Tủ Sách Thientamism

Khai Thị - Quyển 5 - Hòa Thượng Tuyên Hóa - Phần 8

Đăng lúc: 23:53 PM 17/05/2018 0   1156

Cùng Chủ Đề

Phương Pháp Học Thuộc Lòng Chú Thủ Lăng Nghiêm
Chú Lăng Nghiêm (tiếng phạn: Shurangama Mantra) – Thần Chú Uy Lực...
Phật Nói Uy Lực Của Lăng Nghiêm Thần Chú
Phật nói về uy lực của Thủ Lăng Nghiêm Thần Chú.Khi nào còn...
Sự Tích Những Cộ Bông Trong Hội Yến Diêu Trì
(NGÀY 15 THÁNG 8 BÍNH THÂN)CỘ BÔNG HÌNH ĐỨC PHẬT MẪU VÀ CỬU VỊ...

Trừ Vọng Tâm, Giữ Chân Tâm

 

Kinh Hoa Nghiêm có câu:

 

Ai muốn hiểu biết tận cùng

Hết thảy ba đời chư Phật.

Phải quán tánh của Pháp giới

Hết thảy là do tâm tạo.

(Nhược nhân dục liễu tri,

Tam thế nhất thiết Phật,

Ưng quán Pháp giới tánh,

Nhất thiết duy tâm tạo).

Quý vị hành động với tâm Phật thì quý vị là Phật; hành động với tâm Bồ-tát, quý vị là Bồ-tát; hành động với tâm Duyên giác, quý vị là Duyên giác; hành động với tâm Thanh Văn, quý vị là Thanh Văn; hành động với tâm Trời quý vị là Trời; hành động với tâm người, quý vị là người; hành động với tâm A-tu-la, quý vị là A-tu-la; hành động với tâm súc sanh, quý vị là súc sanh; hành động với tâm ngạ quỷ, quý vị là ngạ quỷ; hành động với tâm địa ngục, quý vị là quỷ địa ngục.

Bởi vậy có câu: "Mười pháp giới chẳng lìa khỏi một niệm hiện tiền của tâm". Như vậy mới biết rằng hết thảy mọi thứ đều do tâm tạo. Có bài kệ nói về tâm đầy ý nghĩa như sau:

Tam điểm như tinh bố

Loan câu tự nguyệt nha

Phi mao tòng tư khởi

Tác Phật dã do tha.

Tạm dịch:

Ba chấm như chòm sao

Móc cong như hình trăng mới

Mang lông từ đây ra

Thành Phật cũng do đấy.

 

Cứ suy nghĩ kỹ, bài kệ thật chí lý.

Người ta ở đời phải giữ lấy Chánh tâm, đừng có mang tà tâm. Thế nào gọi là Chánh tâm? Ðó là tâm Bồ-đề, tâm bình đẳng, tâm từ bi, tâm thương xót, tâm bố thí, tâm hổ thẹn. Thế nào là tà tâm? Ðó là những tâm ích kỷ, tự lợi, đố kỵ, oán hận, kiêu ngạo, vọng tưởng. Chúng ta tu hành phải nhằm mục tiêu trừ khử vọng tâm và giữ lấy Chân tâm, đó cũng là nghĩa trừ tà tâm sanh Chánh tâm.

Nếu mỗi hành động của chúng ta có chánh niệm, tức đó là chánh tri chánh kiến; nếu có tà niệm thì thành tà tri tà kiến. Người có tà niệm thấy điều trái coi là phải, thấy điều phải coi là trái, lấy trắng làm đen, lấy đen làm trắng, có nghĩa là điên đảo thị phi, đen trắng không phân biệt. Bất cứ hành động nào y cũng tự cho là đúng, nhưng kết quả lại gây nên tội, xuống địa ngục vẫn không hiểu tại sao. Bởi sự thể đó mà chư Phật đã khổ tâm khuyên bảo, đã không ngại khó nhọc đinh ninh dặn dò: "Chớ đi lầm đường! Chớ đi vào chỗ bế tắc!" Ðây cũng là lời nhắc những ai tu như chúng ta là không được tạo nghiệp ác tại chốn Ðạo tràng. Có câu nói như sau:

Chớ vì điều lành nhỏ mà không làm

Chớ vì điều ác nhỏ mà tạo tác.

Chúng ta phải từng giờ từng khắc cảnh giác, tự xét mình, nơm nớp e dè như đứng bên bờ vực sâu, như dẫm chân trên băng mỏng, để từ từ cởi bỏ những thói hư, tự cải thiện những hạnh xấu, những tập khí ranh ma, những lối tinh khôn quỷ quái. Phải tự xét mình mọi thứ cho minh bạch, chớ không phải sống qua ngày một cách hồ đồ, như kẻ mù dẫn người mù, dối trá lẫn nhau, khiến cho thế giới càng ngày càng lâm cảnh nguy cơ, dẫn tới ngày mạt thế để tất cả đi đến chỗ diệt vong.

Những ai có chánh niệm thì có thể dẫn dắt nhân loại đi trên con đường chánh đại quang minh. Ai ai cũng một lòng, cùng giúp đỡ nhau, quý vị giúp tôi, tôi giúp quý vị, tất cả đều có tinh thần tương trợ. Có câu: "Giúp người là nguồn khoái lạc" hoặc có câu: "làm điều lành thì vui sướng nhất". Quý vị phát tâm làm điều lành thì sự vui sướng không bút nào tả hết, chỉ những ai đã làm việc lành mới biết được hết ý vị của nó. Quý vị thử nếm mùi làm việc thiện coi nó như thế nào? Cái lạc thú đó thật là kỳ diệu. Chúng ta phải tránh bằng mọi giá những con đường quanh co, không những khiến ta sẩy chân, mà còn đưa những người khác lâm vào nơi bế tắc. Bởi những lẽ đó, tâm của ta phải chánh đại quang minh mới có thể chiếu soi và phá hết hắc ám.

 

 

Khi Mê Thầy Ðộ, Khi Ngộ Tự Ðộ 

 

Bây giờ là thời gian của thiền thất (ngày 15 tháng 12 năm 1977), Quý vị hãy đề khởi thoại đầu lên để tham, để dụng công trong từng giờ từng khắc. Người tu hành phải tự mình tu, không ỷ lại vào người khác, càng không thể ỷ lại vào thầy của mình. Tại thiền thất chúng ta tu chớ không phải thầy của ta tu, điểm này phải nhận cho rõ. Có người nghĩ rằng: "Thời gian Thầy ở Vạn Phật Thánh Thành thì ta dụng công tu; Thầy đi vắng thì ta khỏi cần tu tinh tấn nữa". Nghĩ như vậy là không thể được. Bất luận thầy có mặt ở Vạn Phật Thánh Thành hay không, chúng ta vẫn cố gắng tu hành tinh tấn, trước sau phải tu rốr áo, thì mới có cơ thành tựu. nếu chẳng phải vậy thì quý vị chỉ là tu bên ngoài, tự dối mình và dối người, vĩnh viễn không thể nào giải thoát được.

Tham thoại đầu là tham câu "niệm Phật là ai?", tự hỏi ai đương niệm Phật? Nếu nói: "Tôi đương niệm Phật" vậy khi tôi chết đi thì cái "tôi" này chạy đi đàng nào vậy? Rõ ràng không phải cái "tôi". Tham cứu như vậy thì không kiếm ra cái "tôi". Nếu cái "tôi" không có thì đương lúc còn sống ta khỏi cần tu hành nữa chăng? Nghĩ như vậy cũng không đúng. Vậy làm sao mới đúng? Tức là phải tham cứu cái mặt mũi gốc của ta (bổn lai diện mục), cái đó như thế nào trước khi cha mẹ sanh ra ta? Tham cho thấu đáo, tức sẽ khai ngộ.

Niệm Phật là ai đó? Phải truy cứu từng giờ từng khắc, từng giây từng phút không lơ là. Thật ra đây là cách dụng công lấy độc trị độc. Niệm Phật là ai? Tuy nó cũng là một niệm, nhưng lấy một niệm để khống chế hết thảy các niệm khác, lấy một vọng tưởng để đình chỉ hết thảy mọi vọng tưởng. Khi đình chỉ tới độ tột cùng sẽ tới lúc nước rút đá hiện, chân tướng hiển bày và được khai ngộ.

Thế nào là khai ngộ? Là nhận rõ một cách chân thực chính ta như thế nào, chứng được lý không, hiểu rõ hết thảy đều là hư vọng và đó mới là sự hiểu biết chân thực. Lúc đó quý vị biết được "Bổn lai không một vật, chỗ nào vướng bụi bậm?" là loại cảnh giới nào. Ðó cũng là cảnh giới của minh tâm kiến tánh. Có câu "minh tâm vô nan sự, kiến tánh bất tri sầu", ngụ ý rằng khi đã đạt tới chỗ minh tâm, thì gặp cảnh ngộ nào cũng không ưu sầu. Còn có câu như sau:

Tự cổ thần tiên vô biệt pháp

Quảng sanh hoan hỷ bất sanh sầu.

Câu trên có nghĩa là thần tiên thuở trước chẳng có gì khác lạ, bởi sanh tâm hoan hỷ rộng lớn nên không có ưu sầu. Ðó là đặc điểm của những vị tu Ðạo.

Ai tu Ðạo rồi thì gặp nghịch cảnh hay thuận cảnh trong tâm cũng không động. Nếu định lực tới trình độ đó, thì sẽ không còn bị cảnh lay chuyển, mà ngược lại có thể chuyển cảnh. Ðó mới là công phu chân chánh của người tu Ðạo. Lại có câu:

Thái sơn băng tiền nhi bất kinh

Mỹ sắc đương tiền nhi bất động.

Tạm dịch:

Thái Sơn sụp đổ mà không sợ

Sắc đẹp trước mắt tâm không động.

Người con trai đứng trước người đẹp như Tây Thi chẳng hạn, nếu theo phép quán "sọ đầu lâu", tự nhiên sẽ hết động tâm.Người con gái khi gặp một chàng trai anh tuấn như Phan An năm xưa, nếu theo phép quán "xương trắng", cũng chẳng động tâm. Nếu không có pháp đó thì mỗi khi gặp gái đẹp, trai anh tuấn, cái tâm liền chạy lăng xăng, như vượn leo, như ngựa chạy, không biết như thế nào mới đúng. Chỉ vì không đủ định lực, thành thử uổng phí mất Ðạo nghiệp, thật đáng tiếc biết bao!

Ngày hôm nay tôi nhận được thư của hai vị đương trên đường hành hương "tam bộ nhất bái" và tôi hiểu những điều chẳng thể nghĩ bàn mà họ vừa trải qua, khi được các vị long thần hộ pháp che chở. "Cảm ứng Ðạo giao" là như vậy. Hai vị đó đã thành tâm lễ lạy, thực tâm niệm tụng, làm cảm động tới các vi thiên long bát bộ nên họ luôn luôn có mặt ở bên cạnh để hộ trì. Bởi vậy đi tới chỗ nào hai vị này cũng gặp may mắn, gặp dữ hóa thành lành. Chúng ta nên lấy các vị này làm gương sáng, soi lại chính mình, coi mình có thanh tịnh như vậy hay không? Có sáng suốt, có trí huệ, có bặt các vọng tưởng hay không?

Này quý vị! Quý vị nghe Kinh nghe pháp, cần phải ngộ tự tánh, tự ngộ và tự độ cho mình. Không thể ý lại vào sư phụ! Phải trông cậy nơi chính mình. Người ta nói "dẫn tới cửa là vị thầy, tu là đương sự". Phải tin nơi trí huệ của mình, không thể tin vào ngu si của mình, đó là một điểm vô cùng trọng yếu. Chúng ta dự thiền thất với mục đích tự tánh tự độ. Xưa Lục Tổ đã từng nói: "Khi mê thầy độ, khi ngộ tự độ".

Nay chúng ta tham thiền, phải lợi dụng từng giây phút, chớ để uổng phí thời gian. Bởi vậy trong thời gian tham thiền chúng ta không lạy Phật, không quá đường hay cúng ngọ, là vì cớ gì? Như vậy là muốn giúp quý vị chuyên chú vào sự dụng công. Thêm một phút tham, thì cơ hội khai ngộ gần hơn một phút, đâu có dư thời gian nào để làm việc khác, để tán chuyện, để tụ hội nhau? Nếu như túm năm tụm ba, nói chuyện thị phi, toàn những điều vô nghĩa, thì quả là phí hoài cơ hội khai ngộ. Dầu có tham trong tám vạn đại kiếp cũng không có hy vọng gì. Trong thiền thất, phải thực thà mà tham! Hãy tham "niệm Phật là ai?" tham "bổn lai diện mục truớc khi cha mẹ sanh ta là gì?" Ðó là chìa khóa khai mở trí huệ.

 

 

Tham Thiền Phải Khắc Phục "Cửa Ðau" 

 

Hôm nay, năm mới, tôi xin chúc quý vị "Năm mới hạnh phúc". Tục lệ của thế gian là như vậy. Chúng ta là những kẻ xuất thế, lẽ ra không theo lề thói đó, nhưng chúng ta hãy còn là người trong thế gian, nếu như quá xa cách thế gian thì chúng ta sẽ xa lìa mọi người. Bởi vậy, tôi vẫn y theo lễ tục, chúc mọi người một câu "năm mới hạnh phúc". Tôi lại nói thêm bài kệ này:

Kim phùng nhất cửu bát nhị niên

Thập phương tụ hội lai tham thiền

Hồi quang phản chiếu Quán Tự Tại

Vạn Phật Thành trung tuyển thánh hiền.

Tạm dịch:

Năm nay một chín tám mươi hai

Tham thiền hội tụ Vạn Phật này

Hồi quang phản chiếu Quán tự Tại

Thánh hiền tuyển lựa chính nơi đây.

Năm mới chúc hạnh phúc! Ðối với chúng ta những người tham thiền, cần đạt tới "thiền duyệt vi thực", tức lấy sự tham thiền làm thực phẩm. Ngưòi tham thiền chân chánh dầu đã ăn hay chưa ăn cũng không nhớ; mặc đồ vào hay chưa mặc, ngủ rồi hay chưa ngủ, cũng không nhớ. Tham tới rốt ráo, thì trên không biết có trời, dưới không biết có đất, chặng giữa không thấy có người, hòa với hư không làm một, sống trong một cảnh giới vô nhân, vô ngã, vô chúng sanh, vô thọ giả. Trong cảnh huống đó thì dầu có đau chân cũng đâu ngại gì, đau lưng, cũng không sợ vì sự nhẫn nại dụng công đã giúp cho thiền giả vượt qua hết thảy mọi thứ. Bởi không thấy có người, có ta, có chúng sanh, có thọ giả, thì ai là người đương đau? Hơn nữa, khi đã qua cái "cửa đau" thì cái đau cũng qua luôn, còn nếu chưa qua thì đau vẫn còn. Qua được cửa đau thì không những thiền giả hết đau mà còn được tự tại, vui sướng vô cùng.

Không có gì kỳ diệu bằng pháp môn tham thiền, bởi tham thiền mới đưa tới trạng thái thiền duyệt vi thực và pháp hỷ sung mãn. Cũng vì vậy mà xưa nay các thiền gia có thể ngồi luôn nhiều ngày mà không đứng dậy. Chân họ có bị đau không? Ðương nhiên là có đau! Nhưng họ chịu đau được, họ có thể chịu đựng những gì mà người khác không chịu nổi. họ có sức tinh tấn dũng mãnh, chỉ biết dấn bước tới trước, chớ không biết lùi, do đó họ mới thành công.

Tham thiền phải có đủ nhẫn nại vì nhẫn nại là vốn của sự khai ngộ. Tỷ như người làm ăn buôn bán, phải có vốn liếng thì việc kinh doanh mới phát triển và được lời nhiều. Chúng ta tham thiền phải khắc phục cái cửa đau; vượt qua được cửa đau rồi thì con đường sáng sủa rộng mở, dẫn thẳng tới cảnh giới minh tâm kiến tánh. Khi chưa qua cửa quan này thì vẫn còn trong tình trạng "sơn cùng thủy tận, đường tắc nghẽn", vượt qua được thì là cảnh giới "dưới liễu hoa tươi, lại một thôn". Có các câu nói như sau:

Không xả được tử, không đổi được sanh

Không xả được giả, không thành được chân

Không xả được khổ, không đạt được lạc.

Chúng ta tham thiền phải có một tinh thần như vậy mới có hy vọng thành công. Phải phá cánh cửa gian nan khốn khổ, mới thấy được cảnh giới (thực tại) khác. Bởi lý do đó mà chúng ta phải chuyên nhất trong việc tham thiền. Quý vị hãy chú ý! Chúng ta đến chỗ này là để tham thiền, không phải để tiêu thời gian, phải mang hết chí nguyện chân chánh ra dụng công, với tất cả sự nhẫn nại chân chánh để ngồi thiền. Phải nhớ một điều rằng trên thế gian không có thứ gì gặt hái được mà chẳng do công lao mang lại. Không bỏ công làm nhưng lại muốn hưởng, đâu có chuyện dễ dàng như vậy? Ðó là mơ tưởng hão huyền, chẳng hề có thật. Chỉ có sức lực của mình bỏ ra thì mới mong ngày thành tựu. Nay, qua năm mới, quý vị có sự mong mỏi mới, mong mỏi năm nay khai ngộ. Hy vọng tất cả chúng ta hướng tới mục tiêu này mà gắng sức tiến tới, nếu chưa khai ngộ thì chưa ngừng bước.

 

Khai thị tại Vạn Phật Ðiện, Vạn Phật Thánh Thành

Thiền thất từ ngày 1 đến ngày 8, tháng 1 năm 1982

 

 

Thế Nào Là Ðủ Tư Cách Tham Thiền 

 

Phàm làm bất cứ một công trình gì, cũng phải trải qua một giai đoạn tôi luyện mới tới được thành công. Pháp môn tham thiền còn khó hơn nữa. Thiền giả phải nếm đủ loại tân khổ và tôi luyện, mới tiến bước được. Hễ tham gia thiền thất điều quan trọng nhất là phải có tâm nhẫn nại; nhẫn nại làm những công việc mình không ưa thích; nhẫn nại chịu đựng những gì không chịu đựng nổi. Phải có tinh thần như vậy mới đủ tư cách tham thiền, bằng không thì miễn bàn. Thân ở tại Thiền đường mà tâm thì ở nơi khác, dầu tham đến đâu cũng là uổng công, không thành tựu được gì hết.

Tham thiền là tôi luyện thân này thành chất kim cương, chẳng khi nào bị hoại diệt. Nếu đã nguyện ý tôi luyện thân này thì gặp khổ phải ráng hết sức chịu đựng, bởi có câu: "Chịu khổ thì hết khổ, hưởng phước thì tiêu phước".

Ðối với những gì ta hoan hỷ làm thì ta lại càng phải gắng sức hơn nữa, kẻo phụ lại tấm lòng lúc ban sơ đưa ta tới tham gia thiền thất. Về điểm này xin quý vị đặc biệt chú ý!

 

 

Thân Mang Bệnh Khổ Bởi Duyên Nào? 

 

Trường Ðại Học Pháp Giới Phật Giáo thuộc Tổng Hội Pháp Giới Phật Giáo, lần đó tổ chức một cuộc du hành đi Ðông Nam Á Châu để hoằng dương Phật Pháp. Trước khi đi, tôi đã biết trước chúng ta sẽ gặp một số trở ngại, bởi bất luận đi chỗ nào hoằng Pháp tôi cũng đều gặp những cản trở và sự đố kỵ. Tại sao vậy? Bởi tôi quá trực tính, tôi không chịu a dua theo mọi người, bởi đó mà sanh ra đố kỵ. Tuy nhiên, sự tin tưởng của tôi là tà không thể thắng được chánh, loài ma quỷ không có cách gì làm hại được.

Tôi tin tưởng rằng Phật và Bồ-tát luôn luôn hộ trì pháp của tôi. Nơi tôi đến, tuy gặp nhiều trở ngại, nhưng chúng chẳng có tác dụng gì, chẳng phát sanh những chuyện đáng tiếc, gặp chuyện dữ đều hóa lành, nơi nào cũng bình an vô sự. Chính là do Phật và Bồ-tát đã gia hộ.

Tôi đến bất cứ địa phương nào, thường ngày vẫn gặp những người đau bệnh đến xin được cứu chữa. Mang bệnh là do nghiệp nặng từ kiếp quá khứ, nếu như không thế, đương sự tất không bị quái tật. Những người đến kiếm tôi, đều mang những chứng bệnh lạ, Tây y và Ðông y đều bó tay, không cách gì chữa hết. Ða số những người mang quái tật trong mình, là do trong kiếp quá khứ ham lợi dụng người mà không muốn bị thua thiệt; hoặc giả họ là những người bỏn xẻn, không muốn mất cho ai một xu, không biết giúp đỡ người nghèo, chỉ nghĩ về mình, không biết tới ai khác, luôn luôn ích kỷ tự lợi, thấy lợi quên điều nghĩa, càng ngày càng ngập thêm nghiệp chướng, nên mới dẫn tới bệnh lạ trong kiếp này.

Mang bệnh lạ còn phải kể thêm những ai hủy báng Tam Bảo trong kiếp trước, thậm chí hủy báng Kinh điển Ðại thừa, một tội có thể khiến cho người ta bị đọa địa ngục để chịu khổ và khi ra khỏi địa ngục thì chuyển làm kiếp súc sanh, chim muông hay thú vật. Tới khi chúng sanh đó được lên làm người thì sáu căn không toàn vẹn, hoặc bị khuyết tật, hoặc mắt bị mù, tai bị điếc, câm hay ngọng, chân khập khễnh, tóm lại làm thân người không đầy đủ. Nguyên do bởi kiếp trước họ tạo nghiệp ác nên kiếp này chịu quả báo.

Gặp quả báo như vậy, lẽ ra họ phải dốc lòng sám hối, và làm thật nhiều công đức mới đúng. Tiếc rằng, không những họ không tỉnh ngộ, mà còn coi tiền tài quý như thân mạng, lại còn muốn lợi dụng kẻ xuất gia này. Họ cầu tôi chữa bệnh, chẳng muốn mất tiền nhưng muốn hết bệnh. Khi khỏi được bệnh, họ có vẻ hào hiệp đưa ra một phong bì đỏ để cúng dường. Tuy nhiên trong bao màu đỏ đó chỉ có một đồng, hai đồng cho đến năm đồng là cùng (tiền Tân-gia-ba hay Mã-lai-á). Nghiệp chướng của họ nặng như vậy mà còn tính chuyện lợi dụng, thật đáng thương!

Tại sao tôi lại kể những chuyện này với quý vị? Chính là muốn quý vị đề cao cảnh giác, cẩn thận giữ gìn chớ có tạo ác nghiệp. Trong Phật giáo không thể phỉ báng Tam Bảo, không thể phỉ báng Kinh Ðại thừa, không thể hồ nghi mà không chịu tu hành, không thể nói dối để gạt mọi người. Nếu như tạo ra những loại ác nghiệp như vậy, thì tương lai nhất định bị đọa địa ngục. Tới lúc đó thì thầy có thương cũng đành chịu, không có cách gì giúp đỡ. Tôi có lời nói trước như vậy để sau này đừng có trách tôi không chịu cứu giúp quý vị.

 

 

Tham Ðắm Cảnh Giới Thì Chiêu Cảm Ma Chướng 

 

Trong pháp tham thiền, người tu phải dấn bước thực sự, khổ công miệt mài, dũng mãnh tiến tới, tuyệt dối không lùi bước. Có hằng tâm như vậy mới là người tu thiền chân chánh.

Trong lúc tham, phải lấy sự nhẫn nại khắc phục mọi thứ đau, chân đau hay lưng đau cũng mặc. Muốn tới được khai ngộ thì phải nhẫn nại, bằng không thì không thể khai ngộ. Nhẫn nại ở đây bao gồm mọi thứ nhẫn, chịu đói, chịu khát, chịu đau, chịu hết thảy mọi thứ. Nhẫn được thì phá trừ được chấp ngã. Như không có ngã chấp thì khi quán sát tâm cũng không thấy tâm nữa; quán hình sắc bên ngoài thì hình cũng chẳng có; hướng xa hơn nữa thì vạn hữu cũng mất. Ðó là lúc, trong không có thân tâm, ngoài chẳng có thế giới, tất cả là không,

Cái "không" này cũng không thể chấp trước nó, bởi nếu còn tham đắm vào "không" thì cũng là một thứ chấp trước. Do đó, "không" cũng phải xả bỏ, mới có thể cùng thế giới hợp nhất, ta và hư không chẳng còn gì phân biệt. Nếu đưa cảnh giới này tới chỗ rốt ráo thì sẽ có định. Ðịnh chẳng phải là một trạng thái mơ hồ, mà ngược lại rất sáng suốt, như câu nói: như như bất động, liễu liễu thường tri, nghĩa là bất động nhưng không lúc nào là không biết hết mọi sự. Tham thiền chẳng phải là một dịp ngồi để suy tính, hay vì ham kiếm một cảnh giới nào. Có những loại vọng tưởng đó thì ma sẽ tới phá.

Trong Kinh Kim Cang có câu:

Hết thảy mọi tướng đều là hư vọng

Nếu thấy các tướng là chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai.

Bởi vậy, người tham thiền không thể tham đắm vào cảnh giới, cũng không được cầu thần thông. Tham như vậy có thể bị tẩu hỏa nhập ma. Cũng không nên tham đắm danh lợi, kẻo có thể mắc vào vòng tà đạo, làm kẻ quyến thuộc của ma vương. Ðiều này quả là đáng sợ! Người tham thiền phải là vô chấp, vô tham, cho nên có câu nói: "Phật đến chém Phật, ma đến chém ma", và phải dùng kiếm báu của vua kim cương (trí huệ) để chém đứt mọi thứ. Cảnh giới tốt chẳng ham mà cảnh giới xấu cũng mặc. Ngàn vạn lần đừng ham những thành tựu nhỏ nhoi, đó chỉ là hiệu quả của công phu tu tập; sinh tâm tham đắm sẽ đi vào đường tà, chúng ta phải hết sức cảnh giác!

Trong lúc nhập thất, cái "ta" phải quên đi, người cũng quên đi, quên cả thời gian và không gian. Có câu nói: "Quét hết mọi pháp, ly hết mọi tướng", hết thảy đều không chấp, tất cả buông bỏ, tới lúc đó có thể đi vào cảnh giới Tứ thiền thiên.

 

 

Cảnh Giới Tứ Thiền Thiên 

 

Người tham thiền khi nào tới được tình trạng vô ngã vô nhân tức là vào được cảnh giới Sơ thiền, còn gọi là "Ly sanh hỷ lạc địa". Tới giai đoạn này, thiền giả phá sự chấp trước về chúng sanh, chứng được "thiền duyệt vi thực" và cảm thấy một niềm hỷ lạc với pháp một cách sung mãn. Trong cảnh định này, hô hấp chấm dứt, nghĩa là không thở ra, không thở vào, thiền giả vui sướng một cách đặc biệt. Loại khoái lạc này rất kỳ diệu không thể tả ra được, tóm lại người thường không có được khoái lạc đó.

Trong cảnh Nhị thiền, còn gọi là "Ðịnh sinh hỷ lạc địa" thiền giả cảm thấy một niềm hỷ lạc tột cùng. Thiền giả ngồi tại chỗ, chẳng ăn, chẳng uống, mạch không còn đập nữa, giống như người đã chết, nhưng ý niệm vẫn còn, biết là mình đương tĩnh tọa.

Trong cảnh định của Tam thiền, hay còn gọi là "Ly hỷ diệu lạc địa", thiền giả lìa bỏ thiền duyệt vi thực, lìa cả sự khoái lạc sung mãn về pháp hỷ, chứng được một sự khoái lạc vi diệu, không có gì tả được, hoàn toàn chẳng thể nghĩ bàn. Trong cảnh giới này, các niệm đều dừng lại, một niệm cũng chẳng dấy lên. Có câu nói:

Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện

Lục căn hốt động bị vân già.

Tạm dịch:

Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện

Sáu căn chợt động, bị mây che.

Tứ thiền còn gọi là "Xả niệm thanh tịnh địa" là một cảnh giới trong đó không những các niệm dừng lại mà chúng còn bị buông xả hết. Lúc ấy thiền giả đạt tới một trạng thái thanh tịnh phi thường, và sự khoái lạc cũng phi thường vi diệu. Tuy nhiên, cảnh giới của Tứ thiền vẫn là cảnh giới phàm phu, chưa phải là chứng quả, thiền giả chớ quá tự hào. Giai đoạn chứng quả thì hãy còn xa lắm, thiền giả phãi cố gắng tham, tiếp tục tham, dấn bước thêm nữa mới tới được cảnh giới của"Năm Cõi Trời Bất Hoàn hay Ngũ Bất Hoàn Thiên", ở đây mới là nhập vào dòng Thánh.

Xưa, Tỳ kheo Vô Văn (Tỳ kheo Vô Văn tức là vị Tỳ kheo không hiểu biết, không có học hỏi - Unlearned Bikshu), tới được cảnh giới Tứ thiền này, lầm tưởng mình đã chứng quả, nên đi tới đâu cũng tự khoe như vậy. Bởi chưa thấu triệt Phật Pháp nên mới nói lời vọng ngữ, thành kết quả bị đọa địa ngục Vô gián.

 

Bí Quyết Của Tham Thiền

 

Chữ "thiền" dịch nghĩa là "tĩnh lự", cũng dịch là "tư duy tu". Tư duy chính là tham; tĩnh lự là nghĩa "thời thời cần phất thức, vật sử nhạ trần ai". Thực tập tư duy tu có nghĩa là chúng ta phải đề khởi thoại đầu, luôn luôn tâm niệm, không giây phút nào rời. Có câu nói: "Sớm như thế ấy, chiều như thế ấy". Phải bằng vào tự tánh mà dụng công, không tìm cầu ở bên ngoài. Nếu gặp cảnh rồi chạy theo cảnh, sẽ đi lầm đường. Cảnh giới từ tự tánh sanh ra mới là cảnh giới chân thật. Mong rằng quý vị phải thật hiểu rõ điểm này, bằng không sẽ lọt vào vòng của ma vương, làm quyến thuộc của chúng.

Pháp môn tĩnh lự đòi hỏi một sự dụng công triền miên rằng rịt, không lúc nào gián đoạn. Dụng công kiểu này có thể ví như phương cách gà mẹ chuyên tâm ấp trứng, như rồng thận trọng nuôi dưỡng hạt châu, cũng như thái độ mèo rình chuột một cách nhẫn nại. Tham thiền phải có kiên tâm, thành tâm và hằng tâm. Không thể có tâm kiêu ngạo, thấy mình cao hơn hoặc hay hơn người khác. Như có những tư tưởng đó, thì loại ma cuồng điên sẽ nhập vào khiến cho công phu không có hiệu quả.

Khi tham thiền không nên sanh vọng tưởng. Có vọng tưởng thì chẳng có lợi ích gì, chỉ uổng phí thời gian công phu. Tham thiền phải có tâm nhẫn nại, tâm trường viễn, tức nghĩ về lâu về dài. Bí quyết tham thiền là chữ nhẫn; cái gì nhẫn không được cũng phải nhẫn; nhẫn đến cực điểm, thì bỗng nhiền thấu suốt, bừng sáng khai ngộ. Nếu không nhẫn nại, không chịu đựng khổ, không chịu khó nhọc, khi gặp trở ngại tất sẽ đầu hàng. Những cung cách đó không thể chấp nhận và rất kỵ đối với tham thiền.

 

 

Kiếm Báu Của Kim Cương Vương Chặt Ðứt Vọng Tưởng 

 

Vọng tưởng chính là hòn đá vướng chân trên đường khai ngộ. Tham câu "niệm Phật là ai?" tức là dùng kiếm báu của Kim Cương vương, chặt đứt hết mọi vọng tưởng. Khi Ðức Phật Thích Ca vừa chứng được quả chánh giác dưới gốc cây bồ đề, ngài liền nói: "Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh, chẳng trừ ai, đều có đầy đủ đức tướng và trí huệ Như Lai, nhưng hiềm vì vọng tưởng chấp trước, nên không chứng được." Như vậy, Phật đã nói với chúng ta một cách rõ ràng lý do gì chúng ta không thành Phật. Chẳng qua là do vọng tưởng và chấp trước, do đó chúng ta phải phá bỏ những thứ này. Phá bằng cách nào? Chính là dùng chữ "ai", coi như cái đục để đục xuống, đục cho tới nước rút đá hiện thì sẽ thành công.

Tham thiền tức là tham câu "niệm Phật là ai?", trong từng thời khắc tham cứu cứu vấn đề này, không được gián đoạn. Lâu ngày, tự nhiên sẽ có tin vui, nên có câu: "Cửu tọa hữu thiền, cửu trú hữu duyên".

Ngồi trong một thời gian dài tự nhiên sẽ có thiền. Trú ngụ lâu ngày ở một nơi nào tự nhiên sẽ có duyên qua lại với láng giềng, ta cùng với mọi người dung hòa tình cảm, nên tất cả sống với nhau trong sự an bình.

Tham thiền khi tới trình độ tinh diệu, không những vọng tưởng tiêu tan, mà tính khí dịu hòa, bớt phiền não, nhân phẩm cao, khí độ cũng rộng lớn. Lúc đó trí huệ hiển bày, biết rõ phải trái, phân biệt thiện ác, tham sân si cũng được thanh lọc sạch, chỉ còn lại là ánh sáng của Giới Ðịnh Huệ chiếu rọi và soi thấu năm uẩn đều không.

Ý kiến bạn đọc (0)

Ảnh Đẹp

Có Sắc Không Hương

Một ngày kia, nữ hoàng Shaba gởi đến vua Solomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu.Đó...