Tủ Sách Cao Đài - Hòa Hảo

LÝ LUẬN VỀ HỘI LONG HOA - Phần 1

Đăng lúc: 01:17 AM 31/07/2018 0   1045

Cùng Chủ Đề

HỘI LONG HOA - phần một
TRIẾT LÝ VỀ HỘI LONG HOA QUA CÁC TÔN GIÁOTIẾT 1: HỘI LONG HOA LÀ...
HỘI LONG HOA - phần hai
C. HỘI LONG HOA     ...
HỘI LONG HOA - phần ba - Hết
V. PHẬT GIÁO HÒA...
    LÝ LUẬN VỀ HỘI LONG HOA 
    彌 勒 七 百 千 年 起 開 大 道 
    釋 迦 二 十 五 世 終 立 禪 門

    Di Lạc thất bá thiên niên quảng khai Ðại Ðạo. 
    Thích Ca nhị thập ngũ thế chung lập Thiền môn.


Đây là một công trình sưu khảo, cốt giúp đọc giả tìm hiểu thêm về kỷ nguyên mà chúng ta đang sống. Kỷ nguyên thứ 20 đã qua đi với hai Thế chiến, sự tiến bộ trong y học, công nghệ, không gian ...và trong 25 năm cuối đã đánh dấu với sự ra đời của máy vi tính, một bộ óc kỳ diệu cùng với xa lộ thông tin ( Internet) đã mang đến cho con người biết bao hữu ích.

Tân kỷ nguyên 21 đã được các khoa học gia đánh giá là sẽ có những biến chuyển lớn lao ngoài sức tưởng tượng của con người. Những cảnh báo đưa ra do khí hậu nóng lên ở toàn cầu, lớp băng ở Nam Cực và Bắc Cực tan chảy  nhanh chóng sẽ làm mực nước biển dâng cao, đe dọa đời sống của dân cư  vùng ven biển. Ngoài ra, sẽ xuất hiện nhiều bệnh lạ và những trận động đất trên thế giới với cấp độ cao xảy ra  thường xuyên hơn sẽ làm con người ngày càng cảm thấy bất an.

Trước các khoa học gia, các nhà Tiên tri đã tiên đoán tương lai thế giới và cùng nhất trí vào thế kỷ 21 này, trái đất sẽ trải qua những cơn chấn động lớn làm thay đổi bộ mặt như đã thay đổi trước đây khiến Châu Atlantic phải chìm sâu dưới biển. Nhân loại chết rất nhiều, chỉ còn những người đạo đức, đủ cơ duyên để sống  vào thời Thượng Ngươn Thánh Đức.

Chúng ta có quyền tin hay không tin vào những tiên đoán đó. Nhưng nếu kết hợp với các cảnh báo của giới khoa học gia, chúng ta cũng nên cảnh tỉnh. Không phải tin để hoang mang lo sợ, mà hiểu biết để dọn mình cho trong sạch hơn trước Ngày Phán Xét.

Hội Long Hoa là cuộc điểm Đạo tập thể do Đức Phật DI LẶC Chưởng quản. Đây là Đức Chưởng Giáo, Vị Thầy Thế giới, Đấng được tín đồ của Phật Giáo, Cao Đài Giáo, Phật giáo Hòa Hảo mong đợi. Trong  Ấn Giáo, Ngài có tên là KRISHNA; trong Thiên Chúa Giáo, Ngài có tên là  CHRIST; và trong Hồi giáo Ngài có tên là  IMAN MADHI     

Ngài đến mang theo ánh sáng để xóa bỏ tâm tranh chấp, hận thù của con người. Ngài đến mang lại Thương Yêu và Minh triết để giúp nhân loại biết nhìn nhau là anh em. Nhưng bao giờ Ngài mới đến? Con người phải làm gì để Ngài giáng lâm sớm hơn?

                           Xin cùng tìm hiểu và cùng cầu nguyện.



    Đức Phật Di Lặc hiện đang ở cung trời Đâu Suất (theo Phật Giáo), hay ở tầng Trời Hỗn Ngươn Thiên (theo Cao Đài Giáo) để giảng pháp, chờ đến thời mở Hội Long Hoa, biến nhân gian thành Tịnh Độ.

 

    ". . . The Lord Maitreya known to Christians as the Christ, to the Orient as the Bodhi-sattva, to the Mohameddans as the Iman Madhi. Appeared in India as Shri Krishna, in Palestine as Christ, in Great Britain as St. Patrick, whose etheric body he now holds. Resides in the Himalayas.  His office is that of World Teacher.  He presides over the destiny of great religions. . . ".




    1.     Malachy o ' Morgan

    2.     Ursula Southiel

    3.     Nostradamus

    4.     Louis Hamon

    5.     Edgar Cayce

    6.     Vanga

    7.     Huyền khải Fatima

    8.     Jeane Dixon

    9.     Jucelino Nobrega da Luz

    10. Dẫn lời một Dẫn Đạo- sư

    11. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

    12. Ông Đạo nhỏ

    13. Lưu Bá Ôn

    14. Dự ngôn của lịch pháp Mayan

    Đa số các nhà Tiên tri nổi tiếng của cả Đông phương và Tây phương đều có dự đoán thế kỷ 21 là thế kỷ chuyển mình mạnh mẽ và có nhiều biến động ngoài sức dự đoán của nhân loại.

 

1. MALACHY O ' MORGAN (1094 – 1148)

 

         Malachy O'Morgan là một tu sĩ Ái Nhĩ Lan có tài tiên tri đặc biệt về tên tuổi xuất xứ của 112 vị Giáo hoàng La Mã , từ Celestin II năm 1143 tới hiện tại. Theo nhà tu biệt tài này thì sau Giáo hoàng John Paul II hiện tại, người sẽ kế vị tên là "Gloria Olivae", sau đó “vị Giáo hoàng cuối cùng mang danh "Petrus Romanus" là người sẽ chứng kiến cảnh binh lửa đại họa xẩy ra tại Rome nơi "đô thành trên bẩy ngọn đồi bị tàn phá" (the seven hilled city will be destroyed ).

 

Sinh trưởng trong một gia đình giầu có và trí thức tại vùng Armagh, từ nhỏ Malachy đã say mê tôn giáo huyền bí và theo học với một nhà tu khổ hạnh. Năm 20 tuổi đã được phong làm cha xứ Armagh, ông thực hiện nhiều cải cách trong nhà thờ và nổi danh về tài chữa bệnh bằng phép lạ. Gần tuổi 40, ông được thăng chức Tổng Giám mục nhưng 5 năm sau từ bỏ giáo quyền để trở về với đời sống bình dân. Năm 1139, là một thường dân, ông đi hành hương Vatican. Tại đây ông lại được cử làm Khâm sứ Tòa thánh cho Ái Nhĩ Lan. Năm 1148, lần cuối viếng Vatican, ông tự đoán cho mình: sẽ chết vào ngày lễ cầu hồn 2 – 11 - 1148 tại Clairvaux, một tỉnh nhỏ ở Pháp. Lời tiên tri đúng một trăm phần trăm !

Trong những ngày hành hương, Malachy "nhìn" thấy tên hiệu chư vị giáo hoàng và ghi lại vắn tắt không quá 4 chữ, ngoại trừ đối với vị cuối là Petrus Romanus. Bản tiên tri này bằng chữ La tinh, dùng ẩn ngữ, chơi chữ... chỉ tên tuổi, hương quán, phù hiệu tông phái hoặc chức vụ trước khi lên ngôi của vị Giáo hoàng.

- Thí dụ như Giáo hoàng Adrian IV lên ngôi năm 1154 được tiên đoán bằng câu "De Rure Albo" có nghĩa đen là "từ xứ Alban" (Anh quốc), hoặc nghĩa bóng là "từ một xứ trắng", vị này đích thực là một người Anh từ tu viện St Albans, từng làm khâm sai tại các nước Bắc Âu tuyết trắng như Thụy Điển, Na Uy...

- Giáo hoàng Pius III trị vì ngắn ngủi 26 ngày vào năm 1503 được bảng tiên tri ghi là "De Parvo Homine" có nghĩa đen là "từ một người bé nhỏ", vị này tên tục tiếng Ý Piccolomoni là một người bé nhỏ !

Mặc dù lời tiên tri viết ra từ khoảng 1139 - 1148, mãi tới năm 1595 một nhà tu kiêm sử gia Arnold Wion, dòng Benedictine, mới tìm thấy trong thư các Vatican và đã mang ra công bố tại Venice. Theo nhiều tài liệu, Malachy đã mang bản tiên tri trao cho Giáo hoàng Innocent II và ngài đã niêm phong cất đi! Thấy những câu tiên tri quá đúng, Giáo hội và các học giả vội phủ nhận giá trị và cho rằng bản tiên tri của Malachy từ thế kỷ 16 trở đi chỉ là giả tạo. Nhưng từ thế kỷ 16 đến giờ lời tiên đoán của Malachy vẫn không sai mảy may !

        - Thí dụ: Giáo hoàng Benedict XV trị vì vào năm 1912 - 1922 trong thời Đệ Nhất Thế chiến được ghi danh trong bảng là "Religio de populata" có nghĩa là tôn giáo bị phí thải (religion laid waste), nghĩa bóng là tôn giáo bị đàn áp tiêu diệt ở Nga Cộng, nhân mạng bị phí hoài cả triệu vì chiến tranh, vì chết dịch...

        - Giáo hoàng Clements XIV, 1769 - 1775, được ghi là "Ursus velox" có nghĩa là "con gấu nhanh", đích danh hiệu vẽ con gấu chạy trên tấm khiên của gia tộc vị này!

- Giáo hoàng Gregory XVI, 1831 - 1846, có tên trên bảng là "De balneis Etruriae" nghĩa là từ bồn tắm ở Etruria (Ý). Vị này quả thực trước đó thuộc dòng tu ở Etruria và đã đôn đốc việc khảo cổ đào bới các bồn tắm ở địa điểm đó.

        - Giáo hoàng John XXIII, 1958 - 1963, được tiên đoán là "Pastor et Nauta" tức "pastor and sailor", trước khi lên Giáo hoàng, ngài đã làm chánh tòa Venice, một hải cảng nổi tiếng, khi họp đại hội Ecumenical Council năm 1962 biểu hiệu được chính ngài lựa chọn là một thập tự giá và một con tầu !

         - Giáo hoàng kế vị, Paul VI có câu tiên tri chỉ danh "Flos Florum" tức "hoa của các loài hoa" (flower of flowers). Trên tấm khiên huy hiệu của ngài quả có 3 cánh hoa fleurs – de - lis !  

           - Giáo hoàng John Paul I lên chức năm 1978 và mất 34 ngày sau đã được Malachy thấy trước là "De Medietate" nghĩa là từ vầng trăng khuyết (from the half moon). Có thể hiểu theo hai nghĩa: nửa đường đứt gánh, hoặc vì tên tục của ngài là Albino Luciani với nghĩa đen là "ánh sáng trắng" (white light) tức vầng trăng khuyết.

          - Lời tiên tri ý nhị nhất là về Giáo hoàng: "De Labore Solis" có nghĩa là từ lao lực mặt trời (from the toil of the sun), vị Giáo hoàng đầu tiên sau 456 năm này không phải gốc Ý mà lại là con dân xứ Krakow thuộc Ba Lan, là nơi Corpernicus đã lao lực hồi thế kỷ XVI để minh chứng trái đất xoay quanh mặt trời! Cũng có học giả cho là solis, mặt trời, còn ám chỉ tuổi trẻ, John Paul II khi lên kế vị mới có 58 tuổi!

          - Vị tiếp theo sẽ mang danh "Gloria Olivea" tức vinh quang của cành olive (glory of the olive). Theo giải đoán  thì Olive chỉ dòng tu Benedictine còn được gọi là Olivetans. Dòng tu này từ thế kỷ thứ VI có St Benedict cũng tiên tri là một người trong dòng sẽ lãnh đạo Cơ Đốc giáo chống lại ác lực trong trận chiến kinh thiên động địa Armageddon trước ngày Apocalypse. 
 

        - Vị Giáo hoàng cuối trong bản tiên tri mang danh "Petrus Romanus" tức Peter of Rome là vị gánh chịu cơn binh lửa thiêu hủy thành đô trên bẩy ngọn đồi (the seven hilled city will be utterly destroyed) và đúng vào lúc "Phán quan ghê tởm sẽ phán xét người đời" (the awful Judge will judge the people).

Điều tiên tri trên rất giống lời tiên tri của Nostradamus về cảnh tượng chiến tranh xẩy ra khắp Âu châu bao trùm nước Ý, Vatican. Chính Giáo hoàng Pius X trong một thoáng huyền cảm vào năm 1909 đã tiên kiến được cảnh hãi hùng "Điều ta thấy thật kinh khủng ! không biết sẽ xẩy ra vào thời ta hay vào thời sau? vị Giáo hoàng nào sẽ phải rời Rome, bỏ Vatican, vượt trên bao xác nhà tu mà đi ?".Bản tiên tri của Malachy có lẽ không dựa trên khoa chiêm tinh hay lý số mà là loại huyền khải, được "mở ra" trong phút giây huyền diệu và ghi lại. Bản in năm 1902 tại Paris do chính Chánh xứ Baume, Abbott Joseph Maitre bảo trợ. Đã từng là một vị Tổng giám mục và Khâm sai Tòa thánh, Malachy không phải là người ngoại đạo đặt điều phương hại tới tôn giáo của mình.Vị tu sĩ này chỉ ghi lại những gì đã được huyền khải, góp phần vào lịch sử kỳ diệu của nhân loại. Suốt non 1000 năm tiên tri không sai sót một câu, quả là thần ngôn thánh ngữ!

 

 

2. URSULA SOUTHIEL (Mother Shipton) (1488 - 1561)

 

          Sinh năm 1488 tại Yorkshire, Anh Cát Lợi, cùng thời với Trạng Trình, triều Mạc của Việt Nam. Bà rất thông minh và có năng khiếu tiên tri từ nhỏ. Năm 24 tuổi lấy chồng làm thợ mộc, nổi tiếng rất sớm qua những bài thơ tiên tri về nhiều sự việc đương thời như đoán trúng việc vua Henry VIII xâm lăng miền bắc Pháp năm 1513, đoán đúng Công tước Duke of Suffolk bị chém đầu (bà nói rằng sẽ tới lúc Công tước sẽ thấp lùn như tôi! My love, the time will come when you will be as low as I am - Duke of Suffofk bị chặt đầu năm 1554!).

Mãi tới năm 1646 các lời tiên tri của bà mới được thu thập lại và in thành tập Collection of Prophecies. Người sau nói có tới 18 bài đã xẩy ra đúng như tiên đoán, kể cả vụ cháy lớn thiêu hủy London năm 1666. Ngày nay các bài thơ tiên tri của bà được truyền tụng phổ biến bên Anh quốc như những bài ca dao dí dỏm và rất ứng nghiệm

Under water man shall walk

shall ride and sleep and talk in the air

men shall be seen in white and black and also green

Dịch:

Dưới nước sâu, người ta đi, lái tầu, ngủ, nói chuyện,

Trên không, thấy được người, đủ mầu, đen, trắng, xanh.

 

Đoạn này cho thấy từ 500 năm trước (cùng thời với Trạng Trình bên ta và Nostradamus bên tây) bà Shipton đã nhìn thấy thời đại tầu ngầm, điện ảnh, truyền hình! Một đoạn khác nói trước thời đại xe hơi, điện thoại, vô tuyến :

Carriages without horses shall go and accidents fill the world with woe.

Around the earth, thoughts shall fly in the twinkling of an eye.

Dịch:

Xe không ngựa kéo vẫn cứ đi, nạn khổ tai ương thật sầu bi,

ý tưởng bay vòng quanh mặt đất, nháy mắt đến nơi thật lạ kỳ.

 

Một đoạn thơ khác lại mô tả tiên kiến thế kỷ hiện đại Âu Mỹ như sau:

The women shall adopt a craze to dress like men and trousers wear and cut off all this lock of hair,

Then love shall die and marriage decrease the wives shall fondle of cats and dogs and men live much the same as hog

Dịch:

Đàn bà rồi sẽ điên cuồng, mặc quần mặc áo như tuồng đàn ông, cắt phăng lọn tóc bềnh bồng, tình yêu khô cạn vợ chồng hiếm hoi, vợ thời mèo chó ôm chơi, chồng thời heo lợn sống đời súc sinh.

 

Bà cũng tiên tri về trận chiến quyết định Armageddon, tuy không rõ năm tháng, nhưng viết là: cuộc chiến kéo dài 4 năm, vị vua từ xứ mặt trăng (xứ Hồi giáo) sẽ làm kinh hoàng cả thế giới, kéo nhiều nước vào vòng chiến.

 (Then shall come the Son of Man, having a fierce beast in his arms, which kingdom lies in the Land of the Moon, which is dreadful throughout the world,..and an eagle shall destroy castles of the Thames, and there shall be a battle among many kingdoms... and the fourth year shall be many battles for the faith and the Son of Man) .

Trận thánh chiến sẽ kéo dài 4 năm, sau đó thế giới sẽ được hưởng hòa bình thịnh vượng. Chữ "eagle" có người giải đoán gượng gạo là biểu hiệu của nước Mỹ (thời Bà tiên tri chưa có nước Mỹ!), nhưng cũng có thể là biểu hiệu của Đức, hoặc là loại vũ khí phi tiễn bắn vào nước Anh (castles of the Thames). Tiên đoán này cũng trùng hợp với Nostradamus và nhiều nhà tiên tri khác.

Bà Shipton mất năm 1561, hình bà được nặn sáp (wax) đứng tại nghĩa trang nổi tiếng Westminster Abbey.

 

3. NOSTRADAMUS ( 1503- 1566)

            Nostradamus là tên La-tinh hóa của Michel de Nostredame, bác sĩ và chiêm tinh gia người Pháp, tác giả quyển Những Thế Kỷ (Les-Centuries), một bộ sưu tập lừng danh những điều tiên tri của ông được xuất bản năm 1555.

Nhắc đến các nhà tiên tri trên thế giới, người đầu tiên nhân loại nhớ đến là Nostradamus bởi khác với những nhà tiên tri khác, ông có khả năng đoán vận mệnh thế giới trong một thời gian dài. Những lời tiên đoán của Nostradamus về những biến cố trọng đại của thế giới như tật bệnh, chiến tranh, về các thiên tai khủng khiếp, hầu hết đều được chứng minh trong thực tế.

Nostradamus từ nhỏ đã bộc lộ những tài năng trời phú, nhất là ở bộ môn toán học, thiên văn và chiêm tinh. Tốt nghiệp trường đại học, Nostradamus trở thành một bác sĩ cho đến khi dịch hạch ập đến cướp đi tính mạng tất cả thành viên trong gia đình ông. Rời bỏ quê hương, Nostradamus bỏ đi lang thang đến nhiều nơi trên đất nước Pháp và Ý. Mang tâm trạng u uất và đau khổ, “người đàn ông với đôi mắt sâu thẳm” đến với một niềm đam mê mới trong ngành khoa học huyền bí. Năm 1550, ông cho xuất bản “đứa con” đầu tiên trong sự nghiệp tiên tri của mình và mang lại thành công bất ngờ.

Nostradamus tiếp tục sự nghiệp với hơn 1.000 bài thơ tứ tuyệt mà sau này đã trở thành những lời Sấm Ký của loài người. Tuy nhiên, để tránh con mắt soi xét của chính quyền và giáo hội, ông phải dùng biện pháp chơi chữ và các loại ngôn ngữ khác như Hy Lạp, La Tinh, Italy, Do Thái và Ả Rập… Chính điều này đã gây khó khăn cho việc phiên dịch những lời sấm của cấc tầng lớp hậu duệ. Cuốn sách “Les propheties” (tạm dịch là “Những lời sấm”) của ông ra đời gây nhiều sự phản ứng trái ngược của công chúng. Có người cho ông là tay sai của quỹ dữ, một kẻ ngông cuồng và dối trá, song cũng có rất nhiều người ủng hộ ông, đặc biệt là tầng lớp quý tộc.  Một trong những người vô cùng sùng mộ Nostradamus là hoàng hậu Catherine de Médicis, phu nhân của vua Henry đệ II.

 

- Cái chết của vua Henry đệ nhị

Sư tử con sẽ vượt qua sư tử già

Trong cuộc chiến chỉ có một trận đánh

Nó sẽ đâm thủng mắt từ trong lồng vàng

Hai vết thương và một cái chết thảm thương.

Đó là một trong số ít những lời sấm dễ hiểu và chính xác nhất của Nostradamus được ghi trong quyển Thế kỷ 1, câu 35. Phớt lờ lời cảnh báo về cái chết đau đớn này, vua Henry II vẫn nhận lời giao đấu với bá tước Montgomery. Cả hai người cùng đeo khiên khắc hình sư tử và Montgomery - “sư tử con” ít hơn “sư tử già” 6 tuổi. Cuộc chiến diễn ra hoàn toàn trùng khớp với lời sấm, vua Henry bị mù và ra đi sau 10 ngày nằm trên giường bệnh.

 

             - Cảnh báo việc Napoleon bại trận ở Nga

Năm 1812, được sự ủng hộ của một số quân đồng minh như Italy, Áo và Đức, Napoleon đem quân xâm chiếm nước Nga. Đội quân viễn chinh hùng mạnh này đông tới 600.000 người, tuy nhiên cũng hoàn toàn chịu bó tay khi quân đội Nga dùng chiến lược tiêu thổ, rút quân để lại những thành phố hoang tàn trơ trụi. Không còn cách nào khác, đội quân của Hoàng đế chỉ còn đường rút lui đúng lúc mùa đông lạnh giá ập đến. Kết cục quân sĩ chết rải rác dọc đường lui quân và chỉ còn sống sót vài nghìn người. Nếu như Napoleon chịu nghe theo lời cảnh báo của Nostradamos trước đó, chắc chắn đã không phải nhận kết cục thảm thương như thế. Lời sấm của Nostradamus đã cảnh báo trước rằng:

Một đội quân lớn sẽ tràn vào nước Nga

Những người bị xâm lược sẽ phá hủy một thành phố

Quân chủ lực sẽ phản công

Những kẻ chiến bại sẽ chết trên miền đất trắng.

        Nostradamus còn đưa ra dự báo về số phận của Napoleon

Hoàng đế vĩ đại sẽ khởi đầu với một vị trí thấp kém

Và nhanh chóng trở nên lớn mạnh

Nơi nhỏ hẹp sẽ trở thành trung tâm

Khi ông giành được quyền lực tối cao.

Ông hoàng chiến bại bị lưu đày ở Elba

Sẽ trở về Marseille qua vịnh Genoa

Nhưng không vượt qua được các thế lực ngoại bang

Tuy thoát chết nhưng vẫn phải đổ máu.

Napoleon bị lưu đày tại đảo Elba nhưng trốn ra sau 100 ngày giam cầm. Sau khi thất bại trong trận Waterloo, ông bị tước mọi quyền lợi và lưu vong tại đảo St. Helena cho tới khi qua  đời năm 1821.

 

              - Vụ hỏa hoạn thảm khốc ở London năm 1966

Máu của thần công lý sẽ bao phủ London

Thành phố sẽ cháy vào năm 66

Vị phu nhân mất địa vị tối cao

Và nhiều nơi bị hủy hoại.

Vụ hỏa hoạn này cũng được Nostradamus báo trước trong Quyển Thế kỷ 2, câu 51. Đây cũng là một trong những lời sấm gây ngạc nhiên nhiều nhất vì ông còn dự đoán chính xác cả năm xảy ra thảm họa.

-      Nostradamus còn tiên đoán được sự kiện phi thuyền con thoi của Mỹ bị nổ tung khi được phóng khỏi giàn phóng.

-      Ông thậm chí biết trước cả ngày tháng năm ông mất (2/7/1566). Nhà tiên tri đã cho bọn đào trộm hầm mộ một phen kinh hãi khi nhìn thấy dấu tích ghi ngày tháng năm ông tạ thế trên bàn tay ông trong hầm mộ.

Những lời tiên tri của Nostradamus thường rất khó hiểu, hoặc có thể diễn giải theo nhiều nghĩa.

-Về tương lai, nhà tiên tri còn cho rằng sẽ bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thứ ba kéo dài 30 năm, bắt đầu từ năm 1999. Lúc bấy giờ Pháp là quốc gia bị thiệt hại nặng nề. Trước đó là sự xích lại gần nhau của hai siêu cường Nga, Mỹ. Sau thế chiến thứ 3 đầy tàn khốc, nhân loại ai còn sống sót sẽ sống một thời gian dài thái bình an lạc.

 

 

4. LOUIS HAMON (1866 – 1936)

 

Nhà tiên tri Anh nổi tiếng một thời tự phong hầu tước Count của Hoàng triều Anh Quốc, biệt hiệu trong giới bói toán là Cheiro, lấy chữ Hy Lạp, chỉ bàn tay. Ông tiên đoán bằng nhiều phương pháp như xem chỉ tay, chiêm tinh và số học.

Ông sinh tại một làng ngoại ô Dublin, Ái Nhĩ Lan, cha người Anh, mẹ người Pháp rất tin chiêm tinh. Năm chưa đầy 20 tuổi ông bỏ nhà sang Bombay, Ấn Độ, lúc ấy ông đã có tài tiên tri lại được học thêm khoa chỉ tay của đạo sĩ Bà La Môn và được huấn luyện học tập 3 năm với một đạo sĩ guru, nên năng khiếu bói toán của ông càng sắc bén rộng rãi hơn. Ông có viết một tập sách bàn về khoa lý số Ấn Độ mà ngày nay còn được các chiêm tinh gia Ấn dùng làm tài liệu khảo cứu. Sau khi rời Ấn ông đi chu du sang Ai Cập. Trở về London năm 24 tuổi, ông bắt đầu hành nghề xem chỉ tay và nổi tiếng tức thời. Tới năm 27 tuổi ông thầy xem chỉ tay đã mải mê nghiên cứu được hơn 6000 bàn tay. Sau 3 tháng nằm bệnh ông sang Mỹ và đi diễn thuyết khắp nơi về khoa bói toán chỉ tay. Danh tiếng ông nổi lên như diều sau khi ghé vào tai tử tù H. Meyer nói rằng cứ yên trí sẽ không bị lên ghế điện, quả nhiên một ngày trước khi lãnh án, tội tử hình được đổi ra tù chung thân! Cả nhà văn Mark Twain cũng tới gặp ông xem quẻ và ngay Tổng Thống G. Cleveland cũng nhờ ông xem chỉ tay.

Ông đoán Tổng Thống Cleveland sẽ không có nhiệm kỳ thứ ba! Một luật sư tên tuổi ở New York, cựu Đại Tá thời Nội chiến, Robert Ingersoll phải thốt lên rằng "tôi có thể không tin Chúa, không tin Quỷ, không tin người, chứ không thể không tin Cheiro !" Trở về Anh năm sau, 1894, ông được Bộ trưởng Quốc phòng Lord Kitchener vời vào xem chỉ tay. Ông khuyên năm 66 tuổi Lord Kitchener không nên đi tầu thủy. Nhưng năm 1916 vì nhiệm vụ Bộ Trưởng Lord Kitchener đã lên chiến hạm Hampshire đi Nga để gặp Nga Hoàng Nicholas II. Chẳng ngờ chiến hạm trúng mìn của Đức và bị chìm.

Năm 1900 ông được ban huân chương cao quý của Ba Tư vì đã báo trước cho Shah Ba Tư là sẽ có kẻ mưu sát nhà vua tại Hội chợ quốc tế Paris. Năm 1911 ông dặn dò nhà văn và nhà xuất bản nổi danh William Stead chớ nên đi đâu bằng tầu thủy trong tháng 4 - 1912. Ông Stead không tin nên đã lên tầu Titanic và chết dưới lòng biển ngày 14 – 4 - 1912. Các vua chúa Âu Châu lúc đó như vua nước Bỉ, vua nước Ý, vua Edward VII nước Anh đều tin tài bói toán của Cheiro. Qua Anh hoàng, ông được dịp gặp vua Nicholas II của Nga và đã đoán rằng năm 1917 là năm đại họa cho nhà vua và hoàng gia. Năm 1904 ông được Nga hoàng tiếp đón tại lâu dài Mùa Hạ ở St. Petersburg. Trong thời gian lưu lại Nga, ông gặp một ông đạo kỳ dị của Nga là Grigori Rasputin, cả hai kỳ phùng trong một trận thôi miên bất phân thắng bại, không ai thôi miên được ai. Ông tiên đoán Rasputin sẽ chết trên dòng sông băng giá Neva sau khi bị đánh thuốc độc, bị đâm và bị bắn. Điều này 11 năm sau đã xẩy ra cho Rasputin y hệt lời tiên đoán.

Về những biến cố lịch sử trọng đại, Cheiro đã đoán trước được Đại chiến thứ I bùng nổ, cách mạng Cộng sản Nga và Trung Quốc. Ông còn tiên tri được cả tên nước Israel do người Do Thái trở về lập quốc ở Palestin, nước Ấn Độ sẽ độc lập để rồi bị chia cắt thành Hồi và Ấn. Cheiro cũng đoán trước thời Franco độc tài ở Tây Ban Nha.

Những tiên đoán về tương lai thế giới gồm có:

- Nhật và Tầu sẽ liên minh để chỉ đạo Á Châu.

- New York sẽ bị trận động đất lớn tàn phá.

- Không quân Nga sẽ san bằng London.

- Trận Đại chiến Armageddon sẽ bùng nổ khi Nga, Libya, Ethiopia, và Iran xâm chiếm Palestine.

Cheiro sang Hollywood sinh sống vào năm 1930, mở trường Siêu hình, xem chỉ tay cho nhiều tài tử và mất năm 1936 tại Hollywood Boulevard.

 

5. EDGAR CAYCE (1877- 1945)

 

Ông Edgar Cayce sinh năm 1877 tại một làng quê gần Hopkinsville thuộc tiểu bang Kentucky. Thuở nhỏ cậu Edgar học rất kém, năm lên 9 tuổi vẫn không biết đánh vần một chữ ngắn như chữ cabin. Một hôm ông bố kèm mãi không thấy con đánh vần đúng bèn bỏ ra ngoài và cho cậu bé nửa tiếng để ngồi ôn tập. Cậu bé Edgar thay vì ngồi học đánh vần lại thiu thiu ngủ, và lạ thay, trong giấc mơ màng cậu nghe thấy tiếng ai nói vào tai "cứ ngủ đi, ta sẽ giúp con học". Nửa giờ sau bị đánh thức dậy và tiếp tục đánh vần, thì kỳ diệu thay, cậu đánh vần trơn tru không những một chữ mà cả một tập! Suốt thời niên thiếu Edgar đã nhiều lần đắm chìm trong những cơn mê sảng kỳ diệu. Edgar bỏ học khi mới lên lớp 9, rồi làm đủ mọi việc: thư ký, bán sách, bán bảo hiểm, làm nghề chụp ảnh... lấy vợ, sinh hai trai, ngày ngày đọc Kinh... nhưng diệu năng chữa bệnh đặc biệt mới là nghề tay trái thường xuyên của ông. Nhờ một người cùng tỉnh nhà biết thuật thôi miên giúp ông thiếp đi và mỗi lần nằm "ngủ" như vậy ông bật ra khả năng chẩn bệnh và trị liệu cho nhiều bệnh nhân.

Tên tuổi ông bắt đầu được lan truyền, nhiều bác sĩ và khoa học gia tới tận tỉnh Hopkinsville xa xôi hẻo lánh để thử khả năng chữa bệnh của ông. Tờ báo Hearst mời ông lên Chicago ra mắt quần chúng, tên ông được nhắc tới trên nhiều tạp chí kể cả tạp chí Y khoa. Mỗi lần nhận được thư từ hỏi bệnh từ bốn phương gửi tới, ông nằm dài trên ghế, thở sâu như thiền định, thiếp đi trong cơn mê, đồng thời nghe bà vợ đọc to từng bức thư. Từ cơn mê ông phân định tật bệnh và chỉ dẫn cách chữa. Năm 1927 những người hâm mộ gọi ông là "tâm thức vũ trụ" (Universal consciousness) và quyên góp xây hẳn một bệnh viện ở Virginia Beach cho ông chữa bệnh. Ông bị bắt 2 lần vì tội hành nghề Y khoa không có giấy phép và tội xem bói ở Nữu Ước, nhưng cả hai lần đều được tha bổng.

Ngoài khả năng chữa bệnh kỳ diệu, ông Cayce còn có năng khiếu tiên tri tài tình.

-         Tháng Tư năm 1929 ông đã đoán trúng cơn khủng hoảng thị trường chứng khoán cho một broker mặc dầu khi đó thị trường chứng khoán Mỹ đang đà lên suốt mấy năm liền.

-          Ông Cayce đoán trúng ngày khai chiến và ngày chấm dứt của hai cuộc Đại chiến thứ I và thứ II,

-         ngày độc lập của Ấn Độ, và Do Thái (ông đoán trước 15 năm việc lập quốc Israel).

-          cái chết của Tổng Thống Roosevelt và Kennedy.

-          Ông cũng biết trước cuộc khám phá tia Laser và ngày tìm ra Cuộn Kinh Thánh Biển Tử (Dead Sea Scrolls)

-         m 1926 ông tiên đoán rất đúng cuồng phong ở Nhật, động đất ở Cali, sóng thần ở Phi Luật Tân.

Sau đây là lời tiên tri của Edgar Cayce về tương lai thế giới:

- Tự do dân chủ sẽ lan rộng khắp thế giới kể cả Trung Hoa.

 Những biến thái vật lý trên mặt địa cầu có thể làm Bắc Âu rơi   xuống biển trong nháy mắt..

-          Nhật Bản sẽ bị động đất và núi lửa tàn phá.

-           Tiểu bang North và South Carolina, Georgia, nam Alabama sẽ chìm xuống lòng đại dương.

-          Thế Chiến thứ III sẽ xẩy ra và sau 1 năm chiến họa, văn minh thế giới hiện tại sẽ chấm dứt để nhường bước cho một thời đại hòa bình, tâm linh, thịnh vượng mới, dài 1000 năm.

 

Cayce đặc biệt chú trọng tới đại lục Atlantis khi xưa chìm dưới biển sẽ trồi lên thành đất liền từ Vịnh Mexico tới bờ Địa Trung Hải. Ông nói về chuyện này tới gần 700 lần trong toàn bộ tiên tri.

 

Edgar Cayce tin vào luật luân hồi và năm 1936 trong cơn mê ông thấy mình sẽ tái sinh 200 năm sau, vào năm 2158, khi ấy Nebraska sẽ là bờ phía Tây của Hoa Kỳ. Ngày 1 tháng Giêng năm 1945 ông Cayce nằm trong nhà dưỡng lão tại Roanoke, Virginia, tiên đoán là 4 ngày nữa sẽ là đám tang chính mình. Ông  chết đúng 4 ngày sau đó. Ông thọ 67 tuổi. Ông để lại hơn 14.000 lời đề cập tới hơn 10.000 sự việc trong hơn 50 năm "đồng thiếp". Hiện nay tại Hoa Kỳ, tên tuổi ông trong ngành khoa học huyền bí còn sáng chói hơn Nostradamus vì ông tiên tri nhiều về nước Mỹ, trong khi Nostradamus lại chú trọng vào Âu Châu, Trung Đông. Theo đó:

 

1 - Lời tiên tri về tự do dân chủ lan tràn toàn cầu đã nghiệm đúng. Trường hợp Trung Hoa (và vài nước khác như Việt Nam, Cuba...) đang trên đà cải hoán và thể chế dân chủ trước sau cũng sẽ tới. Cayce đã đoán đúng phong trào trở về tâm linh tôn giáo ở Nga Sô. Biến chuyển này khởi đầu hành trình tìm kiếm giá trị tinh thần mới trên toàn thề giới sau khi Duy vật và Duy Tâm tranh chấp nhau suốt cả trăm năm.

2 - Những thay đổi bất thường về khí hậu trên thế giới và Hoa Kỳ do ảnh hưởng El Ninõ có thể đã được Edgar Cayce cảm nghiệm và diễn tả là mặt đất biến đổi đột ngột -"sudden physical changes in the earth surface" hoặc trục địa cầu bị chệch - "shifts in the polar axis", từ đó ông tiên tri về những phần đất sẽ chìm xuống biển. Bờ biển Đông, Tây Mỹ, Trung bộ nước Mỹ đều không tránh khỏi biến đổi. Los Angeles, San Francisco sẽ bị tàn phá trước cả New York; vùng an toàn theo Cayne vẫn là vùng Trung tâm Hoa Kỳ (Ohio, Indiana, một phần Illinois).

-          Bản đồ thế giới sẽ biến đổi, ông thấy trước những trận cuồng phong, cháy rừng, động đất, núi lửa, hạn hán, đất lở...là những thiên tai đã và đang xẩy ra.

Theo Edgar Cayce, luật ân huệ vượt lên trên luật nhân quả. Nếu không được Thượng Ðế ban ân huệ, thì chúng ta sẽ phải trải qua 20 năm xung đột bạo lực, đổ máu và có thể có chiến tranh hạt nhân trước khi trái đất đổi trục.

 

Một nhà tiên tri Hoa Kỳ hiện đại, ông Gordon Scallion, một khoa học gia điện tử, cũng kinh qua những biến thái cơ thể giống Edgar Cayce: tự nhiên bị mất tiếng, nhìn suốt cơ thể bệnh trạng người khác, thấy luồng hào quang (điện từ trường ?) bao quanh người đối diện. Từ thập niên 80 tới nay, ông đoán rất đúng các thiên tai động đất, bão lụt tại California. Ông cũng cảnh giác về chuyển biến địa hình tại miền Tây và Nữu Ước giống như Cayce.

 

6. VANGA (Vangelia Pandeva Dimitrova) (1911- 1996)

Đêm mùa đông tháng 1/1941, bóng tối bao phủ làng Rupite hẻo lánh ở vùng biên giới Bulgary bỗng chốc bị xé toang bởi sự xuất hiện của một người lạ mặt có ánh sáng mờ ảo vây quanh. Bóng ma đi thẳng tới ngôi nhà của cô gái mù Vanga và nói như ra lệnh: “Thế giới đang đứng trước hủy diệt. Con phải mách bảo nhân loại cần làm gì”. Kể từ đó Vanga - tên đầy đủ là Vangelia Pandeva Dimitrova - chính thức bắt đầu sự nghiệp “cứu nhân độ thế” bằng những lời tiên tri huyền thoại.

Cô bé Vanga tóc vàng mắt xanh đã sớm mất mẹ từ khi còn rất nhỏ, không lâu sau đó người cha nhận lệnh gia nhập quân đội Bulgary. Sau Thế chiến thứ nhất, mấy cha con sống chật vật trong nông trại hoang tàn. Dù vậy, hoàn cảnh thiếu thốn không làm bé Vanga thôi yêu thích trò chơi “chữa bệnh” - ấy là khi cô tập tàng “kê đơn thuốc” cho bạn bè quanh mình. Một ngày nọ bão lớn ập đến làng. Trời bỗng chốc tối sầm như đêm phủ, cuồng phong thổi tung cây cối, mái nhà, và không hiểu bằng cách nào một cơn lốc xoáy đã nhấc bổng cô bé Vanga 12 tuổi lên không trung và ném xuống cánh đồng xa tít tắp. Sau nhiều nỗ lực tìm kiếm, dân làng cũng đã tìm thấy Vanga nằm bất tỉnh với hai hốc mắt lấp đầy cát bụi.

Cô bé trở thành khiếm thị kể từ đó. Chữa trị cách nào cũng không khỏi, Vanga chỉ còn nước cầu nguyện tới Chúa trời. May mắn, bé đã sớm phát triển được giác quan thứ 8 vô cùng nhạy bén.

Vanga bắt đầu đưa ra những lời tiên tri từ năm 16 tuổi.  Theo lời bà kể lại, trước hôm “bóng ma phát sáng” xuất hiện một vài đêm, cô đã liên tục mơ thấy có một nhân vật siêu phàm tới gặp cô và trao cho sứ mệnh cao cả. Những năm Thế chiến thứ Hai là khoảng thời gian Vanga tạo dựng được lòng tin nhiều nhất. Không biết bao nhiêu người đã tìm đến cô để được nghe “phán” người thân của họ ở chiến trường còn sống hay đã mất, thi thể họ được chôn cất ở đâu.

Trước khi nổi tiếng khắp trong nước và quốc tế, Vanga đã từng bị chính quyền Bulgary bỏ tù bởi lời tiên đoán cái chết của lãnh tụ Stalin. Một năm sau bà được thả từ do - ấy là khi Stalin đã từ trần thật. Dù vậy kể từ đó, Vanga luôn tỏ ra thận trọng với những lời tiên đoán về thảm hoạ toàn cầu hay số phận của các nguyên thủ. Bà chỉ tiết lộ với một số người nhất định, nhằm tránh gây hoang mang cho dân chúng.

Bà mất ở tuổi 96. Theo lời của Vanga, trong tương lai không xa sẽ xảy ra các vụ mưu sát 4 nhà lãnh đạo chính phủ. Những cuộc xung đột ở Indoustan (phần đất ở Nam Á bao gồm Ấn Độ, Afghanistan, Pakistan, Trung Quốc, Tây Tạng) sẽ là một trong những nguyên nhân chính mở màn cho cuộc chiến tranh thế giới thứ 3.

Năm 2010 - Năm bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ 3. Cuộc chiến tranh này sẽ bắt đầu vào tháng 11/2010 và kết thúc vào tháng 10/2014. Ban đầu, cuộc chiến tranh diễn ra bình thường, tiếp đó sẽ xuất hiện hàng loạt vũ khí hạt nhân và cuối cùng là vũ khí hóa học.

Năm 2011 - Không một loài động vật, thực vật nào ở Bắc bán cầu có thể sống được do kết quả của quá trình lắng cặn chất phóng xạ. Tiếp đó, những người Hồi giáo (người theo Đạo Hồi) sẽ bắt đầu một cuộc chiến tranh hóa học chống lại người Châu Âu.

Năm 2014 - Phần lớn loài người sẽ bị mắc chứng bệnh mưng mủ, ung thư da và các loại bệnh khác về da do hậu quả cuộc chiến tranh hóa học.

Năm 2016 - Châu Âu gần như không có người sinh sống.

Năm 2018 - Trung Quốc sẽ trở thành cường quốc thế giới mới. Những nước phát triển sẽ trở thành kẻ bóc lột các nước khác từ việc khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản.

Năm 2023 - Quỹ đạo Trái đất thay đổi.

 

  7. HUYỀN KHẢI FATIMA ( 1917 )

 

       Huyền khải Fatima vào năm 1917, thường gọi là huyền khải của Đức Mẹ hiện ra ở Fatima ( Portugal Bồ Đào Nha ) cho ba em bé chăn cừu Lucia Santos lên 10, Franscisco lên 8 và Jacinta Marto lên 7 tuổi.

Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, một tỉnh nhỏ nước Bồ Đào Nha Portugal vào thời gian có chính quyền chống lại đạo Thiên Chúa, nhóm chính trị chống đạo còn toan tính trong 2 thế hệ sẽ dẹp sạch đạo Thiên Chúa trên đất Bồ. Đức Mẹ hiện ra bốn lần:

-      lần đầu vào ngày 13–5–1917:  chỉ có ba đứa trẻ chăn cừu nhìn thấy và nghe được những lời huyền khải

-       lần thứ nhì vào ngày 13–6–1917 cách lần thứ nhất đúng một tháng và có thêm 50 người đi theo.

-       lần thứ ba 13–7-1917 có tới 5000 tín hữu. Ba đứa trẻ mô tả Người như một giai nhân trẻ, đẹp trên trời, những người khác không nhìn thấy hình dáng nhưng thấy một đám mây sáng láng. Lần thứ ba bé Lucia nghe thấy Bà dặn "mỗi tháng đúng ngày 13 con hãy tới đây và vào tháng 10 ta sẽ nói cho con biết ta là ai và ta muốn gì, rồi ta sẽ làm phép thần thông để cho mọi người thấy và tin"

Ngày 13-8-1917, ba đứa trẻ không tới xem Bà hiển linh được vì bị chính quyền bắt nhốt, mặc dù bị dọa nạt, hỏi cung, dọa cho luộc sống, ba đứa trẻ vẫn một mực nói thật. Rút cục chính quyền phải thả ra, và ngày 19 cùng tháng 8 ba đứa trẻ lại được Bà hiển linh nhắc lại tháng 10 Bà sẽ hiện ra lần chót. Nguồn tin lan đi khắp nơi nên

- Lần thứ tư: ngày 13–10-1917 mặc dầu mưa bão, có tới 50.000 – 80.000 người kể cả báo chí, kéo tới chật kín cả khu quanh làng. Và rồi chuyện lạ đã xẩy ra: mặt trời bỗng nhiên xoay tròn phóng ra tia sáng trắng, xanh lơ, xanh lá cây rồi tới mầu đỏ như máu, người ta nhìn thấy mặt trời như tới gần trái đất rồi lại nẩy như trái banh về vị trí cũ, cứ như thế ba lần. Hiện tượng này được người chứng kiến gọi là "mặt trời nhẩy múa".

Bà tiên (lúc đầu được gọi là Lady of Rosary) huyền khải cho ba đứa bé, tự xưng mình là Đức Mẹ Đồng Trinh (Virgin Mary), Bà nói rằng nhân loại phải ăn năn sám hối, trường chay và lần chuổi mân côi để cầu nguyện. Nếu không, 3 lời tiên tri của Bà sẽ xẩy ra không thể tránh được.

Lời tiên tri đầu tiên mô tả Địa ngục nơi cầm giam những kẻ không hối cải.

-       Lời tiên tri thứ hai nói về Đại chiến thứ hai sẽ xẩy ra trừ phi nhân loại cải hóa, khi nào trên trời hiện ra một luồng sáng lạ, khi ấy là điềm chiến tranh bộc phát và sẽ bộc phát vào thời Giáo hoàng kế tiếp.

Giáo hoàng kế tiếp, Pius XI, mất năm 1939, đã thấy khởi đầu thế chiến khi Đức Quốc Xã xua quân xâm lăng Ba Lan. Đúng như lời huyền khải tiên tri, đêm 25 tháng 1 năm 1938 một tia sáng lạ lùng chiếu sáng rực cả bầu trời Tây Âu, có nơi ánh sáng mạnh đến nỗi nhân công làm ca đêm không cần thắp đèn! Báo chí thời đó gọi là "ánh lửa địa ngục". Vào đêm hôm đó, Hitler đang lên kế hoạch tấn chiếm Ba Lan và hai tháng sau, tháng 3, 1938 mở đầu thế chiến điên rồ! Thật đúng lời thánh Virgin Mary: khi nào các con thấy luồng sáng kỳ lạ là dấu hiệu của Thượng đế cho biết chiến tranh, đói khát, sẽ trừng phạt nhân loại và phương hại tới Giáo hội và Thánh Cha (Holy Church and Holy Father).

-      Lời huyền khải thứ ba hiện còn được giữ kín. Đây là lời tiên tri về thế giới và giáo hội La Mã sau Đệ nhị thế chiến, những lời này đã được Lucia viết xuống vào năm 1943 và trao cho Giáo hoàng với lời căn dặn là chỉ được mở ra vào năm 1960. Theo tác giả tập Bách khoa Tiên tri (Encyclopedia of Prophecy) Omar Garrison, nguồn tin từ giới thân cận Giáo hoàng John XXIII là tu sĩ Padre Pio, cho biết sau khi đọc lời tiên tri huyền khải thứ ba, ngài đã "run sợ đến gần như muốn ngất xỉu vì kinh hoàng" !

Năm 1968, Padre Pio chết, phóng viên chuyên môn về giáo sự Vatican là Domenico Del Rio dường như đã có được tài liệu bí mật ấy. Theo nhà báo Del Rio , sau khi phỏng vấn Giáo hoàng John Paul II, Đức Giáo hoàng chỉ nói "nội dung bản tiên tri rất đáng chú ý, nói tới cả triệu triệu người chết bất ngờ từ phút giây này tới phút giây khác". Tháng 5 – 1981 ngày 13, đúng 64 năm sau ngày Virgin Mary hiện ra ở Fatima lần đầu (13 tháng 5, 1917), Giáo hoàng John Paul II bị mưu sát tại quảng trường St Peter Square.

Lời tiên tri thứ ba này đã là đề tài nghiên cứu tranh luận từ lâu trong giới lý số học Tây phương. Năm 1963, một tờ báo Đức đăng tải toàn bản tiên tri thứ ba này, theo đó một cuộc Đại chiến sẽ bùng nổ vào hậu bán thế kỷ 20, tàn phá tan tành nhiều nước, hành phạm giáo hội Thiên chúa giáo La Mã (persecution of the Catholic Church) cùng với việc ám sát một vị Giáo hoàng.

Theo nhiều tài liệu tiết lộ thì lời tiên tri thứ ba còn bao gồm những chi tiết kinh khủng như Satan mưu đồ lên đứng đầu Giáo hội, đặt người chỉ huy dũng mãnh cầm quân gây chiến, sản xuất vũ khí hàng loạt, tạo tranh chấp nội bộ khiến các Hồng y, Giám mục chống đối lẫn nhau. Thời kỳ đen tối này bệnh dịch, lụt lớn, binh lửa, võ khí tối tân... làm triệu triệu người chết trong giây phút ! Nhưng rồi một bậc Thiên Tử sẽ xuất hiện để tiêu diệt ác tà và mang lại thanh bình vĩnh cửu cho thế gian vào Tân kỷ nguyên.

 

Trong số ba đứa trẻ chăn chiên, Lucia lớn nhất. Vị nữ tu này đã ngoài 90 tuổi và năm 1982 đã được Giáo hoàng viếng thăm tận nơi, bà sống biệt lập tránh mọi phỏng vấn. Hai đứa trẻ khác, bị bệnh cúm và mất ngay năm sau, 1918. Chính Đức Mẹ đã nói trước về sinh mệnh của ba đứa trẻ đặc biệt này ngay từ lần hiển linh đầu tiên.

 

          Đây không phải là lời tiên tri dựa trên chiêm tinh lý số mà là một huyền khải siêu linh từ bậc linh thánh của một tôn giáo lớn. Giáo hoàng John Paul II  sau khi bị ám sát hụt (1981) đã tới thăm nữ tu Lucia, người còn lại độc nhất của huyền khải Fatima, vào năm 1982. John Paul II đã thực hiện sứ mệnh cải thiện không ngừng nghỉ, từ việc quyết tâm chống phá thai đến việc công du tới tận châu Mỹ để ngỏ lời gần như xin lỗi với dân Maya về những quá độ của truyền giáo đoàn trong những thế kỷ trước... Nhũng sự việc ấy có thể phát xuất từ thiện chí sẵn có của các Ngài nhưng cũng có thể là dấu hiệu cho thấy huyền khải thánh ngôn Fatima đã chứa đựng sức thúc đẩy: nếu nhân loại không cải thiện thay đổi thì thế gian kể cả Giáo hội sẽ không thể tránh được họa địa ngục Satan tới gần kề vào cuối thế kỷ này !

Theo lời tiên tri huyền khải trên thì nhân loại cũng không tận thế! Sau đại chiến vẫn còn người sống sót và một bậc Thiên tử chí nhân chí thiện sẽ khai mở kỷ nguyên mới. Giới Thiên Chúa giáo thì cho rằng đấy là Chúa Ky Tô tái giáng thế, Nostradamus một người gốc Do Thái thì không xác nhận như vậy mà chỉ tiên tri rằng một bậc Thánh nhân sẽ đưa nhân loại vào thời đại thanh bình mới khác với 2000 năm cũ. 

          Năm 1961 tại một tỉnh nhỏ xứ Tây Ban Nha một em bé gái tên Mari Loli Mazon đã thấy Đức Mẹ hiển linh và nhận huyền khải tương tự cùng với mấy em khác. Thời này truyền thông phim ảnh đã tiến bộ nên ghi lại được rõ ràng những hiện tượng kỳ lạ như bốn người lớn không lay động được một em bé, các em chạy ngược phía sau, mắt không chớp dù que diêm cháy để trước mắt... Các em đều thấy một cảnh tượng hãi hùng, nhân loại chết cháy, không nước uống... dường như Mari Mazon nhận huyền khãi và chỉ được tiết lộ thiên cơ 8 ngày trước đại biến !...

 

 

8. JEANE DIXON (1918 – 1997)

 

Bà Dixon người Đức, cùng cha mẹ sang California từ nhỏ. Theo lời bà kể lại, tại California bà gập một người thầy bói gốc Gypsy Bohemien cho bà biết là bà có năng khiếu tiên tri đặc biệt. Là một tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã thuần thành, bà cho năng khiếu ấy là hồng ân Thiên chúa. Bà thường nhìn vào quả cầu thủy tinh để tiên đoán và cũng dùng khoa chiêm tinh để bói quẻ.

Năm 1952 đứng trước tượng Virgin Mary tại nhà thờ St Matthew, thuộc Washington D.C. bà chợt thấy hình bóng tòa Bạch ốc với con số 1 – 9 – 6 - 0 trên nóc, bà còn thấy một người đàn ông trẻ tuổi, mắt xanh , tóc nâu, lơ lửng trước cửa chính, rồi trong thâm tâm bà bỗng có tiếng nói bảo rằng người đàn ông trẻ đó là một người thuộc đảng Dân chủ, sẽ được bầu làm tổng thống vào năm 1960, nhưng rồi bị chết bất đắc kỳ tử trong lúc đương nhiệm. Chuyện này được kể nhiều lần và năm 1956 được đăng trên báo.  Bà còn đoán tên kẻ ám sát có 2 vần và 5 -6 chữ, chữ đầu trông như O hay Q, chữ sau chắc là S, chữ cuối cong dựng đứng! (tên thích khách Oswald).

Tòa Bạch Ốc và ngay T.T. Kennedy tuy biết chuyện tiên tri nhưng chẳng ai tin vào bói toán . Ngày 22 – 11 - 1963 Bà Dixon dự buổi ăn trưa tại khách sạn Mayflower tại Washington D.C. với hai người bạn, bỗng nhiên bà nói "không nuốt nổi, có chuyện ghê gớm xẩy ra cho Tổng Thống bữa nay". Ngay lúc ấy dàn nhạc khách sạn ngưng lại để loan tin Tổng Thống Kennedy bị bắn tại Dallas và chết lúc 1 giờ trưa Nhiều tài liệu sách báo chứng nhận bà Dixon đã tiên đoán được vụ ám sát Thánh Gandhi, Martin L. King, Robert Kennedy, cái chết của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Dag Hammarskjold, Ngoại Trưởng Dulles, vụ Marilyn Monroe tự tử, cuộc nổi dậy của người Mỹ da đen thập niên 1960.

Bà cũng tiên đoán hàng loạt những vụ tự tử xẩy ra trên đất Mỹ, có thời lời tiên tri này bị cho là sai, nhưng nhiều đợt tự tử do các giáo phái gây ra trong những năm gần đây cho thấy bà có phần đúng ! Jeane Dixon tiên đoán Hoa Kỳ sẽ bị những lực lượng man rợ từ thế giới thứ ba (third world) tấn công và nước Mỹ sẽ phải trả giá bằng máu lửa cho những băng hoại luân thường đạo lý. Bà cũng tiên tri số tử vong rất lớn vì vũ khí vi trùng, một Giáo hoàng bị ám sát và Thiên Chúa Giáo La Mã bị đối phương tấn công hữu hiệu về mặt lý tưởng giáo điều (ideological attack).

Ngày 5 tháng 2 năm 1962 nhìn qua cửa sổ xuống đường đột nhiên bà Dixon thấy tất cả biến thành sa mạc và lại thấy Hoàng hậu Nerfertiti và Vua Ai Cập Pharaoh Akhenaten bồng một trẻ sơ sinh dơ lên cho đám đông hoan nghênh mừng rỡ. Bà giải đoán là một đại thánh nhân xuất hiện mang lại hòa bình đoàn kết cho nhân loại và phải vào năm 1999 thế giới mới nhìn thấy. Mấy năm sau bà giải đoán lại là đứa bé đó không phải thánh nhân mà chính là một Antichrist sẽ ngự trị thế gian từ Jerusalem !

Ngày 5 Feb. 1962 rất đặc biệt vì tất cả các sao Sun, Moon, Mercury, Venus, Mars, Jupiter, Saturn đều nằm ở cung 11 Aquarius, báo hiệu sự xuất thế của một đại nhân vật cho kỷ nguyên Aquarius thay kỷ nguyên Pisces.  Bà Dixon thấy một đại lãnh tụ xuất thế vào năm 1962,  theo năm ta là tuổi Nhâm Dần (Dần là con hổ, Nhâm biến vi vương, là vua). Đây là nhân vật của kỷ nguyên canh cải Aquarius (Aquarius = Reformer), thay thế kỷ nguyên Pisces vốn được coi là kỷ nguyên của Jesus Christ.

Có thể vì áp lực tôn giáo mà bà Dixon đã cải chính giải đoán lúc đầu và nói lại nhân vật ấy là một Antichrist chăng? Nhìn các tinh tú vào ngày Bà thấy đứa bé chào đời ở vùng sa mạc Trung Đông, với 7 tinh tú hội tụ một cung, có thể khẳng định là có sự xuất thế của một đại nhân ảnh hưởng tới toàn thể nhân loại, còn thiện hay ác lại là chuyện khác...

 

 

 9. JUCELINO NOBREGA DA  LUZ

 

Nhà tiên tri Juseleeno sanh năm 1960 tại nước Brazil. Ông từng dự đoán đúng nhiều sự kiện và các thảm họa đã xảy ra trên thế giới như sự kiện 9.11 trên nước Hoa Kỳ, chiến tranh tại Afghanistan, Iraq và sự bại trận của Tổng thống Saddam Hussein cùng sự bị bắt giữ tại Tikrit, trận động đất cùng sóng thần (tsunami) tại quần đảo Indonesia, và sự tạ thế của đức Giáo hoàng Paul đệ nhị.

Vào ngày 30 tháng 4 năm 1997, Juseleeno đã gửi đến cho đại sứ quán Indonesia tại Brasil một lá thư về sự dự đoán của ông là vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, vào lúc 7 giờ, sẽ có một trận động đất với cường độ 8.9 và nó sẽ tạo nên một cơn sóng thần cao đến 10 mét. Juseleeno nhận được thư phúc đáp là: “…. có rất nhiều sự việc mà chúng tôi không thể không đi làm nhưng chúng tôi không thể giải quyết những việc chưa phát sinh...!

Năm 2004: vào 26/7/2004:7 giờ, vào lúc 7 giờ, sẽ có một trận động đất với cường độ 8.9 và nó sẽ tạo nên một cơn sóng thần cao đến 10mét tại Indonesia....

Năm 2008: vào tháng 7, tại Nhật Bản, sẽ có một trận động đất và cơn sóng thần với chiều cao 30 mét.

Vào ngày 17 tháng 12, tại Mỹ, sẽ có khủng bố xảy ra.

Vào ngày 18 tháng 9, tại Trung Quốc, sẽ có một cuộc động đất với cường độ trên 9.1 Địa điểm xảy ra động đất là Nam Kinh (Quảng Tây) và đảo du lịch Hải Nam là trung tâm địa chấn. Cơn sóng thần cao của nó cao đến 30 mét, sẽ mang đến sự tử vong cho hàng triệu người. Tuy rằng sau Thế Vận Hội Olympic mới có động đất này, trước Thế Vận Hội đã có các cơn động đất nhỏ. Vì chính phủ Trung Quốc đang đổ dồn hết sức lực để lo cho việc tổ chức Thế Vận Hội nên sẽ lờ đi các cơn tiền chấn này, không chuẩn bị trước các sách lược để đối phó. Chính phủ Trung Quốc cũng có ý muốn ém nhẹm sự kiện này. Những hành động này của chính phủ Trung Quốc, nếu có, thì sẽ mang đến tai họa thảm khốc và trùng hợp với câu trích dẫn của Mr. “Time Traveler” John Titor rằng “Thế Vận Hội Olympic 2004 tại Hy Lạp sẽ là cái cuối cùng của thế giới”

Chú thích:

1.Trận động đất Ấn Độ Dương 2004 đã xảy ra với cường độ được ước lượng khoảng từ 8.90-9 Richter, gây ra một loạt những cơn sóng thần khủng khiếp ngày 26 tháng 12 năm 2004 giết hại khoảng 230,000 người (gồm 168,000 người tại riêng Indonesia), biến nó trở thành trận sóng thần gây nhiều thiệt hại nhân mạng nhất trong lịch sử. Cơn sóng thần giết hại người dân ở cả vùng lân cận trận động đất tại IndonesiaThái Lan và bờ biển tây bắc Malaysia cho tới những nơi cách xa hàng nghìn kilômét tại BangladeshẤn ĐộSri LankaMaldives và thậm chí tới cả SomaliaKenya vàTanzania ở Đông Phi.

             2. Động đất Tứ Xuyên, nước Trung Hoa  năm 2008:  chấn tâm thuộc huyện Vấn Xuyên, Châu tự trị  cách Thành Đô, thủ phủ Tứ Xuyên, khoảng 90 km về phía Tây - Tây Bắc. Trận động đất này xảy ra vào lúc 06:28:01.42 UTC (14:28:01.42 giờ địa phương) ngày 12 tháng 5 năm 2008. Cơn địa chấn này có cường độ 7,8 độ Richter . Trận động đất này đã tác động đến nhiều khu vực cách xa tâm chấn như: Bắc Kinh (cách 1500 km về phía Đông Băc), Thượng Hải (cách 1700 km về phía Đông), PakistanThái Lan, và  Hà Nội của Việt Nam. Đây là trận động đất mạnh và thảm khốc nhất xảy ra tại Trung Quốc kể từ sau trận Động đất Đường Sơn năm 1976 ( giết chết hơn 250.000 người ), còn trận động đất này làm gần 69.000 người thiệt mạng, 292.480 người bị thương và 18.000 người mất tích.                                                                                         ( theo thống kê ngày 1.6.2008 ) .

Năm 2010: tại nhiều quốc gia ở Phi Châu, nhiệt độ sẽ lên cao đến 58 độ Celcius và đồng thời có sự khan hiếm nước nghiêm trọng. Vào ngày 15 tháng 6, thị trường Stock Down Jones của NewYork sẽ bị sụp đổ và kinh tế toàn cầu sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm

Năm 2011: phương pháp trị liệu ung thư thành công, nhưng đồng thời có một loại bệnh độc lạ xuất hiện. Người nào bị nhiễm cơn bệnh này thì sẽ chết ngay sau đó 4 tiếng đồng hồ.

Năm 2013: ngoài bệnh ung thư bướu não, phương cách trị liệu các bệnh ung thư khác đều thành công. Tại vùng quần đảo Canary của Tây Ban Nha, từ ngày 1 cho đến ngày 25 tháng 11, vì sự bộc phát của núi lửa, địa chấn phát sanh ra. Tiếp sau đó sẽ có một cơn sóng thần với độ cao 150 mét. Khi dồn vào đến quần đảo Canary, nó còn cao đến 80 mét. Tại Mỹ và Ba Tây cũng chịu ảnh hưởng của cơn sóng thần, nước biển sẽ tràn sâu vào đất liền khoảng từ 15 đến 20 dặm Anh. Ngoài biển, trước cơn sóng thần này, nước biển sẽ rút xuống 6 mét và các loài chim bay đầy trên bầu trời.

Năm 2014: có một tiểu hành tinh đến gần và sẽ có sự va chạm với địa cầu. Sự va chạm này có thể mang đến sự diệt vong nhân loại.

Năm 2015: trong tháng 11, nhiệt độ trung bình của trái đất sẽ đạt đến 59 độ Celcius và thế giới đại loạn sẽ phát sinh

Năm 2016: vào trung tuần tháng 4, Typhoon sẽ phát sinh tại Trung Quốc; một số thành phố lớn bị phá hoại. Tổng thống Mỹ George W. Bush sẽ khẩn cấp nhập viện về bệnh trạng ảnh hưởng đến tính mạng.

Năm 2026 ( Bính Ngọ ): vào tháng 7, tại San Francisco sẽ xảy ra một cuộc động đất kinh thiên động địa (The Big One) vô tiền khoáng hậu. Đất tại lằn nứt Saint Antonio bị phá và làm tiểu bang California bị sụp đổ. Rất nhiều núi lửa sẽ phát sinh và các cơn sóng thần cao trên 150 mét.

Từ những dự đoán của Juseleeno, nhiệt độ của địa cầu đến năm 2012 tại Phi Châu đạt đến 58 độ Celcius và nạn thiếu nước trầm trọng xảy ra. Sự gia tăng nhiệt độ tiếp tục gia tăng và đạt tới 59 độ Celcius; nhiều người bị nóng chết và nhân loại trên toàn cầu bị rơi vào khủng hoảng. Bất luận như thế nào, sự gia tăng nhiệt độ của địa cầu thì nhanh chóng hơn là sự suy đoán của các khoa học gia trên thế giới là rất chậm.

Những sự kiện này nếu đúng thì thời gian cho nhân loại không còn lại bao nhiêu !......


10. LỜI CỦA MỘT DẪN ĐẠO SƯ

TRONG TÁC PHẨM “THẾ GIỚI KHI XƯA” (THE WORLD BEFORE)

Tác giả: Ruth Montgomery Coward, Mc Cann Geoghegan,

Inc. 200 Madison Ave, New York, NY. 10016

 

I. LỜI NÓI ÐẦU

 

Tác-giả là một phóng viên báo chí, vốn không tin những sự huyền bí. Nhưng trong nhiều năm, bà đã được chứng kiến nhiều sự kỳ lạ xảy đến cho những người thân và bạn bè, báo trước những việc sắp tới, hoặc báo tin đúng lúc việc xảy ra tại nơi khác rất xa, có khi phải vài ngày sau mới được tin theo lối thông thường. Bà cũng đã tiếp xúc với nhiều con đồng (medium), dự nhiều phiên gọi hồn và viết tự động mà ta gọi là cầu cơ. Con đồng là người có khả năng tiếp xúc với người sống qua miệng hoặc tay của họ. Chính tác-giả cũng có khả năng đánh máy tự động, là để cho một linh hồn mượn tay của mình đánh máy ra những điều muốn nói.

Bà là một trong nhiều nhà học giả khảo cứu về thế giới vô hình. Nhờ những điều hỏi được các linh hồn, bà đã viết ra một số sách, như: A Search for the Truth (Tìm Sự Thật), A Gift of Prophecy: Jeane Dixon (Nhà Tiên Tri Jeane Dixon), Here and Hereafter (Ðây và Sau Ðây), A World Beyond (Thế Giới Bên Kia) và cuốn này. Cuốn Thế Giới Khi Xưa  cũng được viết ra bằng những tài liệu do những linh hồn cao siêu mà tác giả gọi là Dẫn-đạo-sư (spirit guides) đã đánh máy ra qua bàn tay của bà.

              Dẫn-đạo-sư kể lại sự tích từ khi khai thiên lập địa, nghĩa là từ khi trái đất mới thành hình, rồi bắt đầu có loài người, những sự phấn đấu của những người thái cổ (homo-sapiens) với thiên nhiên và với những giống vật khổng lồ đời tiền sử. Khi Dẫn-đạo-sư nói đến những điều khó tin như cây cối rậm rạp vùng nhiệt đới tại nơi ngày nay băng giá quanh năm, tác giả đã tham khảo và tìm thấy những tài liệu khoa học trong tập Bách-Khoa Toàn Thư (Encyclopedia Britannica) và vài cuốn khác, nói đến những vết tích cây cối và động vật bị chết cứng đột ngột dưới lớp băng đá rất dày trong những trận thiên tai đời thượng cổ. Khi Dẫn-đạo-sư nói đến lục địa trên vùng đại dương ngày nay, hoặc nói đến biển cả ở nơi đất liền hiện tại, tác giả cũng tìm được tài liệu khoa học chứng minh sự biến đổi đó.

 

              Dẫn-đạo-sư nói rằng loài người bắt đầu sinh ra trên trái đất cách đây từ 5 đến 7 triệu năm. Người Bắc Kinh (là bộ xương cổ xưa tìm thấy tại vùng Bắc Kinh) được coi là bộ xương người xưa nhất mà các nhà bác học ước đã được 500 ngàn năm. Nhưng khi cuốn sách này sắp được xuất bản (1976) tác giả được biết các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại miền đông Phi Châu, những xương bàn tay người ba triệu năm trước và xương sọ người một triệu rưỡi năm trước. Bác-sĩ Donald Johnson nói rằng sự xem xét hơn ba chục xương bàn tay và cổ tay rải rác trên một sườn đồi cho thấy rằng bàn tay có thể cử động như bàn tay người thời nay, chứ không như bàn tay của hai loài đười-ươi (gorilla và chimpanzee) là loài khỉ gần giống người hơn cả, hai loài này vẫn phải chống tay xuống đất để đi. Ðiều nhận xét này loại bỏ thuyết của khoa học cho rằng người và khỉ cùng chung một thủy tổ. Bác sĩ Duane Gish cũng tìm thấy tại một lòng sông vùng Texas có vết chân người in vào đá gần vết chân khủng long.(có lẽ xưa là đất, lâu ngày đất ấy trở thành đá). [Khủng long (dinosaur) là một loài vật khổng lồ thời tiền sử, thuộc loài thằn lằn, có khi dài đến 30 thước (100 ft) cao hơn 5 thước (18 ft), thường chân sau rất lớn, chân trước rất nhỏ, đuôi lớn và dài, cổ ngắn đầu to, hoặc cổ dài đầu nhỏ. Ðiều này chứng tỏ loài người đã có sớm hơn là người ta tưởng, vì các khoa học gia vẫn cho rằng khủng long đã tuyệt chủng nhiều ngàn năm trước khi có người. Những người thái-cổ đã phải phấn đấu kinh khủng với những vật khổng lồ trong nhiều triệu năm sống chung với chúng.

              Trong cuốn này, các dẫn-đạo-sư nói đến ba thiên tai, một trong đó là nạn trái đất đổi trục đã khiến cho vùng đại-lục Lemuria chìm xuống dưới Thái Bình Dương, đồng thời loài khủng long bị tuyệt chủng. Tác giả nghi ngờ rằng sao trái đất còn tồn tại được qua một tai nạn lớn lao nhường ấy, nhưng sau được biết các khoa-học-gia hiện đại đã nói Bắc-cực và Nam-cực đã có nhiều lần thay đổi vị trí trong thời gian ngàn triệu năm qua.

 

 

II. DÒNG-DÕI THIÊN THẦN

 

Văn minh trên trái đất chưa bao giờ lại được tiến bộ như thời vàng son trên đại lục Lemuria và Atlantis. Ða số dân chúng có trình độ trí thức cao, và nhờ sự cần cù của họ, cây cối tốt tươi bao phủ khắp mặt đất. Nhưng không phải là tất cả đều thơ mộng. Nhờ sự phồn thịnh do sức người tạo lên, có vài giống vật sinh sản nhanh hơn loài người. Ðiểu thú khổng lồ phá hoại mùa màng, thằn lằn to lớn từ biển bò lên đầy mặt đất, và những con khủng long với thân vĩ đại và đầu nhỏ bé, hung bạo đến nỗi người phải họp nhau lại trong những khu bảo vệ chặt chẽ. Tại Lemuria tình trạng rất nguy nan, khiến người ta phải đào hầm dưới đất hoặc moi rộng hang ở sườn núi để ẩn náu. Những con khủng long khổng lồ lang thang khắp nơi, đạp đổ cây cối, tàn hại hoa mầu, phá hoang vườn tược mà người ta tốn công trồng tỉa để có thức ăn và bóng mát. Chúng dày xéo lên tất cả mọi vật trong tầm của chúng, một ngón chân của chúng có thể đè nát một đứa trẻ con. Chúng thường đánh nhau kịch liệt để tranh dành miếng mồi ngon như người hoặc thú vật. Ðuôi lớn của chúng quạt khắp rừng rậm và sông ngòi để tìm miếng ăn.

Ðể tránh các thú dữ ấy, người phải sống trong những hang mà cửa vào thấp nhỏ. Ðó là một thế giới trong bóng tối. Chỉ có đàn ông mới dám đi ra để kiếm mồi khi những thú dữ không có ở gần. Họ sống bằng thịt săn và ít rau cỏ trồng quanh cửa hầm. Phụ nữ cả đời chỉ được trông thấy bóng người đi qua cửa hang. Họ nói với những bóng ấy, tưởng đó là những tâm linh của thế giới khác đến nói chuyện với họ, không biết rằng đó là bóng của những người có thân hình như thường đứng trước họ và quay lưng ra ánh sáng. Trẻ con dám phiêu lưu ra ngoài, khi không trông thấy có con vật khổng lồ nào từ xa mới chui ra khỏi cửa hang. Mắt họ bị chói lòa vì không quen với ánh sáng mặt trời. Những gia đình ấy hôn phối lẫn nhau trong những buổi lễ ngắn ngủi tổ chức bởi những thầy tu là những người còn nhớ đến đời sống tâm linh xưa kia. Trước mặt thầy tu, đôi trai gái nắm tay nhau, và tất cả cùng hát những câu chúc tụng. Nếu có người săn được một con vật, nhỏ như con thỏ hoặc lớn như con trâu, thì đó là một đại tiệc. Họ ăn, họ ngủ, họ nói chuyện, họ sinh sản. Ðó là đời sống âm thầm tăm tối của những người Lemuria ít may mắn.

Vậy mà họ là dòng dõi thiên thần! Trước khi một số gan dạ cố gắng trừ khử những con vật kinh khủng ấy, tưởng chừng ít có hy vọng cho sự tiến hoá của loài người.

Dẫn-đạo-sư kể lại một gia đình Lemuria chừng 20 người cả con và cháu, sống cách đây khoảng 60 ngàn năm. Họ ở trong hang đào sâu trong đất dưới một ngọn đồi, cửa hang rất thấp, ra vào phải bò, để giữ cho những con vật to lớn không thể vào được. Họ ngủ trên những chiếu đan bằng cỏ mọc quanh hang, sống bằng hạt dẻ và trái cây, đôi khi có thịt do đàn ông săn được. Họ sống trong bóng tối lờ mờ, chỉ có chút ánh sáng nơi gần cửa vào và những khi đốt đuốc, cây đuốc làm bằng mỡ những con vật đã chết, nhưng đuốc ấy tỏa nhiều khói quá chỉ dùng khi nào rất cần.

Một ngày kia, trong khi đàn ông ra ngoài săn bắn, một con khủng long to lớn đánh hơi biết có người trong hang, nó lách cái đầu nhỏ của nó vào cửa hang, cố sức cậy ra một lỗ lớn để vào. Tất cả đàn bà, trẻ con trong hang sợ hết hồn, nhưng cũng phải can đảm lấy gậy đập vào đầu nó trong khi miệng nó phun ra khói. Ðàn ông nghe tiếng ồn ào chạy về, lấy giáo nhọn đâm vào nó hàng trăm nhát cho đến khi nó chết. Rồi mấy chục người ở những hầm quanh đấy phải họp nhau lại lôi xác nó ra xa vừa để tránh mùi hôi thối, vừa để những con vật khác khỏi đến gần.

Ðó là cảnh sống hằng ngày của những gia đình thời bấy giờ, luôn luôn ở trong tình trạng sợ hãi. Họ ao ước được thấy cảnh đẹp bên ngoài, cũng như ngày nay một người già bệnh tật ao ước được lên cõi trời. Chỉ có những người đánh cá là không phải ở trong cảnh sợ hãi tối tăm ấy, vì vùng bờ biển cây cối thưa thớt, những con khủng long và mam-mút (là loại voi khổng lồ có nhiều lông và ngà cong lên) thường không lui tới. Nhưng vì đông dân cư quá nên chỉ có một số ít được hưởng cái tự do ấy.

Thật là một ngày quan trọng vô cùng khi một chiếc máy bay đầu tiên đáp xuống hồ Chalda trên đại lục Lemuria, đem lại hy vọng cho những kẻ khốn khổ, dòng dõi của những bậc trí thức cao mà ngày nay sa xuống gần ngang súc vật, với đời sống trong tăm tối không có tương lai. Họ hết sức vui sướng khi được biết rằng những người Atlantis muốn cộng tác với họ để triệu tập một đại hội thế giới bàn cách trừ khử những con vật khổng lồ. Máy bay có thể đáp xuống bãi biển không sợ nguy hiểm, vì những con vật khổng lồ không ở nơi bãi cát. Khi những người Atlantis đầu tiên đặt chân lên Lemuria, tin tức lan ra rất nhanh trên khắp đại lục, phá tan không khí buồn tẻ trong nhiều thế hệ. Tin tức được loan ra bằng hệ thống một loại dây leo truyền âm do một nhạc khí tựa như cái trống của bộ lạc Phi Châu, trống nọ truyền đến trống kia đi xa hàng trăm dặm. Những người mới đến chào hỏi người Lemuria như là những anh em lâu ngày mới gặp lại nhau. Người Lemuria chạy vội đến nơi đón khách quý, vui mừng khôn tả.

Khi người Atlantis nói đến những điều mới lạ trên đất họ, người Lemuria sụt sùi khóc, vì cảm thấy khác biệt một trời một vực giữa cảnh xa hoa của người và cảnh khốn khổ của mình. Một số những người niên trưởng Lemuria đi theo đám quý khách trở về Atlantis để cùng họp với những người từ các nước phương xa đến hội. Atlantis có nhiều tàu, nhiều khinh-khí cầu, nên việc triệu tập dễ dàng nhanh chóng, và những thanh niên được đưa đi học về kỹ thuật và hóa học. Phi công lái chiếc máy bay tên là Drofus. Cùng với y có hai nhà bác học để điều khiển quả cầu pha lê nhỏ trong máy bay cho phù hợp với một tia sáng của quả cầu lớn trung ương. Ðây là một phương pháp tinh vi mà ngày nay không ai hiểu được. Muốn bay từ Lemuria hoặc một nơi khác xa Atlantis, thì phải sửa soạn rất công phu, để điều hợp quả cầu nhỏ trong phi cơ với một tia sáng của quả cầu lớn, khiến cho phi cơ tự động theo hướng mà bay trở về. Nguyên tắc những quả cầu pha lê có nhiều mặt phẳng đã bị chôn vùi với đại lục Atlantis, ngày nay không ai biết cách tạo lên và xử dụng những quả cầu ấy. Người Atlantis bấy giờ là những người tốt bụng. Họ thấy đời sống khốn khổ mà những con vật khổng lồ đã gây cho người Lemuria, họ thúc giục những người này di cư sang nước họ, và họ dạy cho cách đóng những chiếc tàu lớn để có thể đi xa. Nhưng họ không cho ai biết bí mật Quả cầu Pha lê, nó giúp họ điều động các máy bay và tàu ngầm của họ. Vì họ có phương tiện vận chuyển nhanh chóng tiện lợi, nên những lần triệu tập hội đồng cũng được nhanh chóng.

Có những máy bay loại nhẹ chở vài ba người, buộc vào một quả cầu, chỉ cần một khu nhỏ để đáp xuống và bốc lên, lại có bộ phận điều khiển luồng gió, đại khái như máy trực thăng ngày nay, để di chuyển gần. Những máy lớn và mạnh hơn điều khiển bằng tia sáng loại laser do Quả cầu Pha-lê phát ra, cần phi đạo dài hơn, như máy phản lực hiện thời. Những sân bay được xây tại nhiều nơi để chở người đi dự hội và để tiếp tế hàng hóa, vì khi ấy Atlantis giữ địa vị lãnh đạo trong việc sáng chế và sản xuất các loại hàng. Lemuria trong những ngày cuối được coi như một bà mẹ khôn ngoan và dịu hiền, cố gắng dạy bảo những nước nhỏ, nhưng bọn này ưa thích đời sống tối tân của Atlantis hơn là triết lý của Lemuria.

Trong những hội họp quốc tế, có người đưa ra ý kiến dò tìm đến tổ những con vật khổng lồ để diệt con nó ngay khi còn nhỏ. Người Atlantis chế ra một hơi độc để "thổi" vào tổ chúng khi thuận chiều gió, cách ấy tỏ ra có hiệu quả với những con nhỏ, nhưng không đủ sức sát hại những con lớn. Cuộc chiến đấu với khủng long và các vật khổng lồ khác đã kéo dài nhiều thế kỷ và đã có nhiều cuộc hội họp quốc tế để bàn cách giải phóng đất đai nhanh chóng hơn. Người ta đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp trong việc diệt trừ những vật khổng lồ khiến chúng đã giảm bớt, trước khi một thiên tai xảy đến: đáy biển trồi lên, lục địa chìm xuống, chôn vùi đại lục và chôn luôn cả những vật khổng lồ.

Ðược hỏi tại sao Thượng-Ðế đã sinh ra những vật khổng lồ ấy rồi lại khiến cho chúng bị diệt chủng, như thế có phải là Thượng-Ðế đã lầm không? Dẫn-đạo-sư nói: Thượng-Ðế không lầm. Tạo-Hoá là một phòng thí nghiệm trường kỳ. Thoạt đầu con người cao hơn ba thước hoặc thấp hơn một thước, rồi sau trở lại trung bình hơn một thước rưỡi, và trong mấy ngàn năm gần đây lại cao hơn trước. Nhưng nếu nhân loại cứ tiếp tục nhiễm độc trái đất, làm nguy hại cho các giống khác, thì sẽ phải chịu số phận như loài khủng long. Mình được sống thì phải để cho kẻ khác cùng sống với mình, đó là luật chung của vũ-trụ; nếu chỉ phá hoại, tàn hại giống khác, sẽ không tồn tại lâu trên trái đất.

Khi những vật khổng lồ bị giảm sút dần đi, thì đời sống con người đỡ khổ, họ đã có thể hưởng ánh sáng mặt trời và gió mát. Dân số tăng rất nhanh chóng, những phụ nữ có hàng chục đứa con. Việc sinh sản không khó khăn và không cần săn sóc như ngày nay, vì đó là sự tự nhiên, cũng như loài vật sinh con đẻ trứng chẳng cần ai săn-sóc và dạy cách nuôi con.

Trẻ con lớn lên được dạy bảo nhờ những người còn nhớ đời sống tâm linh và cảm thông với các linh hồn như ta nói chuyện với hàng xóm. Chúng được dạy cho biết lý do tại sau chúng thác sinh ra đời vật chất, và chúng phải làm việc thiện để hoàn tất sứ mệnh theo luật Trời. Những bậc cha mẹ cũng hiểu rằng con họ cũng là những linh hồn ngang tuổi với họ, đã chọn họ làm cha mẹ để học hỏi và tiến hóa trong thân xác thịt. Những trẻ con Lemuria có lẽ là những kẻ hoàn toàn nhất trong nhân loại, chúng gần như không biết đến tội lỗi đối với cha mẹ, thầy dạy và bạn bè.

 

III. BIỂN SARGASSO BÍ MẬT

 

Sau khi Lemuria chìm, Atlantis trở thành lãnh đạo thế giới, nhưng không được lòng người vì tính kiêu căng, chỉ muốn dùng võ lực để bắt các nước khác thần phục. Tuy chưa biết dùng đến chất nổ. nhưng với quả cầu Pha-lê họ có thể phóng năng lực của tia sáng mặt trời làm nổ những thành phố rất xa. Cướp bóc là sự rất thường. Những người Atlantis trong thời kỳ thứ hai này vơ vét đem về nước tất cả cái gì họ thích, từ các nơi xa Mỹ Châu, Âu Châu và Phi Châu. Chính thể tại Atlantis trong thời vàng son là quân chủ, những quốc vương trị vì trú trọng đến đạo đức và tôn giáo. Nhưng sau khi Lemuria bị chìm, ngôi vua chỉ tượng trưng cho nghi lễ, còn thực quyền ở trong tay những nhà bác học. Atlantis là một thành trì học vấn vững mạnh trước khi xảy ra thiên tai. Những học giả từ khắp nơi đến các trường đại học tại đó để dự lớp học về địa chất, thiên văn khoa học, toán học, canh nông. Nhiều người có thể tính nhẩm tới 11 số và có những bảng tính tiện dùng hơn máy tính ngày nay. Những tài liệu được chất chứa trong những thùng làm bằng ruột súc vật chế biến có thể tồn tại trong nhiều ngàn năm nếu được bảo trì kỹ lưỡng. Nhiều thùng ấy nay còn nguyên vẹn trong thùng tài liệu chôn dấu không xa Kim-tự-tháp lớn tại Giza, về hướng thần tượng Sphinx. Có những thùng khác được cất tại Yucatan. Hình trái đất được chụp theo một phương pháp không giống ngày nay. Radio bấy giờ đã có, tiếng nói được truyền bằng sự phản ứng của đá thạch anh (quartz) trên chất kim khí và điều khiển bởi những mặt phẳng của Quả cầu Pha-lê.

Trong 20.000 ngàn năm sau trận thiên tai, Atlantis dần dần suy đồi, bên trong mục nát, chỉ nhờ có Quả cầu Pha-lê mà còn giữ được uy thế đối với các nước. Nhưng không phải là tất cả các nước đều chịu thần phục. Những dân ở nơi mà sau này là Ba Tư hợp với Hi-Lạp chống lại Atlantis. Người Atlantis dùng Lybia làm căn cứ để tấn công Hi-Lạp nhưng bị đánh lui, và khi họ tập trung lại lực lượng để tấn công lần nữa thì một thiên tai kinh khủng xảy đến làm thay đổi lịch sử. Những nhà bác học tăng cường năng lực của Quả cầu Pha-lê, và để khuất phục những dân Á Châu ở cách xa nửa vòng địa cầu, nơi mà ngày nay là Trung Hoa, Họ dọi tia sáng xuyên qua trái đất, khiến cho vỏ trái đất nổ tung nhận chìm hầu hết đại lục Atlantis và luôn cả Quả cầu Pha-lê.

Vùng ấy ngày nay gọi là biển Sargasso. Vùng biển bí mật này, trong nhiều thế kỷ đã được mệnh danh là "Nghĩa địa của Ðại-tây Dương"! Xưa những tàu buồm qua đó đều biến mất dạng, rồi sau những tàu có động cơ cũng vậy. Quá trưa ngày 5-12-1945, một đoàn 5 chiếc phi cơ Hãi quân Grumman TBM-3 Avenger cất cánh từ căn cứ Fort Lauderdale, Florida, để tập dợt, do 5 phi công lái với 9 phi hành đoàn. Ðoàn phi cơ gọi là Phi vụ 19, do trung úy Hãi quân Charles C. Taylor, một phi công với trên 2500 giờ bay, điều khiển. Chừng 70 phút sau, sau khi bay qua phía bắc đảo Bimini, một phi công bay trên phi trường Hãi quân Fort Lauderdale, nhận được tính hiệu lạ lùng của phi cơ điều khiển. Phi công nầy bị lạc, cả hai địa bàn đều hư, Rồi những tính hiệu bị loạn, căn cứ không thể liên lạc được với người nào trong số 14 người trên 5 phi cơ. Ngay sau đó, một phi cơ hai máy Martin Mariner với phi hành đoàn 13 người cất cánh từ căn cứ Hãi quân Banana River để tìm 5 phi cơ lạc và dẫn họ về căn cứ. Nhưng rồi sau không nhận được tính hiệu nào của cả 6 phi cơ, và mặt dù một cuộc tìm kiếm vĩ đại chưa từng có gồm hơn 300 phi cơ, 4 khu trục hạm, 18 tàu tuần, mấy chiếc tàu ngầm, hàng trăm phi cơ và tàu của tư nhân, và cả phi cơ và tàu của Anh đóng tại quần đảo Bahama, không tìm thấy một vết tích nào cả, không một vết dầu, không một phao hoặc một mảnh vụn.(Những bí mật của vùng này đã được nói đến trong cuốn, "khu tam giác Bermuda" (The Bermuda Triangle). Tác giả Adi-Kent Thomas Jeffrey đã kể rõ tên 12 chiếc tàu, một tàu ngầm nguyên tử và hơn một chục phi cơ được ghi nhận đã mất tích tại đây từ 1609 đến 1968,không để lại một dấu vết gì: mảnh gổ, mảnh áo, hay vết dầu trên mặt biển, mặc dù rất nhiều tàu và phi cơ qua lại tìm kiếm).

Charles Berlitz trong cuốn "Khu tam giác Bermuda" (The bermuda triangle) nói ranh giới biển Sargasso chạy dài từ 200 dặm phía bắc đảo Antilles lớn, dọc theo và cách bờ biển Hoa Kỳ 200 dặm tới mỏm Hatteras tại North Carolina, rồi thẳng ra Ðại-tây-Dương đến Phi Châu và Bồ Ðào Nha, ngược lên hướng bắc rồi trở về Mỹ, ranh giới nầy hợp với ranh giới mà dẫn-đạo-sư đã nói về Atlantis. Khu tam giác Bermuda nằm trên phần phía tây của biển Sargasso gần khu xưa kia đặt Quả cầu Pha-lê. Berlitz nói rằng trong một phần tư thế kỷ vừa qua, hơn một ngàn nhân mạng đã mất tích tại đó, không để lại một vết tích gì của những phi cơ và tàu thủy.

Dẫn-đạo-sư giải thích rằng Quả cầu Pha-lê vẫn còn nằm dưới biển Sargasso, và khi mặt trời và mặt trăng đến một vị trí nào đó, ảnh hưởng đến Quả cầu, khiến cho những tia phát ra làm nguy hại cho tàu biển và phi cơ đi qua tầm những tia ấy. Vụ nổ đã xé đại lục Atlantis mạnh hơn một triệu lần sức nổ của trái bom ném xuống Hiroshima, không những đã nhận chìm hầu hết Atlantis còn gây nên bảo tố và sóng thủy triều trên khắp nửa thế giới ở tây phương trong nhiều tháng. Vụ nổ ấy đã được nhận thấy từ các hành tinh khác trên bầu trời. May mắn là những tia của quả cầu pha lê không thể xuyên qua lòng lỏng của trái đất để sang tận Trung Hoa,nên vùng nầy không hề gì. Nạn hồng thủy lớn lao đã được kể lại trong những huyền thoại của nhiều sắc tộc, như dân Do Thái trong Thánh kinh.

Phần còn lại Atlantis chỉ là hai hòn đảo Poseidia và Og. Những sự di chuyển đi xa bằng phi cơ và tàu không được nữa vì những quả cầu nhỏ đều quá yếu. Vùng biển đã chôn vùi đại lục, nay như là một vũng bùn lầy đầy những tàn tích. Ðất đai mới nổi lên thì khô cằn vì chất phóng xạ, tựa như sau một vụ nổ bom nguyên tử khổng lồ. Dân Atlantis còn lại phải di chuyển đến những nơi khác và trà trộn với dân Mỹ Châu, Á Châu, Âu Châu và vùng Ðịa Trung Hải. Hai hòn đảo còn lại vẫn bị rung động ngầm, những hỏa diệm sơn thi nhau bùng nổ, rồi sau hai đảo ấy cũng chìm nốt xuống biển.

Thiên tai này xảy ra khoảng 12.000 ngàn năm trước, chỉ còn lại vài hòn đảo nhỏ như Azores và Bahamas.

 

IV. THẾ GIỚI THỜI TIỀN SỬ

 

Trong thời Lemuria toàn thịnh, một số dân đã đến lập nghiệp tại vùng đồng bằng Á Châu, nơi mà ngày nay là Gobi. Họ liên lạc với mẫu quốc bằng ý nghĩ và cũng bằng tàu thuyền. Họ sống lẫn lộn với dân bản xứ da vàng, một trong năm giống đã được sinh ra từ nguyên thủy.

Triết lý là môn học được ưa chuộng nhất. Những ngôi đền đều hướng về đông, là hướng về đại lục Lemuria. Sau khi trái đất đổi trục nhận chìm Lemura và nhiều núi nổi lên khắp nơi, các thầy tu xây cất những tu viện trên núi cao, để dể hòa đồng với vũ-trụ lực. Ðể giữ truyền thống của Lemuria, họ bảo toàn văn hóa triết lý và tôn thờ Thượng Ðế. Những tu viện ấy ngày nay nằm ở Tây Tạng, và dãy núi Hy-Mã-Lạp-Sơn xưa là một phần của đồng bằng Gobi. Gobi khi ắy khí hậu ẩm ướt, đất đai phì nhiêu, ngày nay là sa mạc.

Vì Quả cầu Pha-lê của Atlantis không thể chuyển động máy bay và tàu qua một bên kia trái đất, nên không có mấy người Atlantis đến Gobi và Trung Hoa ngày nay. Vùng Ấn Ðộ được nổi lên sau Gobi và trước khi Lemuria chìm. Từ trước, người Lemuria đến rất nhiều, coi đó như là thuộc địa, và sống chung với người da vàng cũng di dân đến. Nhiều thầy tu đến đó để truyền bá văn hóa Lemuria. Dân chúng Ấn Ðộ ngày nay là dòng dõi nhiều lớp văn minh: Thầy tu và dân Lemuria, di dân da vàng, da đen, da trắng, và những người tuy hình thể không giống những cùng đinh (untouchable) Ấn Ðộ ngày nay, nhưng sống ở nước thấp nhất, nhân đó cản trở công việc dân-chủ-hóa xã hội này. Vì ở đây có rất ít người Alantis, nên văn hóa không bị nhiểm độc bởi tham vọng quyền thế của họ. Nhưng khi Lemuria chìm thì người Atlantis bắt đầu đến đông.

Trong tập Bách Khoa Toàn Thư (Encyclopedia Britannica) tác giả thấy có đoạn nói về Ấn Ðộ. Khi những người Aryan xâm chiếm Ấn Ðộ, họ thấy dân ở đấy văn minh hơn họ về nhiều phương diện, rõ ràng đó là những di dân từ miền đông tới (Lemuria ở về miền đông). Churchward trong cuốn "những con cháu Lemuria" (The children of Mu). Nói đến những người Naacals, 70.000 năm trước, đã đem đến đây những sách "Cảm hứng thiêng liêng về Mẫu quốc", những sách ấy được cất giữ trong một tu viện Tây-Tạng. Trong sách của người Naacal, nói đến những người Maga lập nghiệp ở Ấn Ðộ 70.000 năm trước, màu da sậm và mắt đen sắc, câu này có vẻ tả người Lemuria da màu. Lại có câu: Cũng như Ai Cập, Ấn Ðộ không bao giờ có một thời man rợ trước thời văn minh. Ấn-Ðộ là hạt ngọc trai trên trán của Mẫu quốc Lemuria.

Những người da trắng, thoạt tiên ở trong vùng Carpathe-Caucase, dần dần tràn lan về phía tây quanh Ðịa trung Hãi rồi cùng tập trung tại dãy núi Pyrénée miền nam nước Pháp. Họ cũng tràn về phía đông nam đến Ba Tư và Ai Cập. Tại Ba Tư họ lập thành dòng giống Aryan mà Ðức Quốc Xã đã tự hào là dòng dõi. Người da trắng cũng cầm quyền tại Ai Cập, quốc vương là Araaraat. Một vị cao tăng là Ra Ta theo Araaraat đến, cùng với hàng trăm người khác, lo giúp đỡ những người bản xứ, trong ấy có nhiều bàn-nhân được Ra Ta giúp loại bỏ những bộ phận dị hình. Ra Ta hợp tác vơi những người Atlantis tại Poseidia, dùng phương pháp giải phẩu và năng lực những quả cầu Pha-lê nhỏ còn sót lại, để loại bỏ những đuôi, móng, sừng, lông cánh, cho các bàn-nhân.

Những người Atlantis đến Ai Cập càng ngày càng đông để tránh tai nạn, vì hai hòn đảo còn lại thường bị rung chuyển, và những nhà tiên tri đoán sẽ có nạn hồng thủy nữa.Hermes, là sứ giả của Atlantis có nhiệm vụ bảo vệ những tài liệu quý giá, đã đem những tài liệu ấy đến Ai Cập và hợp tác với Ra Ta xây dựng kim-tự-tháp để cất giữ những bí mật của thời oanh liệt xưa.

Kim-tự-Tháp lớn nhất được xây dựng tại Giza trong thời gian trước và sau khi Atlantis bị chìm lần cuối, vào khoảng 10.000 năm trước kỷ nguyên, trong đó có chứa tất cả những toán số để tính vị trí các ngôi sao, kinh tuyến, vĩ tuyến và đường kính trái đất, chiều dày lớp vỏ trái đất. v.v...Kim-tự-tháp cũng có mục đích làm cái kho để chứa những bảo vật của Atlantis, nhưng vì thiên tai xảy đến nhanh chóng quá, nên những bảo vật đều bị chôn vùi dưới biển. Nhiều người nghĩ rằng những người thượng cổ có quay hàm lớn và khối óc nhỏ. Nhưng những bộ xương cổ xưa đã được khám phá hơn 100 năm trước tại Pháp cho thấy người xưa cao hơn và xương sọ lớn hơn người ngày nay. Những người ấy đã sống quanh Ðịa Trung Hải 15 đến 30 ngàn năm trước, trán cao, gồ má cao, quay hàm nở, thân cao hai thước, không có vẻ gì giống loài khỉ. Nếu thực những người ấy là tổ tiên loài người, thì quả là người thời nay đã suy đồi hơn xưa.

Âu Châu xưa kia chỉ gồm có mấy hòn đảo Anh quốc và Na-uy, Thụy Ðiển ngày nay, còn phần lớn lục địa mới được nổi lên sau khi trái đất đổi trục. Những người Lemuria và Atlantis còn lại dần dần pha trộn giống với người da trắng tại Âu Châu, người da vàng tại Mông Cổ, người da đen tại Phi Châu, Úc Châu và các quần đảo tại vùng Nam Dương là những đất đai Lemuria còn sót lại. Dân chúng ở đó lâu ngày mất liên lạc với giới lãnh đạo và thầy tu nên trở thành man rợ. Miền Nam cực trong nhiều triệu năm thuộc vùng ôn đới và nối liền với Úc Châu, trước khi bị thiên tai tách ra bằng những vùng biển rộng lớn. Người Atlantis đã họa địa đồ miền này nhưng thấy không thể ở được vì đầy dẫy những khủng long và vật khổng lồ. Khi trái đất đổi trục, những vật ấy bị tiêu diệt vì không chịu nổi cái lạnh băng giá đột ngột.

Khi Lemuria hãy còn, Alaska ở trong vùng nhiệt đới như Florida ngày nay, nhưng ít có người dám ở đó vì những khủng long và man-mút rất nhiều. Nhưng khi trái đất đổi trục, những con vật khổng lồ ấy bị chết vì băng giá, một vùng đất nổi lên bắt cầu từ đấy sang miền đông bắc Á Châu, vùng này cũng bị đông lạnh. Rất lâu về sau, mới có những bộ lạc du mục Á Châu đi phiêu lưu qua đấy, dần dần tiến xuống những vùng ấm áp hơn. Những người Á Châu ấy càng ngày càng đến đông, rồi trộn lẫn với những người da đỏ và da nâu thành những giống phụ. Những người Mễ-tây-Cơ ngày nay có vài nét mặt Á Ðông là vì cuộc di dân này từ Siberia đến vùng nắng ấm Trung Mỹ.

Nhiều người Alantis lánh nạn sang Mỹ Châu, ở đây những người Lemuria đã đến từ nhiều ngàn năm trước. Ðất đai phì nhiêu, hoa màu được phân phát đều cho mọi người, không hề có sự tranh dành. Những người Lemuria bắt đầu chiếm vùng bờ biển phía tây hiện thời và xứ Yucatan (Mễ-tây-Cơ), nhưng về sau họ di chuyển đến những đất mới nổi lên tại vùng trung ương Hoa Kỳ ngày nay. Họ đã mang theo những tài liệu và xây một phòng rất kín gần thành phố Uxmad tại Yucatan để cất những tài liệu về văn minh Atlantis và về việc xây dựng một Quả cầu Pha-lê. Nhưng không một người nào còn sống sót khi đó biết cách tái tạo Quả cầu Pha-lê đã mất.

Sau khi phần còn lại của Atlantis bị chìm nốt, phòng kín ấy nằm sâu dưới nước, lâu ngày không ai còn biết đích là chỗ nào, rồi đến khi đất  nổi lên, không còn thể nhận biết được phòng ấy đã được chôn tại đâu.


V. NHỮNG THIÊN THẦN TRONG THÁNH KINH

 

Những nhà bác học nói rằng 70.000 năm trước, Bắc-cực nằm ở vùng Nam-cực, và có thể một ngày kia quay trở lại. Những tảng đá có từ lực trái ngược với từ lực của trái đất và đã được khám phá tại Ấn Ðộ, Pháp và Nhật Bản trong khoảng từ 1855 đến 1929. Trong đầu thập niên 1960, Ban Khảo Sát Ðịa Chất Hoa Kỳ đã báo cáo rằng theo sự nghiên cứu những tảng đá lớn thu thập từ khắp nơi trên hoàn cầu, thì đã có chín lần trái đất đổi trục trong thời gian ba triệu rưởi năm qua.

Trong thời vàng son của Lemuria và Atlantis, hai đại lục ấy phần lớn nằm tại vị trí Thái bình Dương và Ðại tây Dương, tuy nhiên không phải cùng vị trí đối với trục trái đất ngày nay. Phần lớn lục địa Mỹ Châu và Âu Châu còn nằm dưới mặt biển, núi non hầu như không có, cho đến khi Lemuria chìm xuống bấy giờ núi mới nổi lên. Tại Alaska có những vết tích động vật và cây cối chồng chất lên nhau như trong những thiên tai. Những thân hình man-mút còn cả thịt da và lông nguyên vẹn đã được đào thấy tại vùng băng giá bắc Sibérie, tỏ rằng những con vật ấy đã bị đột nhiên đông lạnh. Trong Bắc băng Dương quanh Bắc cực, có rất nhiều tàn tích man-mút, tê-giác, ngà voi, những giống này cần rất nhiều cây cỏ để sống, không thể nào ở những nơi quanh năm đá phủ. Rõ ràng Alaska và miền bắc Sibérie xưa kia là xứ nóng. Trái lại có nhiều bằng chứng cho thấy rằng vùng nhiệt đới Brézil và Phi Châu xưa kia bị bao phủ dưới một lớp dày băng đá. Ðiều đó có thể giải thích tại sau, khoảng 50.000 năm trước, người Atlantis với những phi cơ của họ đã có thể chụp hình Greenland và Nam-cực khi những nơi ấy không bị băng đá bao phủ

 (Bản địa đồ Reis)

Trong số những thiên tai nhiều vô kể đã thay đổi cục diện trái đất, có ba lần đáng để ý hơn cả là:

-      Lemuria bị chìm 48.000 năm trước kỷ nguyên

-      Phần lớn Atlantis bị chìm 28.000 năm trước kỷ nguyên, và phần còn lại của Atlantis bị chìm nốt 10.000 năm trước kỷ nguyên.Theo dẫn-đạo-sư và Edgar Cayee, nạn hồng thủy trong Thánh Kinh trùng hợp với thiên tai thứ hai cách đây khoảng 30.000 năm.

Những thời kỳ nói trên chỉ là phỏng chừng, vì thời gian trên trái đất không nghĩa lý gì đối với thế giới tâm linh. 

 

Trong Thánh Kinh chỉ nói đến gia đình Noah, cháu Adam đời thứ 10, được thoát khỏi nạn hồng thủy, nhưng thực ra còn rất nhiều người khác nữa, mặt dù đã có hàng vạn người chết ở Trung Ðông và hàng triệu người chết tại Atlantis. Noah là tổ dòng giống Semite, các cháu chắt là Abraham, Jacob, Joseph, David rồi đến Jesus Christ.

ABRAHAM, có hai con trai: ISAAC là con vợ cả, là dòng giống thuần túy Lemuria; còn ISHMACI là con vợ bé, sau này là tổ dân tộc Ả-Rập. Con cháu thứ hai của Isaac là JACOB, tổ dân tộc Do-Thái (Jew). Dân Do-Thái vẫn giữ được truyền thống của người Lemuria và tôn thờ Thượng Ðế (GOD). Nhờ tín ngưỡng ấy, chứ không phải là nhờ sự giúp đỡ của người khác, họ được các thiên thần trợ lực tìm một xứ sở, và sau một thời gian dài lang thang rồi sống nhờ Ai-Cập, họ đã được trở về đất hứa.

Theo dẫn-đạo-sư, MOSES là một người Lemuria đầu thai vào dòng giống Hebrew để cứu dân tộc này ra khỏi cảnh nô lệ tại Ai-Cập.

 

VI.TÂM LINH (Spririt) & LINH HỒN (Soul)

 

Dẫn-đạo-Sư giải thích như sau. Linh hồn là cá thể riêng biệt, là Ta. Tâm linh là cái sức mạnh của đời sống rút từ nhiều nguồn tiến hóa.

 Khi một hài nhi nhập vào thân xác thịt, linh hồn nó qua nhiều kiếp luân hồi, đã tạo nên một cái-thể và mẫu mực ăn ở hành động trong đời sống tới. Bấy giờ tâm linh được rút vào hòa nhịp với linh hồn ấy để cho con đường đi tới được tốt đẹp hơn. Tâm linh là tinh hoa của Thượng Ðế, nhưng vì đã tách rời với đại khối từ khi bắt đầu làm người, nên có nhiều đẳng cấp khác nhau. Cả linh hồn và tâm linh đều cùng hướng về hợp với Ðức Sáng Tạo. (Tâm linh –Esprit- ở đây có lẽ là Tâm thức, là A-Lại- Da-Thức, là Phật tính trong kinh Phật). Không có tâm linh, chúng ta sẽ quay trở về đời xác thịt như thú vật.

Nói đến các thiên thần, dẫn-đạo-sư nói có ba hạng:

-      Thượng thiên thần là những vị không bao giờ sinh vào thân vật chất, vì không bao giờ trái luật thiên nhiên, hoàn toàn hòa đồng với Thượng Ðế. Những vị ấy cai quản những khu vực rộng lớn trong vũ-trụ.

-       Thứ đến là những thiên thần, mà một số đã sống trong đời vật chất. Sau nhiều đời sống không tội lỗi, những vị này không cần trở lại và được ở gần Thượng Ðế. Nhưng cũng có nhiều thiên thần không bao giờ sinh vào thân xác thịt. Các thiên thần có nhiệm vụ trong việc tiến hóa của nhân loại và của các động vật, thực vật và khoáng vật.

- Sau cùng là những thần hộ mệnh, những tâm linh trước đã sống trong đời xác thịt, nay hết lòng giúp đỡ người sống tránh khỏi tai ương và chết bất thần. Ðây là những linh hồn quảng đại, tuy vậy chưa được tiến cao bằng những thiên thần và thượng thiên thần. Một số thần hộ mệnh giúp cho những sáng kiến, như Einstein là một trạm tiếp nhận những luật vũ-trụ nên có thể trong những giấc mơ, xảy ra những ý nghĩ phi thường.

 

Chúng ta cũng có thể trở thành những thiên thần nếu chúng ta biết nghe tiếng nói yên lặng của Thượng Ðế bên trong chúng ta, và quay vào đó (lương tâm) trước khi quyết định hay hành sự một việc gìTất cả chúng ta cần phải nghe hoặc cảm thấy tiếng đó, nhưng thường thường ta vẫn quên trong khi đi trên con đường tươi đẹp của ta. Khi ở bên kia ngưỡng cửa (cõi vô hình) tự nhiên ta hiểu rõ thế nào là phải là trái, vì ta sẵn có tinh hoa của Thượng Ðế bên trong chúng ta và không bị những cám dỗ vật chất nó cạm bẫy ta. Ta hiểu rõ rằng những hành động vô ý thức trong đời xác thịt đã làm cho ta xa Ðấng Sáng Tạo. Như thế, thay vì được hưởng khung cảnh tình yêu thương thuần túy không ích kỷ mà chúng ta có thể đạt tới, ta còn phải ở đây học đi học lại những bài học trước trong những thời gian chờ đợi giữa hai đời sống trên mặt đất. Cho nên ta cần phải học sau cho có thể, phân biệt tức khắc không lưỡng lự cái hay với cái dỡ, điều phải với điều trái, như ta thuộc lòng bản cửu chương - Hãy làm việc thiện bỏ việc ác.

 

Trở lại tình trạng nhân loại trên trái đất từ sau khi Atlantis hoàn toàn chìm hết khoảng 10.000 năm trước kỷ nguyên, Dẫn-đạo-sư nói rằng người ta dần dần tụt xuống trình độ gần như dã man vì không còn những người lãnh đạo của hai đại lục trước nữa. Những phương tiện vận chuyển như thời sơ khai. Tàu thuyền không thể đi lại được trên Ðại Tây Dương vì bùn lầy và những tàn tích nổi lềnh-bềnh. những trận thủy tai và động đất đã phá hủy các kho tàng tài liệu, và những dân tộc rời rạc quên cả lối viết đọc xưa, vì không còn tu sĩ giảng dạy, không còn người lảnh đạo tâm linh. Trừ một vài nơi như Ấn Ðộ, Ai Cập, Peru, ngoài ra dân chúng không hiểu biết gì về văn hóa. Ðó là thời kỳ đen tối. Trong thời kỳ ấy, những thú vật được người chăn nuôi để làm việc nặng nhọc, vì những bàn-nhân hầu như mất hết. Khi mọi người bắt buộc phải làm lấy các việc chân tay, họ không có thì giờ rèn luyện trí thức, nên không tiến hóa.

Sau nhiều ngàn năm thời tiền sử đen tối ấy, việc học mới lại được phục hồi tại vùng Tiểu Á. Thành Athens và một vài nơi khác quanh Ðịa Trung Hãi trở thành những trung tâm văn học. Người Ai Cập không bao giờ dập tàn ngọn đuốc, nhưng họ giử lấy riêng cho họ. Từ khi Alexander the Great truyền bá ngọn đuốc văn minh cùng với đạo quân chinh phục, Athens bừng sáng, Rome (La mã) trỗi lên và rồi sụp xuống. Lịch sử bắt đầu từ đó.

                                      

VII. NHỮNG VÒNG TÁI SANH

 

Những người đã quen biết nhau trong những đời trước, có khuynh hướng trở lại vòng tái sanh cùng với nhau. Các quốc gia cũng vậy, cũng cùng với nhau khi thăng khi trầm.

Vì những nền văn hóa của Lemuria và Atlantis đã tiến đến cực thịnh trong nhiều triệu năm, và vì thiện và ác luôn luôn đi sát cạnh nhau, không thể nói rằng tất cả người Lemuria cao thượng và tất cả người Atlantis tội lổi. Nhưng trong giai đoạn sau của Atlantis, có rất nhiều người quá hăng sai về kỹ thuật, đã phá hủy lục địa của họ. Edgar Cayee đã cảnh cáo rằng những linh hồn phá hoại ấy đã đầu thai trở lại rất nhiều trong nữa thế kỷ 20 này, thu hút bởi thời kỳ đặc biệt khoa học tân tiến ngày nay.

Thời kỳ phục hưng (Renaissance) tại Âu Châu trong thế kỷ 14 và 15, và thời kỳ Mỹ dành độc lập thế kỷ 18 là những thời dựng lên sự nghiệp của những người Lemuria tái sanh. Thomas Jefferson, Benjamin Franklin, George Washington, xưa ở Lemuria rồi sau ở Atlantis. Winston Churchill là một người Atlantis thuần túy, rất tinh xảo về chiến trận.Franklin D. Roosevelt đã sinh cùng thời với Wondrew Wilson tại Atlantis, có tài về trị quốc. Anwar Sadat xưa cũng giữ một địa vị cao tại Ai Cập sau thời Ra Ta, từng thương lượng giảng hòa với các lân bang hiếu chiến. Gerald Ford xưa cũng là một nhà chính trị hòa bình tại Ai Cập và Atlantis. Bao giờ cũng có những người từ các nền văn hóa khác nhau cùng sinh ra một thời. Vì có một số nhiều người xưa đã sống trong thời kỳ sau của Atlantis ngày nay tái sinh trên mặt đất, chắc chắn rằng sẽ có những hành động hiếu chiến, bất hòa và vô nhân đạo.

 

Nói đến Ðông phương, Dẫn-đạo-sư cho biết rằng những người đầu tiên lập nghiệp tại Gobi là những người hiểu biết đạo Trời, và có đầy lòng từ bi bác ái với tất cả nhân loại. Vì thế họ truyền lại nhiều phúc đức trên khắp vùng này bao gồm phần lớn Trung Hoa ngày nay, Tây Tạng và Mông Cổ, và sự thấm nhuần của tâm linh vào đời sống hàng ngày đã sản xuất ra những tư tưởng cao siêu chưa từng có: Khổng học và Phật học Nhóm cầm quyền tại đó ngày nay phần lớn gồm những người Atlantis tái sinh, đã sống trên đất Gobi sau khi Lemuria chìm xuống biển, và đặt ách độc tài trên dân da vàng. Mao Trạch Ðông xưa là một người Atlantis nắm quyền tại Gobi trên 10 năm đến khi bị nguời Aryan xăm lăng truất quyền. Chu Ân Lai là một người Mông Cổ theo Mao, đã bán nước cho người Atlantis. Những người cầm quyền tại Nga trong mấy chục năm gần đây cũng là người Atlantis, tuy nhiên Staline xưa là người Mông Cổ, khát máu và quyết định vươn lên bằng bất cứ cách nào, đã từng cộng tác với người Atlantis xâm lăng Gobi.

Sau khi tác giả nhận được những lời trên này ít lâu, Chu Ân Lai chết vì bệnh ung thư. Tác giả hỏi về Hoa Quốc Phong mà bên Tây phương ít người biết đến. Dẫn-đạo-sư nói: Hoa Quốc Phong là một người Atlantis trong thời kỳ sau chỉ còn lại hai đảo, là một thủy thủ đi thám hiểm đến Gobi và ở luôn đó. Hoa không phải là người Atlantis có học thức, vì hầu hết đời y sống trên mặt biển, nhưng khôn ngoan. Khi nghe nói một số đông người Atlantis rời bỏ quê hương vì đất rung động, Hoa quyết định lập một tổ-chức thực dân với y làm chủ, và tuyển mộ những người mới đến Gobi. Hoa thành lập vương quốc riêng và cai trị tất cả vùng đất thuộc Trung Hoa ngày nay đã được nổi lên thành đồi núi. Nhiều người Atlantis đã đến đó lập nghiệp, nhưng vì y đối đãi gắt gao với họ, nên họ vượt qua núi đi sang Ấn Ðộ và các vùng lân cận. Hoa sẽ không cầm quyền tại Trung Hoa được lâu, và sau khi Mao chết, y sẽ phải nhường quyền cho Ðặng.

Ðặng Tiểu Bình cũng là một người Atlantis có nhiều tài, xưa kia hay đi tới Gobi, cuộc hành trình rất gian nan vì Quả cầu Pha-lê không có hiệu lực qua phần bên kia trái đất. Đặng có tư tưởng hòa bình, và như thế là điều tốt cho Trung Hoa và thế giới tây phương ngày nay. Đặng sẽ hợp tác với tây phương nhiều hơn Mao, và sẽ đưa Trung Hoa trở lại với các quốc gia thân thiện. Trung Hoa sẽ trở thành một lãnh tụ thế giới sau khi trái đất đổi trục, khi đất đai rộng lớn của nó sẽ bị thay đổi nghiêm trọng và sẽ giải phóng dân chúng khỏi bàn tay sắt của chính phủ. Những người Atlantis lan tràn đến bắc Phi Châu, pha trộn với người da trắng từ vùng Caucase, phát sinh ra nền văn hóa Ai Cập ở mức độ cao. Còn những người da đen không pha trộn với các giống khác, tiến hóa rất chậm, nhưng thời của họ đã đến. Họ được sinh ra ở Phi Châu có nhiều ánh nắng, nên có màu da che chở cho họ thích hợp với khí hậu. Tại đây có ít những con vật khổng lồ và không có khủng long. Và những loài vật cũng không sinh sản quá nhiều như khủng-long và man-mút tại Lemuria và Atlantis.

 

Bánh xe luân hồi đã mang lại trong nhiều vòng những người xưa kia đã chung đụng với nhau, không có người nào không phải trở lại đời sống nhiều lần. Vì thế không có ai còn là thuần túy người Lemuria hay người Atlantis. Dẫn-đạo-sư nói: vì xã hội ta ngày nay đa số là những người Atlantis trong thời cuối, nên những lớp trẻ và lớp chưa đứng tuổi có nhiều hành động sai lạc như phá rối, bắc cóc, nổ bom, bạo động, ma túy .v.v... Ngày nay là một thời tao loạn, và điềm báo trước bạo động sẽ tiếp tục trong thập niên 1980, cho đến khi trái đất đổi trục lần nữa. Một trận chiến tranh khác với võ khí nguyên-tử sẽ mang lại tình trạng như tại Atlantis khi năng lực của Quả cầu Pha-lê phát ra sẽ phá hủy châu Mỹ.

 

So sánh Hoa Kỳ với Atlantis, Dẫn-đạo-sư nói rằng: Khi Hoa Kỳ mở cửa cho tất cả các dân tộc và trở thành một nơi chứa đựng những người nghèo từ các nước, chủng tộc và tín ngưỡng hoà tan với nhau, chúng sẽ trở nên mạnh mẽ. Cho tới thế kỷ này, Hoa Kỳ là một thí dụ rực rỡ của Atlantis trong thời kỳ vàng son khi mọi chủng tộc đều được hoan nghênh, và tất cả mọi người đều cố gắng tiến hóa về Tâm linh, về tinh thần và về văn hóa. Hoa Kỳ giống Atlantis về nhiều phương diện và cần so sánh những trạng thái nó đưa đẩy lên cao cùng những trạng thái nó dẫn đến sụp đổ của đất đai mạnh lớn ấy. Chắc chắn chúng ta phải kềm hãm cái lòng ham muốn vô biên về vũ khí kỹ thuật cho chiến tranh và về địa vị lãnh đạo thế giới.

Ý kiến bạn đọc (0)

Ảnh Đẹp

Có Sắc Không Hương

Một ngày kia, nữ hoàng Shaba gởi đến vua Solomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu.Đó...