33 VỊ TỔ ẤN HOA
A. THIỀN TÔNG ẤN ĐỘ:

Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp (Mahakasyapa; kāśyapa)
第 一 祖 摩 訶 迦 葉 尊 者
Đồng thời đức Phật Ngài dòng Bà-la-môn (Brahmana) ở nước Ma-Kiệt-Đà, cha tên Ẩm-Trạch, mẹ tên Hương-Chí.
Tổ thứ II: A Nan (Ananda; ānanda)
第 二 祖 阿 難 尊 者
Sanh sau Phật 30 năm Ngài con vua Hộc-Phạn, dòng Sát-đế-lợi, ở thành Ca-tỳ-la-vệ, em ruột Đề-bà-đạt-đa, em con nhà chú của Phật Thích Ca. Thuở nhỏ, ngài có nhiều tướng tốt và thông minh tuyệt vời. Đến 25 tuổi xin theo Phật xuất gia.

Tổ thứ III: Thương Na Hòa Tu (Sanakavasa; śānavāsin)
第 三 祖 商 那 和 修 尊 者
Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn. Ngài dòng Tỳ-Xá-Đa nước Ma-Đột-La, cha tên Lâm-Thắng, mẹ là Kiều-Xa-Da. Ngài ở trong thai mẹ sáu năm mới sanh.
Tục truyền ở Ấn-Độ khi nào cỏ Thương-Nặc-Ca sanh là có một vị thánh nhơn ra đời. Chính khi Ngài lọt lòng mẹ thì thứ cỏ ấy cũng mọc lên, vì thế cha mẹ Ngài đặt tên là Thương-Na-Hòa-Tu.
Lúc đầu, Ngài xuất gia làm đồ đệ vị tiên ở núi Tuyết. Chính Ngài tu theo pháp tiên đã được thần thông, sau gặp Tổ A-Nan, Ngài hồi đầu trở về chánh pháp. Tổ A-Nan, thấy Ngài đã thâm ngộ diệu tâm nên truyền pháp kệ rằng:
Bổn lai truyền hửu pháp,
Truyền liễu ngôn vô pháp
Các các tu tự ngộ
Ngộ liễu vô vô pháp.
Dịch:
Xưa nay truyền có pháp
Truyền rồi nói không pháp.
Mỗi mỗi cần tự ngộ
Ngộ rồi không không pháp.
Tổ lại dặn:
─ Xưa Đức Như-Lai đem đại pháp nhãn nầy trao cho Ngài Ca-Diếp, Ngài Ca-Diếp trao lại cho ta, nay ta sắp vào Niết-bàn đem trao lại cho ngươi, Ngươi phải khéo gìn giữ truyền trao không để dứt mất.
Sau khi đắc pháp nơi Tổ A-Nan, Ngài đi đến khu rừng Ưu-Lưu-Trà cất tịnh-xá hoằng hóa Phật-pháp rất hưng thịnh. Chính nơi đây, khi Phật còn tại thế có lần đi giáo hóa ngang khu rừng nầy, Phật nói với A-Nan:
Sau khi ta Niết-bàn, khoảng 100 năm, có một Tỳ-kheo tên Thương-Na-Hòa-Tu ở tại khu rừng nầy hoằng truyền chánh pháp
Thấy cơ duyên hóa đạo đã viên mãn, Ngài đem chánh pháp nhãn tạng truyền lại cho đệ tử là Ưu-Ba-Cúc-Đa. Ngài vào núi Bạch-Tượng phía Nam nước Kế-Tân sắp vào Niết-bàn. Nhơn trong chánh định Ngài thấy nhóm 500 người đệ tử của Ưu-Ba-Cúc-Đa thường hay lười biếng và khinh mạn, Ngài liền đến cảnh tỉnh họ, khi Ngài đến, Ưu-Ba-Cúc-Đa đi vắng. Ngài lại tòa của Ưu-Ba-Cúc-Đa ngồi, đệ tử Cúc-Đa không biết Ngài là người gì? Tất cả đều bực tức không phục. Họ chạy báo cho Cúc-Đa hay. Cúc-Đa về đến thấy thầy mình liền đảnh lễ. Song đệ tử vẫn còn tâm khinh mạn chẳng kính. Ngài lấy tay mặt chỉ lên hư không liền có sữa thơm chảy xuống,
Ngài bảo Cúc-Đa.:
─ Ngươi biết gì chăng.
Cúc-Đa thưa:
─ Chẳng biết. Cúc-Đa bèn nhập chánh định để xem xét, cũng không thể hiểu.
Cúc-Đa thưa:
─ Điềm lành nầy do chánh định gì xuất hiện?
─ Đây là chánh định Long-Phấn-Tấn. Còn cả năm trăm thứ chánh định như thế mà ngươi chưa biết. Chánh định của Như-Lai, hàng Bích-Chi không thể biết. Chánh định của Bích-Chi, hàng La-Hán không thể biết. Chánh định thầy ta là A-Nan, ta cũng không biết. Nay chánh định của ta, ngươi đâu thể biết. Chánh định ấy là tâm không sanh diệt, trụ trong sức đại từ, cung kính lẫn nhau, được thế đó mới có thể biết.
─ Đệ tử của Cúc-Đa trông thấy những kỳ-diệu ấy đều kính phục, chí thành sám hối. Ngài lại nói kệ:
Thông đạt phi bỉ thử
Chí thánh vô trường đoản
Nhữ trừ khinh mạn ý
Tất đắc A-La-Hán.
Dịch:
Thông suốt không kia đây
Chí thành không hay dở
Ngươi trừ tâm khinh mạn
Chóng được A-La-Hán.
Sau đó, Ngài thị tịch bằng cách dùng hỏa quang tam muội thiêu thân. Thầy trò Ưu-Ba-Cúc-Đa thu nhặt xá-lợi xây tháp cúng dường.
Tổ thứ IV: Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta; upagupta)
第 四 祖 優 波 鞠 多 尊 者
Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn Ngài dòng Thủ-Đà-La ở nước Sất-Lợi, cha tên Thiện-Ý. Trước khi sanh Ngài, thân phụ nằm mộng thấy mặt trời vàng xuất hiện trong nhà.
Tổ thứ V: Đề Đa Ca (Dhrtaka; dhītika)
第 五 祖 提 多 迦 尊 者
Đầu thế kỷ thứ hai sau Phật Niết-bàn Ngài tên Hương-chúng ở nước Ma-Già-Đà. Nhơn thân phụ Ngài nằm mộng thấy mặt trời vàng ánh xuất hiện trong nhà, chiếu sáng khắp cả. Lại thấy phía trước hiện ra một hòn núi lớn, trang nghiêm bằng bảy báu, trên đảnh núi có dòng suối, nước chảy trong veo, tràn khắp bốn phía. Sau đó, mẹ sanh ra Ngài.

Tổ thứ VI: Di Dá Ca (Miccaka; miśaka)
第 六 祖 彌 遮 迦 尊 者
Đầu thế kỷ thứ ba sau Phật Niết-bàn. Ngài người Trung-Ấn, không rõ họ gì. Ngài cùng chúng tiên thọ giáo xuất gia với Tổ Đề-Đa-Ca.
Tổ thứ VII: Bà Tu Mật (Vasumitra; vasumitra)
第 七 祖 婆 須 蜜 尊 者
Cuối thế kỷ thứ ba sau Phật Niết-bàn. Ngài họ Phả-La-Đọa sanh trưởng tại miền Bắc-Ấn.
Tổ thứ VIII: Phật Đà Nan Đề (Buddhanandi; buddhanandi)
第 八 祖 佛 陀 難 提 尊 者
Đầu thế kỷ thứ tư sau Phật Niết-bàn Ngài họ Cù-Đàm, người nước Ca-Ma-La. Thuở nhỏ trên đảnh Ngài có cục thịt nổi cao, thường phát ra hào quang,năm sắc xen lẫn.
Tổ thứ IX: Phục Đà Mật Đa (Buddhamitra; buddhamitra)
第 九 祖 伏 馱 蜜 多 尊 者
Cuối thế kỷ thứ tư sau Phật Niết-bàn Ngài họ Tỳ-Xá-La ở nước Đề-Già.
Tổ thứ X: Hiếp Tôn Giả (Parsvika; pārśva)
第 十 祖 脅 尊 者
Đầu thế kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn Ngài tục danh là Nan-Sanh, người Trung-Ân. Thân mẫu mang thai đến 60 năm mới sanh ra Ngài.
Tổ thứ XI: Phú Na Dạ Xa (Punyayasas; puṇayaśa)
第 十 一 祖 富 那 夜 奢 尊 者
Giữa thế kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn. Ngài dòng Cù-Đàm ở nước Hoa-Thị, thân phụ là Bảo-Thân. Thân phụ sanh được bảy người con trai, Ngài là con út.

Tổ thứ XII: Mã Minh (Asvaghosha; aśvaghoṣa)
第 十 二 祖 馬 鳴 尊 者
Cuối thế kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn. Bồ-Tát người nước Ba-La-Nại, hiệu Mã-Minh cũng có hiệu Công-Thắng.

Tổ thứ XIII: Ca Tỳ Ma La (Kapimala; kapimala)
第 十 三 祖 迦 毗 摩 羅 尊 者
Đầu thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn.Ngài người nước Hoa-Thị, ban đầu học theo ngoại đạo, giỏi các pháp huyễn thuật, đồ chúng có đến ba ngàn. Khi đến so tài với Mã-Minh, bị Tổ hàng phục,liền cùng đồ chúng phát tâm xuất gia. Tổ Mã-Minh độ cho Ngài xuất gia, sau truyền tâm pháp.

Tổ thứ XIV: Long Thọ (Nagarjuna; nāgārjuna)
第 十 四 祖 龍 樹 尊 者
Giữa thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn. Ngài cũng có tên là Long-Thắng,dòng Phạm-Chí ở miền Tây-Ân. Thuở nhỏ, Ngài bẩm tánh thông minh;vừa nghe Phạm-Chí tụng bốn kinh Phệ-Đà là Ngài thuộc lòng văn nghĩa.

Tổ thứ XV: Ca Na Đề Bà (Kanadeve; kāṇadeva)
第 十 五 祖 迦 那 提 婆 尊 者
Cuối thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn. Ngài dòng Tỳ-Xá-Ly ở Nam-Ấn. Thuở nhỏ Ngài bẩm tánh thông minh,biện tài vô ngại, Ban sơ Ngài học phong tục trong nước, ưa làm việc phước thiện.

Tổ thứ XVI: La Hầu La Đa (Rahulata; rāhulabhadra)
第 十 六 祖 羅 羅 多 尊 者
Đầu thế kỷ thứ bảy sau Phật Niết-bàn. Ngài dòng Phạm-Ma ở nước Ca-Tỳ-La, Thuở nhỏ đã có sẵn lòng mộ đạo. Khi lớn do cơ duyên trong vườn có cây mọc nấm, Tổ Đề-Bà giải thích nhơn do,mà Ngài được xuất gia.

Tổ thứ XVII: Tăng Già Nan Đề (Sanghanandi; saṃghanandi)
第 十 七 祖 僧 伽 難 提 尊 者
Cuối thế kỷ thứ bảy sau Phật Niết-bàn.Ngài họ Uất-Đầu-Lam ở nước Ma-Đề, cha hiệu Thiên-Cái, mẹ là Phương-Thánh.

Tổ thứ XVIII: Già Da Xá Đa (Gayasata; saṃghayathata)
第 十 八 祖 伽 耶 舍 多 尊 者
Đầu thế kỷ thứ tám sau Phật Niết-bàn.Ngài dòng Bà-la-môn ở nước Nguyệt-Chí. Gia đình Ngài trước kia giàu có, song cha Ngài vì bịnh tham tiếc chỉ một bề bo bo giữ của. Nhơn việc con chó nằm ngoài rèm,gặp Tổ Già-Da-Xá-Đa giải nghi, Ngài phát tâm theo đạo Phật, xuất gia thọ giới.

Tổ thứ XIX: Cưu Ma La Đa (Kumarata; kumāralāta)
第 十 九 祖 鳩 摩 羅 多 尊 者
Đầu thế kỷ thứ tám sau Phật Niết-bàn.Ngài dòng Bà-la-môn ở nước Nguyệt-Chí. Gia đình Ngài trước kia giàu có, song cha Ngài vì bịnh tham tiếc chỉ một bề bo bo giữ của. Nhơn việc con chó nằm ngoài rèm,gặp Tổ Già-Da-Xá-Đa giải nghi, Ngài phát tâm theo đạo Phật, xuất gia thọ giới.

Tổ thứ XX: Xà Dạ Đa (Jayata; śayata)
第 二 十 祖 阇 夜 多 尊 者
Giữa thế kỷ thứ tám sau Phật Niết-bàn. Ngài người Bắc-Ấn, trước đã sẵn lòng mến đạo, thông hiểu đạo lý. Nhơn du lịch miền Trung-Ấn gặp Tổ Cưu-Ma-La-Đa, Ngài nhờ giải nghi, rồi phát tâm xuất gia. Sau được truyền tâm ấn.

Tổ thứ XXI: Bà Tu Bàn Đầu (Vasubandhu, vasubandhu)
第 二 十 一 祖 婆 修 槃 頭 尊 者
Cuối thế kỷ thứ tám sau Phật Niết-bàn. Ngài họ Tỳ-Xá-Khư ở nước La-Duyệt, cha hiệu Quang-Cái, mẹ là Nghiêm-Nhất.

Tổ thứ XXII: Ma Noa La (Manorhita; manorata)
第 二 十 二 祖 摩 拏 羅 尊 者
Đầu thế kỷ thứ chín sau Phật Niết-bàn.Ngài dòng Sát-Đế-Lợi ở nước Na-Đề, cha là Thường-Tự-Tại vua nước nầy. Ngài là con thứ ba của vua, khi sanh ra có nhiều điềm lạ, nên vua không dám lấy việc thế tục ràng buộc.

Tổ thứ XXIII: Hạc Lặc Na (Haklena; haklenayaśa)
第 二 十 三 祖 鶴 勒 那 尊 者
Giữa thế kỷ thứ chín sau Phật Niết-bàn Ngài dòng Bà-la-môn sanh tại nước Nguyệt-Chi, cha hiệu Thiên-Thắng, mẹ là Kim-Quang.
Tổ thứ XXIV: Sư Tử Bồ Đề (Aryasimha; siṃhabodhi)
第 二 十 四 祖 師 子 比 丘 尊 者