Tủ Sách Cao Đài - Hòa Hảo

LÝ LUẬN VỀ HỘI LONG HOA - Phần 2

Đăng lúc: 01:20 AM 31/07/2018 0   1906

Cùng Chủ Đề

HỘI LONG HOA - phần một
TRIẾT LÝ VỀ HỘI LONG HOA QUA CÁC TÔN GIÁOTIẾT 1: HỘI LONG HOA LÀ...
HỘI LONG HOA - phần hai
C. HỘI LONG HOA     ...
HỘI LONG HOA - phần ba - Hết
V. PHẬT GIÁO HÒA...

11. TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491 - 1586)

 

A. TIỂU SỬ

Người được dân Việt Nam truyền tụng và suy tôn “Nhà tiên tri” số một của nước ta là Trạng Trình, vì ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là “Sấm Trạng Trình”. Một điều khá lý thú là cách đây ngót 500 năm, ngay trang đầu của tập “Trình tiên sinh quốc ngữ” của Trạng Trình có ghi: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Ông đã khẳng định nước ta tên là Việt Nam. Một sự tiên đoán vô cùng chính xác.

Nguyễn Bỉnh Khiêm người làng Trình Tuyền (Trung Am) huyện Vĩnh Lại (nay là Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm quận công Nguyễn Văn Định, thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lan, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491) đời vua Lê Thánh Tông. Lớn lên được theo học cụ Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá). Vì tình hình đất nước không ổn định nên mãi đến năm Giáp Ngọ (1534), khi 43 tuổi Nguyễn Bỉnh Khiêm mới đi thi, đỗ ngay giải Nguyên, năm sau đi thi Hội, lại đỗ Hội nguyên, đi thi Đình, đỗ ngay Trạng nguyên. Ông làm quan cho nhà Mạc được tám năm, đến đời Mạc Phúc Hải, thấy triều đình lắm kẻ gian thần, lộng quyền, đục khoét, ông dâng sớ chém mười tám lộng thần đều là những kẻ quyền quý cả. Vua Mạc không nghe. Ông trả lại mũ áo, cáo quan về mở trường dạy học. Ông dựng một cái am nhỏ bên hồ đặt tên là am Bạch Vân và lấy tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ.

Dân gian truyền tụng nhiều về những câu nói có tính chiến lược của Trạng Trình đã giúp cho các vua chúa thời ông sống được vẹn toàn. Trạng Trình mất ngày 28.11.năm Ất Dậu, thọ 95 tuổi. Nhà vua truy tặng Nguyễn Bỉnh Khiêm tước Thái phó Trình Quốc Công. Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngoài việc dùng thi ca ngâm vịnh làm thú tiêu khiển, Cụ còn muốn dùng văn chương để giáo hóa người đời, truyền bá những tư tưởng đạo đức, giác ngộ dân chúng, vì trước mắt Cụ, hoàn cảnh đất nước thật điêu tàn, chiến tranh nồi da xáo thịt, chém giết nhau vì quyền lợi riêng tư, không còn biết đạo đức nhơn nghĩa. Cụ đã thực hành chủ trương "Văn dĩ tải Đạo" của Thánh Hiền.

Cụ Trạng Trình lưu truyền lại cho con cháu một quyển SẤM KÝ trường thiên, mà con cháu Cụ sau nầy chép vào cuốn Bạch Vân Gia Phả Bí Truyền Tập, gọi là SẤM TRẠNG TRÌNH.

 

                             CẢM ĐỀ

 

 

 

Thanh nhàn vô sự là Tiên,

 

Năm hồ phong nguyệt nổi thuyền buông chơi.

 

 

Cơ Tạo Hóa, phép đổi dời,

 

 

 

Đầu non mây khói tỏa,
Mặt nước cánh buồm trôi.

 

 

Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi,
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh Trời.

 

 

 

Tuổi già thua kém bạn,
Văn chương gởi lại đời.

 

 

Dở hay nên tự lòng người cả,
Nghiên bút soi hoa chép mấy lời.

 

 

 

Bí truyền cho con cháu,
Dành hậu thế xem chơi.

 

B. SẤM TRẠNG TRÌNH

 

Sấm được viết cách đây 500 năm, cụ Trạng Trình đã dùng môn Thái Ất để tiên đoán sự việc của nước ta. Sấm này có các bản khác nhau chút ít.


1. Vận lành mừng gặp tiết lành

Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu

Một câu là một nhiệm màu

Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao

 

5 Trải vì sao mây che Thái Ất

Thủa cung tay xe nhật phù lên

VIỆT NAM khởi tổ xây nên

LẠC LONG ra trị đương quyền một phương

Thịnh suy bỉ thới lẽ thường

Một thời lại một nhiễu nhương nên lề


11. Ðến ÐINH HOÀNG nối ngôi cửu ngủ

Mở bản đồ rủ áo chấp tay

Ngự đao phút chốc đổi thay

Thập bát tử rày quyền đã nổi lên

Ðông A âm vị nhi thuyền

Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh


17. CHẤN cung hiện nhật quang minh

Sóng lay khôn chống trường thành bền cho

ÐOÀI cung vẻ rạng trăng thu

Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn

21.Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật

Dưới lẫn trên năng vẫn uống quen

Sửa sang muôn việc cầm quyền

Ngồi không ai dể khẳng nhìn giúp cho

 

25.Kìa liệt vương khí hư đồ ủng

Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn

Trời sinh ra những kẻ gian

Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài

Áo vàng ấm áp đà hay

Khi sui đấp núi khi say xây thành

Lấy đạt điền làm công thiên hạ

Ðược mấy năm đất lở giếng mòn

Con yết ạch ạch tranh khôn

Vô già mở hội mộng tôn làm chùa

Cơ trời xem đã mê đồ

Ðã đô lại muốn mở đô cho người

 

37.Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn

Suốt vạn dân cừu giận oán than

Dưới trên dốc chí lo toan

Những đua bán nước bán quan làm giàu

Thống rủ nhau làm mồi phú quí

Mấy trung thần có chí an dân

Ðua nhau làm sự bất nhân

Ðã tuần bốn bể lại tuần đầu non

 

45.Dư đồ chia xẻ càn khôn

Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau

Vội sang giàu giết người lấy của

Sự có chăng mặc nọ ai đôi

Việc làm thất chính tơi bời

Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ

Xem tượng trời đã giơ ra trước

Còn hung hăng bạc ngược quá xưa

 

53.Cuồng phong cả sớm liền trưa

Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề

Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết

Ðể vạn dân dê lại giết dê

Luôn năm chật vật đi về

Âm binh ở giữa nào hề biết đâu

 

59.Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng

Cũng một lòng trời chống khác nào

Xem người dường vững chiêm bao

Nào đâu còn muốn ước ao thái bình

 

63.Một góc thành làm tâm chứng quỷ

Ðua một lòng ích kỷ hại nhân

Bốn phương rời rỡ hồng trần

Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần

 

67.Tiếc là những xuất dân làm bạo

Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau

Nhân danh trọn hết đâu đâu

Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê

 

71.Hùm già lạc dấu khôn về

Mèo non chi chí tìm về cố hương

Chân dê móng khởi tiêu tường

Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình

 

75 Nội thành ong ỏng hư kinh

Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang

Bở mồ hôi Bắc giang tái mã

Giửa hai xuân bỗng phá tổ long

Quốc trung kinh dụng cáo không

Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng

 

81.Gà đâu sớm gáy bên tường

Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không

Thủy binh cờ phất vầng hồng

Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng

Ðứng hiên ngang đố ai biết trước

Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?

 

87.Ai còn khoe trí khoe năng

Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi

Chưa từng thấy đời này sự lạ

Bổng khiến người giá họa cho dân

Muốn bình sao chẳng lấy nhân

Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày

 

93.Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán

Ðúc tiền ra bán tước cho dân

Xun xoe những rắp cậy quân

Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công

 

97.Máy Hoá công nắm tay dễ ngỏ

Lòng báo thù ai dễ đã nguôi

Thung thăng tưởng thấy đạo trời

Phù LÊ diệt MẠC nghỉ dời quân ra

 

101.Cát lầm bốn bể can qua

NGUYỄN thì chẳng được sẽ ra lại về

Quân hùng binh nhuệ đầy khe

Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời

Bấy giờ càng khốn than ôi

Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?

 

107.Thương những kẻ ăn rau ăn giới

Gặp nước bung con cái ẩn đâu

Báo thù ấy chẳng sai đâu

Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn

Xin những kẻ hai lòng sự chúa

Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân

Cho nên phải báo trầm luân

Ai khôn mới được bảo thân đời này

 

115.Nói cho hay KHẢM cung RỒNG dấy

Chí anh hùng xem lấy mới ngoan

Chử rằng LỤC THẤT NGUYỆT GIAN

Ai mà nghĩ được mới gan anh tài

Hễ nhân kiến đã dời đất cũ

Thì PHỤ NGUYÊN mới chổ binh ra

 

121. Bốn phương chẳng động can qua

Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi

Bấy giờ mở rộng qui khôi

Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn

 

125.Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh

Hoàng phúc xưa đã định tây phong

Làu làu thế giới sáng trong

Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương

Rõ sinh tài lạ khác thường

Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài

 

131.Xem ý trời có lòng đãi thánh

Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai

Chọn đầu thai những vì sao cả

Dùng ở tay phụ tá vương gia

Bắc phương chính khí sinh ra

Có ông BẠCH SĨ điều hoà hôm mai

Song thiên nhật rạng sáng soi

THÁNH NHÂN chẳng biết thì coi cho tường

 

139.Ðời này thánh kế vị vương

Ðủ no đạo đức văn chương trong mình

Uy nghi trạng mạo khác hình

Thác cư một gốc KIM TINH phương đoài

Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi

Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân

Binh thơ mấy quyển kinh luân

Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu

 

147.Ở đâu đó anh hùng hẳn biết

Xem sắc mây đã biết thành long

Thánh nhân cư có thụy cung

Quân thần đã định gìn lòng chớ tham

 

151.Lại dặn đấng tú nam chí cả

Chớ vội vàng tất tả chạy rong

Học cho biết Lý kiết hung

Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi

Hễ trời sinh xuống phải thì

Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông

 

157.Kìa những kẻ vội lòng phú quí

Xem trong mình một thí đều không

Ví dù có gặp ngư ông

Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng

 

161.Xin khuyên đấng thời trung quân tử

Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh

Âm dương cơ ngẩu ngô sinh

Thái Nhâm Thái Ất trong mình cho hay

 

165.Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng

Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh

Võ thông yên thủy thần kinh

Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ

Chớ vật vờ quen loài ong kiến

Biết ray tay miệng biếng nói không

Ngỏ hay gặp hội mây rồng

Công danh sáng chói chép trong vân đài

Bấy giờ phỉ sức chí trai

Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình

 

175.Nặng lòng thật có vĩ kinh

Cao tay mới gẩm biết tình năm nao

Trên trời có mấy vì sao

Ðủ nho biền tướng anh hào đôi nơi

Nước Nam thường có thánh tài

Ai khôn xem lấy HÔM, MAI mới tường

 

181.So mấy lời để tàng kim quỉ

Chờ hậu mai có chí sẽ cho

Trước là biết nẽo tôn phò

Sau là cao chí biết lo mặc lòng

Xem Đoài cung đến thời bất tạo

Thấy VĨ TINH liệu rạo cho mau

Nguôi lòng tham tước tham giàu

Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân

Trẻ con mang mệnh tướng quân

Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường

 

191.Ai lấy gương vua U thủa trước

Loạn ru vì tham ngược bất nhân

Ðoài phương ong khởi lần lần

Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn

 

195.Man mác một đỉnh HOÀNH SƠN

Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù

Ấy là những binh thù Thái Thái

Lòng trời xui ai nấy biết ru ?

Phá điền đầu Khỉ cuối thu

 

200.Tái binh mới động thập thò liền sang

Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết

Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa

Lưu tinh hiện trước đôi thu

Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm

 

205.Xem thấy nhũng sương săm tuyết lạnh

Loài bất bình tranh mạnh hung hăng

Thành câu cá, lửa tưng bừng

Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm

 

209.Chiến trường chốn chốn cát lầm

Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông

Sang thu chín huyết hồng tứ giả

Noi đàng Dê tranh phá đôi nơi

Ðua nhau đồ thán quần lê

Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương

 

215.Kẻ thì phải thủa hung hoang

Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan

Kẻ thì mắc thủa hung tàn

Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình

Muông vương dựng ổ cắn tranh

Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành

Bời bời đua mạnh tranh giành

Ra đâu đánh đấy dem binh sớm ngày

 

223.Bể thanh cá phải ẩn cây

Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù

Nào ai đã dễ nhìn U

Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn

Cây bay lá lửa đôi ngàn

Một làng còn mấy chim đàn bay ra

Bốn phương cùng có can qua

Làm sao cho biết nơi hào bảo thân

 

231. ÐOÀI phương thực có chân nhân

Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người

Tìm cho được chốn được nơi

THÁI NGUYÊN một giãi lần chơi trú đình

Bốn bề núi đá riểu quanh

Một đường tiểu mạch nương mình dấy an

Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc

Tránh cho xa kẻo mắc đao binh

 

239.Bắc kinh mới thật đế kinh

Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào

Chim hồng vỗ cánh bay cao

Tìm cho được chốn mới vào thần kinh

 

243.Ai dễ cứu con thơ sa giếng

Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau

Vạn dân chịu thủa u sầu

Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho

Cấy cày thu đãi thời mùa

Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai

Nhân ra cận duyệt viễn lai

Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm

 

251.Xem tượng trời biết đường đời trị

Gẩm về sau họ LÝ xưa nên

Giòng nhà để lấy dấu truyền

Gẩm xem bốn báu còn in đời đời

Thần qui cơ nổ ở trời

Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường

 

257.Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh

Sông Bảo Giang thiên định ai hay

Lục thất cho biết ngày dài

Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê

Có thầy nhân thập đi về

Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh

Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp

Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời

Ra tay điều chỉnh hộ may

Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân

Lọ là phải nhọc kéo quân

Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về

 

269.Năm  GIÁP TÝ vẽ Khuê đã rạng

Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh

Ân trên vũ khí vân hành

Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài

Bản đồ chảng sót cho ai

Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn

 

275.Vững nền vương cha truyền con nối

Dõi muôn đời một mối xa thư

Bể kình tâm lặng bằng tờ

Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân

Âu vàng khỏe đặt vững chân

Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài

 

281.Vừa năm NHÂM TÝ xuân đầu

Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời

Quyển vàng mở thấy sấm trời

Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian

Một thời có một tôi ngoan

Giúp trong việc nước gặp an thái bình

 

287.Luận chung một tập kim thời

Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi

Trượng phu có chí thời coi

Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng

Tài nầy nên đấng vẻ vang

Biết chừng đời trị biết đường đời suy

Kể từ nhân đoản mà đi

Số chưa gặp thì biết hoà chép ra

 

295.Tiếc thay hiền sĩ bao già

Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công

Thử cho tay giúp ra dùng

Tài này so cùng tài trước xem sao

 

299.Trên trời kể chín tầng cao

Tay nghe bằng một ti hào biết hay

Hiềm vì sinh phải thời này

Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời

Hợp đà thay thánh nghìn tài

Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời

Nói ra thì lậu sự đời

Trái tai phải lụy tài trai khôn luần

Nói ra ám chúa bội quân

Ðương thời đời trị xoay vần được đâu

Chờ cho nhân đoản hết sau

Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn

 

311.Trời xui những kẻ ắt gian

Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay

Vua nào tôi ấy đã bày

Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn

Ðua nhau bội bạn nghịch vi

Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay

 

317.Tiếc tài gẩm được thời hay

Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng

Tài trai có chí anh hùng

Muốn làm tướng súy lập công xưng đời

 

321.Khá xem nhiệm nhặt tội trời

Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng

Ði tìm cho đến đế cung

Rấp phù xuất lực đế cung được toàn

Bảo nhau cương kỷ cho tường

Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài

Chờ cho động đất chuyển trời

Bấy giờ Thánh sẽ nên tay anh hùng

Còn bên thì náu chưa xong

Nhân lực cướp lấy thiên công những là

Ðời ấy những Quỉ cùng Ma

Chẳng còn ở thật người ta đâu là

Trời cao đất rộng bao xa

Làm sao cho biết cửa nhà đế vương

Dù trai ai chửa biết tường

Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này

 

337.Ý ra lục thất gian nay

Thời vận đã định thời nầy hưng vương

Trí xem nhiệm nhặt cho tường

Bảo Giang Thánh xuất trung ương thuở nầy

Vua ngự thạch bàn xa thay

Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng

 

343. kêu vượn hót vang lừng

Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò

Nhân dân vắng mạt bằng tờ

Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay

 

347.Vua còn cuốc nguyệt cày mây

Phong điều vũ thuận thú rày an dân

Phong đăng hoà cốc chứa chan

Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây

Chính cung phương Khảm vần mây

Thực thay Thiên tử là nay trị đời

 

353.Anh hùng trí lượng thời coi

Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi

Tìm lên đến thạch bàn khê

Có đất sinh thánh bên kia cuối làng

Nhìn đi nhìn lại cho tường

Dường như chửa có sinh vương đâu là

Chẳng tìm thì đến bình gia

Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình

 

361.Nhìn xem phong cảnh cũng xinh

Tả long triều lại có thành đợt vây

Hửu Hổ uấn khúc giang này

Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai

Ở xa thấy một con voi

Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu

Ấy điềm thiên tử về chầu

Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời

 

369.Song thiên nhật nguyệt sáng soi

Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu

Ðến đời thịnh vượng còn lâu

Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm

Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam

Muốn làm tướng súy thì xem trông này

 

375.Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn

Một nhà họ NGUYỄN phúc sinh tôn

Tiền sinh cha mẹ đà cách trở

Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn

 

379.Kìa cơn gió thổi lá rung cây

Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây

Tan tác kiến KIỀU AN đất nước

Xác xơ cổ thụ sạch am mây

Sơn lâm nổi sóng mù thao cát

Hưng địa tràng giang hóa nước đầy

Một gió một yên ai sùng bái

Cha con người VĨNH BẢO cho hay

Con mùng búng tít con quay

Vù vù chong chóng gió bay trên đài

Nhà cha cửa đóng then cài

 

390.Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân

Tiếc tám lạng thương nửa cân

Biết rằng ai có du phần như ai

Bắt tay nằm nghỉ dông dài

Thương người có một lo hai phận mình

 

395.CANH niên tân phá

TUẤT HỢI phục sinh

Nhị Ngũ dư bình

Long, Hổ, Xà đầu khởi chiến tranh

Can qua tứ xứ loạn đao binh

400. Mã đề dương cước anh hùng tận

Thân, Dậu niên lai kiến thái bình

 

402.Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu

Có một đàn Xà đánh lộn nhau

Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng

Lợn kia làm quái phải sai đầu

Chuột nọ lăm le mong cản tổ

Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu

Hùm ở trên rừng gầm mới dậy

Tìm về quê củ bắt ngựa tàu

 

410.Cửu cửu càn khôn dĩ định

Thanh minh thời tiết hoa tàn

Trực đáo Dương đầu Mã vĩ

Hồ binh bát vạn nhập Trường An

 

411.Bảo Giang thiên tử xuất

Bất chiến tự nhiên thành

Lê dân bảo bảo noản

Tứ hải lạc âu ca

Dục đức thánh nhân hương

Qua kiều cư Bắc phương

 

417.Danh vi NGUYỄN gia tử

Kim tịch sinh ngưu lang

Thượng đại nhân bất nhân

Thánh ất dĩ vong ân

Bạch hổ kim đai ấn

Thất thập cổ lai xuân

Bắc hữu Kim thành tráng

Nam tạc Ngọc bích thành

Hỏa thôn đa khuyển phệ

Mục giả dục nhân canh

Phú quí hồng trần mộng

Bần cùng bạch phát sinh

Anh hùng vương kiếm kích

Manh cổ đổ thái bình

 

431.Nam Việt hửu Ngưu tinh

Quá thất Thân thủy sinh

Ðiạ giới sĩ vị bạch

Thủy trầm nhi Bắc Kinh

Kỷ mã xu dương tẩu

Phù kê thăng đại minh

Trư thử giai phong khởi

Thìn Mão xuất thái bình

Phân phân tùng Bắc khởi

Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh

 

441.Bảo sơn Thiên tử xuất

Bất chiến tự nhiên thành

Thủy trung tàng bảo cái

Hứa cập thánh nhân hương

Mộc hạ châm châm khẩu

Danh thế xuất nan lương

Danh vi NGUYỄN gia tử

Tinh bản tại ngưu lang

Mại dử lê viện dưỡng

 

450. Khởi nguyệt bộ đại giang

Hoặc kiều tam lộng ngạn

Hoặc ngụ kim lăng cương

Thiên dử thần thực thụy

Thụy trình ngũ sắc quang

Kim kê khai lựu điệp

Hoàng cái xuất quí phương

Nhân nghĩa thùy vi địch

 

458.Ðạo đức thực dữ đương

Tộ truyền nhị thập ngủ

Vận khải ngủ viên trường

Vận đáo dương hầu ách

CHẤN ĐOÀI cương bất trường

Quần gian đạo danh tự

Bách tính khổ tai ương

Can qua tranh đấu khởi

Phạm địch tánh hung hoang

Ma vương sát Đại quỉ

Hoàng thiên tru Ma vương

Kiền khôn phú tai vô lương

Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng

 

471.Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết

Ðảo HOÀNG SƠN tam liệt ngũ phân

Ta hồ vô phụ vô quân

Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành

hương phước điạ giáng linh

475.ÐOÀI phương phước địa giáng linh

Cửu trùng thụy ứng Long Thành ngủ vân

Phá điền Thiên tử giáng trần

Dũng sĩ nhược hai mưu thần như lâm

Trần công nai thị phúc tâm

Giang hồ tử sĩ  Đào Tiềm xuất du

Tướng thần hệ xuất Y Chu

Thứ kỵ phục kiến Ðường Ngu thi hành

Hiệu xưng thiên hạ thái bình

 

484.Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .

 

Trong sấm Trạng Trình còn có hai câu này, thường được thiên hạ đem ra bàn luận:

                                          Cửu cửu càn khôn dĩ định

                                         Thanh minh thời tiết hoa tàn

Chúng ta thấy chữ cửu là 9. Số 9 đánh dấu một tiết đoạn trong cuộc tuần hoàn của vũ trụ, trong sự diễn tiến lịch sử của một dân tộc. Cửu cửu là 9 lần 9 thành 81. Số này là thời kỳ đô hộ Pháp tính từ năm 1862 (hoà ước Nhâm Tuất) mất ba tỉnh miền Ðông Nam kỳ, tiếp đến năm 1867 thì mất luôn 3 tỉnh miền Tây, cho đến năm 1945 (Ất Dậu ) với cuộc đảo chính Nhật, mồng 9 tháng 3 dương lịch, và sự sụp đổ của nền đô hộ Pháp, đúng vào lúc Thanh minh thời tiết hoa tàn. Nhưng  cửu cửu đây cũng có thể giải thích là cứ 9 năm thì xảy ra một sự việc lớn, ảnh hưởng đời sống quốc gia và tương lai dân tộc.

Nhìn lại lịch sử cận đại Việt nam từ đầu thế kỷ XX tới nay, chúng ta có thể ghi những thời điểm rất quan trọng sau đây:

1907 (Đinh Mùi ): vua Thành Thái bị truất phế đày vào Nam

1916 (Bính Thìn ): vua Duy Tân khởi nghĩa thất bại, bị đày sang đảo Réunion, cùng với vua cha (Thành Thái)

1925 (Ất Sửu ): vua Khải Ðịnh mất, vua Bảo Ðại nối ngôi (2-1926)

1936: Phong trào Bình dân có nhiều cuộc biểu tình.

1945 (Ất Dậu ): Ðảo chính Nhật (9-3), Việt minh giành chính quyền (23-8. 1945)

1954: Hiệp định Genève (20-7) phân ra Nam Bắc.

1955- 1956  (Ất Mùi- Bính Thân ): VNDCCH thành lập, thủ đô Hà Nội

Sấm: Trực đáo Dương đầu Mã vỹ - Hồ binh bát vạn nhập Tràng an.

 1963 (Quý Mão): đảo chính 1-11, lật đổ Ðệ nhất Cộng hòa, thành lập Ðệ nhị Cộng hoà ở miền Nam

1972 (Nhâm Tý): Hoà đàm Ba lê kết thúc.gT

TTrong1975

C. VAI TRÒ TRONG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

 

Thanh Sơn Đạo Sĩ 青山道士   là Thánh hiệu của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngài là Sư Phó chưởng quản Bạch Vân Động nơi cõi thiêng liêng. Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cùng với hai vị Thánh của Bạch Vân Động là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor Hugo) và Tôn Trung Sơn (Tôn Văn) được lịnh Đức Chí Tôn chép Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước lên tấm bảng đá để công bố cho toàn cả nhơn loại rõ, nếu ai thực thi được bốn chữ BÁC ÁÍ – CÔNG BÌNH thì được Đức Chí Tôn rước lên cõi Thiêng liêng Hằng sống.

Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ theo lịnh của Ngọc Hư Cung, cho các vị Thánh trong Bạch Vân Động giáng trần để Đức Chí Tôn lập thành Hội Thánh buổi đầu khai ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Dưới đây là bài Kinh xưng tụng công đức của Đức Thanh Sơn Chơn Nhơn và Nguyệt Tâm Chơn Nhơn ( nhà văn hào Victor Hugo của nước Pháp )

Bạch Vân Động đèn hồng chói tỏa,

Thanh Sơn đài Diệu Võ Tiên Ông.

Bấy lâu tu luyện thành công, 

Đắc thành chánh quả độ trong Tam Kỳ.

Nguyễn Bỉnh Khiêm tầm Tiên ẩn dạng,

Trình Quốc Công là trạng nhà Nam.

Sớm khuya ẩn chốn thanh am,

Tu tâm luyện tánh chẳng ham mến trần.

Tìm chân lý ngỏ gần Tiên Thánh,

Học vô vi đặng lánh phàm gian

Thú vui hai chữ thanh nhàn,

Thong dong tự toại chẳng màng đai cân.

 

Ghi chú về: BẠCH VÂN ĐỘNG.

Đức Phạm Hộ Pháp giải thích về Bạch Vân Động như sau:

"Xưa nay người ta vẫn coi Nguyệt cầu (Mặt Trăng) là nơi dừng chân của những vị Thánh, Thần, trước khi xuống trần giới (Địa cầu) đầu thai. Các vị đó phải ở lại Nguyệt cầu ít lâu để liên lạc với Địa cầu, để quen lần với đời sống ở thế gian nầy. Từ cổ, Thần thoại đã mệnh danh Nguyệt cầu là Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung). Cơ giáng ở Âu Châu, mệnh danh là LOGE BLANCHE (Bạch Động).

Giáo chủ của Bạch Vân Động là Bạch Vân Hòa Thượng, một hóa thân của Từ Hàng Đạo Nhơn (Đức Phật Quan Âm). Bạch Vân Hòa Thượng đã hai lần giáng trần ở Pháp: một lần là Hồng Y Giáo Chủ Richelieu, một lần là Quận Công La Roche Foucault. Ở Việt Nam, Ngài giáng trần là Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức gọi Trạng Trình.

 

 

12. ÔNG ĐẠO NHỎ

 

Năm 1968 sau trận Tết Mậu Thân, vị Tư lịnh Quân đoàn IV (quân đội Việt Nam Cộng hòa) bấy giờ là Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh có rước một ông Đạo từ trên Hồng Ngự xuống. Ông Đạo nầy lúc đó chỉ 8 tuổi nên được gọi là Ông Đạo Nhỏ. Ông là con của ông Trần kim Qui, Hiệu trưởng một trường học ở quận Hồng Ngự, người theo đạo Phật Giáo Hòa Hảo.

Ông Thanh giới thiệu từng thực khách với Ông Đạo Nhỏ một cách hết sức trân trọng. Chỉ với người khoảng 8 tuổi mà tôi thấy Tướng Nguyễn Viết Thanh đối xử trang trọng lắm. Mọi người đều dùng cơm chay vì Ông Đạo Nhỏ không ăn mặn. Sau khi cơm nước xong xuôi, mỗi người được phân phát một tờ giấy và một cây viết chì. Tướng Thanh nói rằng :“Ông Đạo Nhỏ biết rất rành quá khứ vị lai (tức chuyện về trước, chuyện về sau) nhưng vì không nói chuyện được nên chỉ trao đổi bằng giấy viết”. Vậy là mỗi người viết câu hỏi mà mình muốn hỏi lên tờ giấy rồi chuyền tay đưa tới Ông Đạo Nhỏ.

Tôi đưa cho ông Thanh, ông Thanh coi qua một chút rồi chuyển cho Ông Đạo Nhỏ. Ông Đạo Nhỏ viết xuống mấy chữ chuyền tới lui thì ra ông viết rằng “đưa về nhà rồi sẽ cho sau”; ông không cho liền trong khi mấy ông kia thì trả lời ngay… Đến ngày Rằm, tôi cho mấy đứa con đi ngủ sớm, đóng cửa phòng không cho ra ngoài, rồi chuẩn bị vào phòng khách để đàm đạo với Ông Đạo. Ông Đao viết lên giấy biểu tôi đốt hai cây đèn cầy đỏ thật lớn để trên hai cái chân đồng và tắt hết đèn điện. Sau đó, Ông biểu tôi lấy ra một tập giấy học trò 200 trương và một cây viết nguyên tử. Ông bắt đầu viết lên tờ giấy :“Ông cứ đặt câu hỏi và viết lên đây mỗi trang giấy là một câu hỏi !” Còn nhớ, khi Ông cho mấy ông Tướng Tá kia thì mỗi người chỉ được một bài thơ còn riêng tôi thì cả một cuốn tập 200 trương. Đại ý những điều Ông viết về vận mệnh cho tôi như thế nầy :“Khi tôi về già, cái mệnh của tôi cũng như Ông Khương Thượng (tức KhươngTử Nha) đời nhà Châu giúp vua Châu diệt nhà Thương (hoàn toàn được viết bằng những bài thơ). Ông còn viết thêm là “ông có quyền hỏi tất cả những gì mà ông muốn biết”. Thế là, tôi lật trang kế tiếp, tôi hỏi về chuyện quốc gia, đến khi hết chuyện quốc gia là đã lên tới 100 trương rồi nhưng ông cứ cho hỏi hoài từ 7 giờ tối tới 12 giờ khuya. Tôi hỏi đâu, ông cho đó …đặc biệt, tất cả đều trả lời bằng một bài thơ chớ không phải văn bình thường. Tôi không hiểu tại sao một người chỉ mới 8 tuổi mà làm thơ đủ vần, đủ điệu như vậy. Tôi thử ông tới những bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú luôn cả bài toàn chữ B. Ông cũng cho tôi bài thơ Quốc Ngữ khởi đầu toàn là chữ B mà lại viết liền không cần suy nghĩ, thật là một người có bộ óc thông minh kinh hồn không thể tưởng tượng được. Về chuyện trong nước thì cuối cùng ông phán trong một bài thơ, đại ý là:“ Miền Nam không đứng vững, không đủ khả năng đánh bại miền Bắc”.

      Kế đó tôi hỏi về chuyện Thế giới thì được trả lời đến gần 100 bài nữa, trong đó có hai bài hỏi về Hội Long Hoa. Tôi hỏi “Hội Long Hoa thành lập ở đâu, do ai chủ trì và giải quyết chuyện gì ?” Vấn đề nầy ông không trả lời nhưng ông vẽ một cái hình lên trên tờ giấy. Ông vẽ một khán đài rồi vẽ một cái vòng tròn, ông vẽ một mũi tên chỉ vô để “người” tức là nhiều người ngồi trên đó, rồi phía dưới ông vẽ hình người mà cả hàng ngàn, hàng ngàn người ngồi ghế bên dưới. Còn vùng đó là vùng có núi mà là núi thấp; ông không nói địa điểm chỗ nào nhưng nhìn xa xa thấy toàn là núi, còn chỗ hội họp là giữa hai cái núi, ông vẽ sơ sơ vậy thôi. Sau đó, ông vẽ cái dấu tròn phiá trước, kế đó là cái dấu tròn thứ hai; cái dấu đầu tức là có người ngồi trước, rồi ông vẽ một mũi tên chỉ vào dấu thứ hai đó, ông viết chữ “ông” tức là tôi sẽ là người thứ nhì ngồi ở Hội Long Hoa. Đến nay, khi tôi kể lại tôi còn cảm thấy run cả người bởi vì Hội Long Hoa là một chuyện trọng đại và phi thường giải quyết cả một vận hội thế giới chớ không phải cho riêng nước mình thôi đâu.

      Rồi khi tôi hỏi đến chuyện thế giới chiến tranh thứ III thì ông cho bài thơ trả lời, đại ý là chuyện đó sẽ phải xảy ra và thế giới cũng bị tận diệt rồi sau đó mới lập Hội Long Hoa (nghĩa là khi chiến tranh Thế Giới thứ III chấm dứt mới có Hội Long Hoa).

Sau đó tôi kêu chú lính chạy đi lấy cho tôi một bản đồ Thế Giới rất lớn mang đến và cả bản đồ Việt Nam, tôi phải trải từng khúc lên bàn, theo ý muốn của ông. Ông cầm cây viết mỡ lên sẵn sàng giải đáp. Đầu tiên, tôi hỏi :“xin ông cho biết ảnh hưởng về Việt Nam và Trung Quốc sẽ đi tới đâu ?” Ông cầm cây viết mỡ

-     vẽ một lằn từ bên Tàu phía trên Hồng Kông từ ngoài biển kéo vô một lằn tới dãy Himalaya (Hy-mã-lạp-sơn) rồi ông kéo trở lại cắt ngang phía Bắc Việt Nam từ miền Thượng du Bắc Việt tức vùng Cao bằng- Lạng sơn ra tới phía Bắc của Hải phòng. Rồi ông lấy viết xanh ông gạch gạch rồi cho biết “tất cả chỗ đó sẽ trở thành biển”, ông viết một chữ “biển” lên đó. Nguyên phần đất nầy sẽ tan biến, tức là ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ thành một cái biển lớn.

-     HồngKông không còn rồi qua đến phiá Bắc của Lào, một phần của Thái lan, một phần của Miến Điện rồi vô tới dãy Himalaya sẽ bị sụp mất hết, Việt nam chỉ mất có bấy nhiêu đó thôi. Cái vạt Bắc Kinh- Thượng Hải được ông gạch nát hết, Đài Loan cũng lặn mất.

-      Xong rồi, tôi để bản đồ trước mặt Ông, chỉ vào từng vùng, từng vùng thì ông cho thấy quốc gia nào cũng bị khó khăn hết. Nước Mỹ nầy thì ông vẽ Tiểu Bang Washington, Oregon, California đi xuống biển, còn ở phía miền Đông thì bể nhiều lỗ, Nữu Ước không còn nữa tức cũng thành biển. Nước Mỹ chỉ bị mất mấy vùng hai bên bờ biển phiá Đông và phiá Tây.

-     Ông làm một bài thơ cho biết Địa cầu chuyển trục, nước Mỹ trở thành một vùng nằm ngay giữa đường Xích đạo. Đường Xích đạo đi ngang qua nước Mỹ biến nước Mỹ trở thành một quốc gia bị nóng như Sa mạc.

 - Còn bên Âu châu thì quốc gia nào cũng bị thiệt hại một phần hết. Nước nào ông cũng bôi bỏ chỗ nầy, chỗ kia rồi chỗ kia, chỗ nọ; cuối cùng chỉ còn lại hai chỗ là Úc châu và Tân Tây lan. Tôi hỏi ông về phần đất Úc châu thì ông cho một bài thơ cho biết đó là Thánh địa không có bị động chạm gì tới và Tân Tây Lan cũng như Úc Châu đều còn nguyên vẹn. Các quốc gia con con ở gần Bắc băng dương và Nam băng duơng thì nơi nào cũng bị đánh phá…

            Tôi cứ cầm tập thơ viết đầy 200 trương nầy coi đi coi lại hoài, nghiền ngẫm những điều ghi trong đó, sau đó tôi cầm về Saigòn cẩn thận cất vô tủ sắt trong nhà… Tôi cố tình tìm kiếm vẫn không ra rồi từ từ cũng không còn nhắc tới nữa, nhưng tôi tiếc lắm. Lâu lâu tôi cũng muốn giở ra coi để biết thời cuộc, vì đây là sách thiên cơ mà tôi tin tưởng.

            Đầu năm 1978 có hai vợ chồng ông Thiếu tá gốc Phật Giáo Hòa Hảo ở Nam Cali lên Sacramento thăm bà con ở đây. Ông có gặp và kể cho tôi nghe về chuyện Ông Đạo Nhỏ. Ông Thiếu tá nầy quê ở Rạch giá, và sau biến cố 1975, vợ chồng ông trở về quê vợ ở Hồng Ngự. Ông nói, ông có đến gặp và biết Ông Đạo Nhỏ ở Hồng Ngự. Ông Đạo ở đó lo tu hành và chữa bịnh. Những bịnh nhẹ và ma quỷ thì ông làm hay lắm còn về nóng lạnh hoặc sốt rét thì chữa không được khá, đặc biệt, bịnh thuộc về ma hành quỷ bắt hay điên loạn thì ông chữa đươc hết… Sự việc nầy, theo tôi nghĩ là do cái linh ứng của Đức Phật Thầy đã chuyển kiếp qua Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ rồi sau đó lại chuyển qua Ông Đạo Nhỏ. Sở dĩ tôi nghĩ như vậy vì khi tôi hỏi Sư phụ của tôi, ông đã cho tôi biết.

      Sư phụ tôi là một vị Hòa thượng người Quảng Ngãi. Năm 1974, ông đã được 104 tuổi rồi. Lúc còn trẻ, ông tu ở Quảng Ngãi rồi sau đó đi ra Hà Nội và qua bên Tàu. Ông lại đi theo các ông sư Miến Điện về tu ở Miến Điện 5 năm, học ngôn ngữ và chữ viết Miến Điện rồi lại đi theo mấy ông sư nầy hành hương qua Nepal rồi đến Tây Tạng ở đó tu suốt 30 năm nữa... Ông tu đến mức là đọc được ngôn ngữ xuất phát từ tư tưởng con người. Tới tháng Giêng năm 1974 thì ông nói trước :“ Ngày Rằm tháng Bảy nầy, Thầy sẽ về núi”. (về núi tức là chết thiệt). Ông nhắn nhủ rằng :“Cái đời khổ sắp tới rồi! Các con phải rán giữ gìn tâm ý, làm điều thiện và lo tu hành

“ Qua sang năm (tức năm 1975) thì miền Nam sẽ gặp đại nạn. Người nào tiền nhiều thì tội nhiều, người nào chức trọng quyền cao chừng nào thì tội càng nặng chừng nấy. Hòa thượng, sư sãi, ni cô, cha cố, dì phước tất cả mọi người đều phải tự cày cấy, trồng trọt mới có cái ăn. Dân chúng không còn có khả năng cúng dường nữa.

Cái đại nạn nầy sẽ trên dưới 30 năm rồi cơ trời mới chuyển, tự nhiên cái nạn nó mới hết”.

                                                                        Nguyễn văn Hiệp

(Viết theo lời kể của Thiếu Tướng Nguyễn văn Chức- Sacramento, tháng 8 năm 2007).

 

 

13. LƯU BÁ ÔN

.
Dự ngôn trên bia đá của Lưu Bá Ôn tại núi Thái Bạch tỉnh Thiểm Tây


Lời dịch giả:

Lịch sử Trung Quốc trải qua nhiều triều đại vua chúa, mỗi một triều đại đều có người tu Đạo, nên đã có một số dự ngôn để lại đời sau, như bài thơ dự ngôn của Bộ Khư Đại Sư đời nhà Từ, “Bài đẩy lưng” của Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cang đời nhà Đường (bên cạnh Lý Thái Dân), “Mã tiền khóa” của Khổng Minh thời kỳ chiến quốc. “Mai hoa thơ” củaThiện Ung đời nhà Tống, Bài “Bánh Chiên Ca” của Lưu Bá Ôn đời nhà Minh (bên cạnh Chu Nguyên Chương). Đến hôm nay thì tất cả dự ngôn ấy đã có người giải ra rất chính xác với chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Người tu Đạo không cầu danh lợi nên những gì họ để lại đời sau chắc chắn không phải khoe tài, có lẽ chỉ nhằm mục đích cảnh tỉnh đời sau là sự việc trên đời đều đã có sự sắp xếp của Trời.  Bài dưới đây là một bài khác của Lưu Bá Ôn đã phát hiện ở trên bia đá, tạm dịch nghĩa nên  không chính xác, chỉ để hiểu sơ đại ý bài thơ.


Thiên có nhãn, Địa có nhãn, người người cũng có một đôi nhãn.

Thiên cũng lật, Địa cũng lật, tiêu diêu tự tại lạc vô biên.

 

Kẻ nghèo một vạn lưu một ngàn, kẻ giàu một vạn lưu hai ba.

Giàu nghèo nếu không hồi tâm chuyển, nhìn xem ngày chết ở nhãn tiền (trước mắt ).

Bình địa không có ngũ cốc trồng.

Cẩn phòng tứ phương tuyệt khói người.

Nếu hỏi ôn dịch hà thời hiện, nên xem giữa tháng 9 tháng 10 mùa đông. Người làm việc thiện thì được thấy, người làm việc ác không được xem. Trên đời có người hành đại thiện, lây bởi kiếp này thật không đáng.

 

Còn có mười sầu ở trước mắt.


1.Nhứt sầu thiên hạ loạn khắp nơi.

2. Nhị sầu đông tây người đói chết.

3. Tam sầu hồ rộng bị đại nạn.

4.Tứ sầu các tỉnh khởi lang khói.

5.Ngũ sầu nhân dân không an nhiên.

6.Lục sầu mùa đông giữa tháng chín tháng mười.

7. Thất sầu có cơm không người ăn.

8.Bát sầu có người không áo mặc.

9.Cửu sầu thi thể không người liệm.

10.Thập sầu khó qua năm heo, chuột( Hợi, Tý ).

 

Nếu được qua khỏi đại kiếp niên, mới tính là thế gian bất lão tiên. 
Dù  là thiết La Hán làm bằng đồng, khó qua 
mùng mười ba tháng bảy
.

Cho dù bạn là Kim Cang Thiết La Hán, trừ phi thiện mới được bảo tồn. Cẩn phòng người người khó khăn qua.

Ngãi qua thiên phiên năm Rồng Rắn ( Thìn, Tỵ ).

Ấu nhi giống như Chu Hồng Võ,

Tứ Xuyên còn khổ hơn Hán Trung.

Sư tử gầm như Lôi, hơn hẳn trăm cọp hung.

Tây giác hiện ra đuôi, bình địa gặp mãnh dược.

Nếu hỏi thái bình niên, dựng cầu nghinh tân chủ.

Thượng nguyên giáp tử đến, Người người ha ha tiếu.

Hỏi bạn cười cái gì? Nghinh tiếp tân địa chủ.

Trên quản đất ba tất, tối không nạn trộm cướp. Tuy là mưu vì chủ, chủ ngồi thổ trung ương.

Nhân dân gọi chân chủ, tiền bạc là cái bửu, nhìn thấu dùng không được, nếu thật là cái bửu, lòng đất nứt không ngã.

Bảy người nhứt lộ tẩu, dụ dỗ đã vào khẩu.

Ba chấm cộng một mốc (Chữ Hán ghép lại là chữ TÂM ),

Bát Vương nhị thập khẩu (Chữ Hán ghép lại thành chữ THIỆN ).

Người người đều hỷ cười, ai ai cũng bình an.


    Chú thích
Từ bài trên, có tiên đoán về Tứ Xuyên, các bạn thử đối chiếu với trận động đất kinh hoàng vừa rồi ( 12.5.2008 ).

Năm Rồng Rắn sắp tới là hai năm  2012 và 2013.

 

 

14. DỰ NGÔN CỦA LỊCH PHÁP MAYAN

Maya là nền văn minh cổ đặc sắc bên cạnh nền văn minh Andes, được xây dựng bởi người Maya, một bộ tộc thổ dân châu Mỹ từ năm 1.000 trước Công nguyên. Nền văn minh Maya đạt một trình độ cao không những về lĩnh vực xây dựng nhà nước mà còn phát triển rực rỡ cả lĩnh vực kiến trúc, toán học, thiên văn học và tính toán thời gian.

Những di tích khảo cổ học đã chứng minh người Maya đã phát triển khái niệm “số 0” vào năm 357, sớm hơn châu Âu khoảng gần 900 năm, xác định chính xác độ dài của một năm, thời gian trái đất quay hết một vòng quanh mặt trời, chính xác hơn rất nhiều lịch được châu Âu sử dụng vào thời đó. Không những thế, tôn giáo của người Maya cũng rất đặc biệt vì có sự kết hợp giữa lễ nghi với các chu kỳ của vũ trụ.

Cùng chung số phận với thành Troy và văn minh Harappa, hai thành phố Quirigua (Đông Guatemala ngày nay) và Benque Viejo, vốn là trung tâm văn hóa của người Maya trong thời kỳ đỉnh cao, đột ngột biến mất vào cuối thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên. Nhiều nhà sử học trên thế giới cho rằng sự biến mất này là hậu quả của những cuộc chiến liên miên, ban đầu là ngay trong bộ tộc của người Maya nhằm tranh giành quyền lực và sau đó là của người Maya chống lại sự xâm lăng của Tây Ban Nha. Nhưng kết quả nghiên cứu của nhà địa - vật lý Robert Kovach lại cho chúng ta một nguyên nhân hủy diệt khác: một trận động đất kinh hoàng. Những cơn giận dữ của hành tinh vốn là nguyên nhân của đổ nát nhưng đến nay, đây còn được xác định là nguyên nhân dẫn đến sự mất tích bí hiểm của nhiều nền văn minh trong lịch sử loài người.

            Căn cứ vào lịch Pháp dài của người Mayan (Long count calendar), ngày 21 tháng 12 năm 2012 sẽ là ngày nền văn minh nhân loại kỳ này kết thúc. Sau đó, nhân loại sẽ đi vào một nền văn minh mới.

Người Mayan không có đề cập đến nguyên do nào mà khiến nền văn minh kỳ này kết thúc. Có một điểm xem như rất rõ rệt là cái ngày kết thúc này không có ngụ ý xảy ra kiếp nạn lớn nào, mà là ám thị một thứ tỉnh giác và biến chuyển ở trong tinh thần và phương diện ý thức của nhân loại (Cosmic Awareness and Spiritual Transition). Từ đó mà đi vào nền văn minh mới. Vào năm 1521, người Tây Ban Nha xâm nhập chỉ được thành phố hoang vắng mà người Mayan đã bỏ rơi. Người Tây Ban Nha hủy hoại đại đa số văn tự ghi chép của người Mayan để lại, chỉ còn lại ba cuốn sách nên khiến người đời sau khó mà phiên dịch để hiểu rõ về văn hoá của họ. Người Mayan tuy sớm biến mất, nhưng đã để lại lịch Pháp, mà còn dự đo tính được mấy ngàn năm sau điểm chung kết của nền văn minh này: ngày 21 tháng 12 năm 2012.

Căn cứ vào lịch Pháp dài của người Mayan, ngày 21 tháng 12 năm 2012 là cái Baktun thứ mười ba của ngày cuối cùng, người Mayan đã ghi 13.0.0.0.0. Trưóc hết chúng tôi nên học tập một ít về phương pháp ghi số của người Mayan: Số ngày / Thuật ngữ

1 / KIN (ngày)

20 / UNIAL (con số then chốt quan trọng của lịch Pháp Mayan là 20)

360 / TUN

7200 / KATUN

144000 / BAKTUN

    Thí dụ: 6.19.19.0.0 tương đương 6 cái Baktun, 19 cái Katun, 19 cái Tun, 0 cái Unial, 0 cái Kin, tính toán ra là bằng ( 6 x 144000 ) + ( 19 x 7200 ) + ( 19 x 360 ) = 1.007.640 ngày.

13.0.0.0.0 = 13 x 144000 = 1.872.000 ngày, tính ra là 5125.26 năm.

    Căn cứ vào sự tính toán của Eric S.Thomson, 0.0.0.0.0. của người Mayan tương đương với thứ 584283 ngày của Julian, tức là ngày 11 tháng 8 năm 3114 trước Công nguyên.

13.0.0.0.0 thì là cái ngày sau 5125 năm, tức là Công nguyên ngày 21tháng 12 năm 2012.

Người Mayan là Đại Sư quan sát thiên thể (Skywatchers), những học giả nghiên cứu văn hóa Mayan đã kỹ lưỡng nghiên cứu thiên tượng sẽ xuất hiện vào ngày 21 tháng 12 năm 2012,  hiểu rõ ràng tại sao người Mayan đã đem ngày này đặt là ngày chung kết của nền văn minh này. Đó là ngày Đông chí (Winter Solstice). Đây là ngày mặt trời sẽ hoàn toàn trùng hợp với giao điểm mà hình thành bởi Hoàng Đạo (Ecliptic) và Xích Đạo (Equator) của Hệ Ngân Hà.

    Một vị Mayan đã dự đoán: nhân loại phải xảy ra hai sự việc trọng đại:

-         Sự tỉnh giác ý thức vũ trụ của nhân loại.

-         Tịnh hóa và tái sinh địa cầu.

    Trên thực tế, người Mayan đã đem hai mươi năm cuối cùng của cái Baktun thứ mười ba (cuối cùng nhất của cái Unial, tức là năm 1992 đến năm 2012) gọi là địa cầu tái sinh hoặc thời kỳ tịnh hóa

                             (Earth Regeneration or Earth Purification Period).

Thật ra, trong sinh hoạt hằng ngày chúng ta thường xuyên có thể thấy được sự nhắc nhở đối với tương lai, chỉ tại con người không quan tâm đến. Chúng ta thường sử dụng mỗi ngày tờ giấy bạc một đô la ở mặt sau cũng có một dự ngôn giống nhau. Trên đó có một ấn chương (seal) là hình Kim Tự Tháp, Kim tự Tháp này có 13 tầng, trên ngọn cuối của tầng 13 Kim Tự Tháp có một tuệ nhãn tỏa ra ánh sáng rực rỡ, ở đây đã dự báo sự tỉnh giác của nhân loại sau khi đi hết 13 cái Baktun.

                               Nghĩa của hàng chữ trên ấn chương như sau:

ANNUITE COEPTIS: Thần đang quan tâm đến những gì chúng ta đã làm;

NOVUS ORDO SECLORUM: Thứ tự mới của Tân Thế Kỷ.

Hiện giờ chúng ta sinh hoạt ở thời đại tôn sùng vật chất, đa số người thời nay chỉ chủ yếu quan tâm đến tiền bạc, dục vọng, hưởng lạc, thành tựu, quyền lực và địa vị. Do vậy mà dẫn đến băng hoại của thế giới tinh thần. Con người  trở nên quen thuộc với sự  tầm thường, với tà ác, tàn bạo, chiến tranh, thiên tai, ôn dịch, nghèo đói, chủ nghĩa khủng bố…và bị hiện tượng hỗn loạn của xã hội dần dần làm tê liệt. Rất ít người có thể ý thức được nhân loại xã hội đã và đang đi tới con đường tự hủy diệt.

        Với xã hội ham muốn  vật chất đến vậy thì lực lượng nào có thể tịnh hóa địa cầu được? Thứ lực lượng khiến Đạo đức của nhân loại thăng lên trở về chỉ có thể đến từ tỉnh giác của nhân loại, cũng có thể nói nhân loại cần phải phản tỉnh, tu tâm sửa tánh..

        Mấy ngàn năm trước người Mayan đã căn cứ vào thiên tượng mà ghi ra dự ngôn, con người tỉnh giác sẽ phải hoàn thành sứ mạng thần thánh “tịnh hóa địa cầu”.

        Vào ngày 21 tháng 12 năm 2012, nhân loại sẽ đi hướng về nền văn minh hoàn toàn mới.

 Liên Thanh Sưu Tập

Ý kiến bạn đọc (0)

Ảnh Đẹp

Có Sắc Không Hương

Một ngày kia, nữ hoàng Shaba gởi đến vua Solomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu.Đó...