Hết thảy mọi thứ đều phải quán như vậy, mới có thể hiểu minh bạch lẽ chân thật, để chúng ta không chấp trước, không bị vọng tưởng quấy nhiễu.

    Kinh Kim Cang còn nói: "Tâm quá khứ chẳng có được, tâm hiện tại chẳng có được, tâm vị lai chẳng có được". Tại sao tâm quá khứ chẳng có được (bất khả đắc)? Bởi quá khứ đã qua rồi, quan tâm tới nó làm gì nữa? Tâm hiện tại cũng chẳng có được, bởi cớ gì? Bởi trong hiện tại các niệm nối tiếp không ngừng. Quý vị bảo đây là hiện tại, nhưng khi nói xong thì cái hiện tại đó cũng qua rồi, thời gian chẳng chịu ngưng lại. Tại sao tâm vị lai chẳng có được? Bởi vị lai là chưa có tới. Cho nên quá khứ, hiện tại, vị lai, ba tâm này chẳng có được. Nếu quý vị theo đúng Pháp mà Phật chỉ dạy để tu hành thì ngay đó có thể đạt được cảnh giới Niết-bàn.

    Người tu Ðạo phải y theo chánh tri chánh kiến, coi đó là mẫu mực để tinh tấn thực tập. Lúc tu là lúc "lìa tướng ngôn thuyết", bởi không còn gì để nói ra nữa; cũng là lúc "lìa tướng tâm duyên", vì không còn duyên nào để tâm theo đuổi; "lìa tướng văn tự", vì không còn chữ nghĩa gì để tả ra. Nếu đã không nói được ra, thì có gì để ghi nhớ? Còn cái gì mà chúng ta không buông bỏ được? Còn gì nữa để chúng ta quan tâm? Quý vị! Hãy dụng công ngay tại chỗ đó, thay vì dụng công hời hợt ở cái vỏ ngoài!

    Có người nghĩ rằng: "Hôm nay tham thiền, chân mình không bị đau, lưng không bị mỏi, đến giờ khai tịnh mà cũng không hay". Nói như vậy tức là người đó đã ngủ quên, tất nhiên chẳng còn hay biết gì hết. Ðừng ngộ nhận cảnh giới đó, kẻo lại bị tẩu hỏa nhập ma!

    Quý vị nên chú ý! Khi tham thiền gặp cảnh lạ, quý vị cũng đừng quan tâm, đừng chú ý, cứ để tự nhiên, đừng cho cảnh lạ lay chuyển. Kinh Lăng Nghgiêm giảng về điểm này rất rõ. Mong các hành giả tìm nghiên cứu phần "Ngũ Thập Ấm Ma" cho tường tận. Kinh Lăng Nghiêm là một tấm gương quý báu cho người tham thiền, do đó tất cả những ai tu phải nghiền ngẫm bộ Kinh đó.

         

    Mục Ðích Của Người Tu Hành Là Thành Phật
    

    Vì lẽ gì mà tu hành? Tu hành để thành Phật. Thành Phật bằng cách nào? Bước đầu là "chẳng làm điều ác, nguyện làm các việc thiện". Bước kế tiếp là "chuyên cần tu Giới Ðịnh Huệ, dập tắt tham sân si". Tiến lên bước nữa "phát tâm Bồ đề, hành đạo Bồ-tát" . Vì các lẽ ấy, khi chưa thành Phật, người tu phải chọn con đường sáng sủa quang đãng mà đi. Chớ nên mưu đồ quanh co, tìm con đường tắt gập ghềnh, mà bị lạc hướng. Xin hãy lưu ý! Hãy cẩn thận!

    Người tu hành chân chánh cứ y theo pháp mà tu tập, không ngại khổ, không sợ khó, mạnh dạn dấn thân, tới thẳng Phật quả. Có câu nói như sau:

            Mài chầy thép thành kim khâu

            Công đức vẹn tự nhiên thành

    Dụng công cho đến chỗ tận cùng, tự nhiên Phật quả thành tựu. Còn như tự khoe mình tài giỏi, có công đức thì chẳng bao giờ thành Phật được.

    Khi nào Ngũ nhãn khai mở, quý vị sẽ thấy chư Phật mười phương tu hành như thế nào mà thành Phật quả; quý vị có thể thấy chư Bồ-tát mười phương tu hành cách nào mà được quả Bồ-tát; quý vị có thể thấy mười phương A-la-hán đã dụng công ra sao để tới quả A-la-hán. Trong một thoáng, quý vị nhận được ngay các cảnh giới đó.

    Người có thần thông Ngũ nhãn chỉ cần thời gian một niệm là đã thông đạt rõ ràng tất cả lời Phật dạy ghi trong Tam Tạng Giáo Ðiển, cũng như thấu hết Thực tướng các pháp.

    Trong lời nguyện tam quy có những câu:

    - Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại Ðạo, phát vô thượng tâm.

    - Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập Kinh tạng, trí huệ như hải.

    - Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.

    Nếu như có thể "thâm nhập Kinh tạng, trí huệ như hải", thì lúc đó không chỗ nào là không thông, không chỗ nào không rõ, không chỗ nào không biết, không chỗ nào không thấy, đó là lúc khai ngộ triệt để. Chớ giữ cái nhỏ, để mất cái lớn; chớ tham những cảnh giới nhỏ nhoi làm che mờ trí huệ Ðại Viên Kính. Theo lối đó là không thể thâm nhập Kinh tạng, không thể có trí huệ như hải.

    Người có đại trí huệ thì tuyệt đối không tham những cảnh giới nhỏ, bởi những ai ham những cảnh đó tức họ không biết phân biệt chân giả. Họ lẫn lộn vàng thau, coi thau là vàng ròng, thậm chí pha lê cũng giống như loài đá vậy. Tại sao vậy? Họ không phân biệt được đâu là thiệt, đâu là giả.

    Người tu Ðạo phải có chánh tri chánh kiến, không đảo lộn phải trái và đen trắng phải phân minh, chớ không thể lấy mắt cá làm hạt châu, chẳng thể nhập nhằng che mắt người khác Nếu không vậy là có tà tri tà kiến, muôn đời không thành Phật.

    Như thế nào là chánh tri chánh kiến? Nói một cách đơn giản, chúng ta phải gạt ba cái độc là tham sân si, giữ cho thân tâm thanh tịnh, trí huệ sẽ hiển bày và chiếu sáng, khiến cho sự đen tối của vô minh tan biến, phiền não được diệt trừ. Tới được cảnh giới này thì chứng quả, mong quý vị hướng tới mục tiêu đó tinh tấn tu hành.


Ý kiến bạn đọc (0)

Ảnh Đẹp

Có Sắc Không Hương

Một ngày kia, nữ hoàng Shaba gởi đến vua Solomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu.Đó...