-1000x500.jpg)
Một buổi đàn cơ được lập với các thành phần chính như : một pháp đàn để
làm phép trấn đàn và trợ điển, một hay hai đồng tử thủ cơ hoặc chấp bút,
một độc giả để đọc chữ được viết ra, một vài điển ký để ghi chép lại và
một vị chứng đàn cùng những người có phận sự.
Cách thức lập đàn cơ như sau : đàn cơ lập tại Bửu điện thờ Đức Chí Tôn.
Lễ phẩm được sắp đặt trang nghiêm gồm: hoa tươi, quả tử, trà, rượu,
nhang, đèn, lư trầm xông hương để khử ô uế. Sau khi nhập đàn, chức sắc
Hiệp Thiên Đài thực hiện nghi lễ trước Thiên bàn. Vị chức sắc cao cấp
Hiệp Thiên Đài trấn thần đàn cơ để ngăn ngừa các luồng tà điển xâm nhập,
hai đồng tử cầm Ngọc cơ ngồi đối diện nhau trước Thiên bàn (trường hợp
có một đồng tử sẽ ngồi đối diện Thiên bàn), độc giả quỳ hoặc đứng cạnh
đồng tử để đọc chữ do đồng tử viết trên mặt bàn (trường hợp đồng tử xuất
khẩu thì không cần độc giả), điển ký ghi lại nội dung buổi cầu cơ. Buổi
đàn cơ phải thanh tịnh, thành kính, nghi lễ đầy đủ. Trước tiên, đồng
nhi hoặc chư vị hầu đàn đọc một trong hai bài Kinh Cầu Tiên như sau :
Bài cầu Tiên
Trời còn sông biển đều còn,
Khắp xem cõi dưới núi non đượm nhuần.
Thanh minh trong tiết vườn Xuân,
Phụng chầu hạc múa gà rừng gáy reo.
Đường đi trên núi dưới đèo,
Lặng tìm cao thấp ải trèo chông gai.
Phận làm con thảo há nài,
Biết phương Tiên Phật Bồng Lai mà tìm.
Xem qua xét lại cổ kim,
Một bầu Trời Đất thanh liêm chín mười.
Vàng trau ngọc chuốt càng tươi,
Bền lòng theo Phật cho người xét suy.
Thần Tiên vốn chẳng xa chi,
Có lòng chiêm ngưỡng tức thì giáng linh.
Bài cầu Tiên
Kìa là chốn bồng lai thanh tịnh,
Cảnh thiên nhiên ca vịnh phú thi,
Định thần hồn xuất vân phi,
Vững lòng đừng tưởng lo chi cuộc trần.
Vậy mới gọi chơn thần xuất hết,
Vậy mới rằng hồn biết nghe lời,
Thành tâm tiếp điển cõi trời,
Vâng theo câu kệ khuyến đời thành tâm.
Hương tốc đốt khói trầm thanh khiết,
Cho hồn linh thẳng riết cung Tiên,
Nghe kêu khá trở về liền,
Cõi trần chưa mãn dạ thiền lo tu.
Họa Tam Thiên linh phù tiếp điển,
Xin Tiên đồng mau chuyển thần cơ,
Đêm thanh rành rạnh như tờ,
Khâm thừa ngọc sắc kịp giờ lai cơ.
Khi có đấng thiêng liêng giáng đàn, cơ chuyển động quay nhịp nhàng trên
không trung, các vị hầu đàn đọc bài Mừng Tiên (hay còn được gọi với tên
khác là “Mừng thay”).
Bài mừng Tiên
Mừng thay chi xiết nỗi mừng,
Hào quang chiếu diệu ngàn từng không trung.
Hạc reo bay khắp dạo cùng,
Càn khôn thế giới cũng chung một bầu.
Môn sanh thành kỉnh chực hầu,
Tửu trà hoa quả mừng cầu Tiên Ông.
Nhang thơm tốc đốt nực nồng,
Đèn lòa ngọn lửa tợ rồng phun châu.
Kết thúc buổi đàn cơ, các vị hầu đàn vái lạy tạ ơn các đấng giáng đàn
ban pháp. Trước khi bãi đàn, điển ký đọc lại thánh giáo cho quí vị hầu
đàn cùng nghe lại. Những lời dạy qua các đàn cơ đều sử dụng văn xuôi xen
kẽ văn vần được gọi là thi văn dạy đạo (thánh ngôn, thánh thi)
Về hình thức thể hiện; điều đầu tiên cần đề cập đến đó là sự phong phú về thể loại của thơ văn giáng bút, chi tiết như sau:
THỂ LOẠI
SỐ LẦN XUẤT HIỆN
Lục bát
34
Song thất lục bát
105
Ngâm
40
Động đình ngâm khúc
1
Xướng họa thi
1
Văn ca trù
1
Trường thiên
27
Phú
12
Kệ
8
Thi ca liên hành – Diễn ca
4
Trường dạ chức y – Hồi thủ điệp khúc
1
Cửu khúc liên hoàn
1
Gián vận liên khúc
1
Tản văn và Tứ tuyệt/ Bát cú Luôn có trong mỗi bài
Thứ đến, chúng tôi nhận thấy cấu trúc dạng hoàn chỉnh của một phần thơ giáng bút trong đạo Cao Đài thường có hai nội dung :
BÁO ĐÀN
Xưng danh của người đệ tử hầu cận Đấng giáng trần (thường bằng thơ)
Lời chào (văn xuôi)
TIẾP ĐIỂN
Xưng danh của Đấng giáng trần ban Thánh giáo (thường bằng thơ)
Lời chào (văn xuôi)
Lời dạy (bằng văn xuôi và trùng tụng bằng thơ)
Lời chào từ biệt – Thăng
Trong đó, phần được chúng tôi quan tâm kĩ là Lời dạy, nhưng điều đặc
biệt cần lưu ý là phần Xưng danh khá độc đáo với hiện tượng các Đấng
thiêng liêng và người hầu cận thường báo tên của mình với chức sắc, tín
đồ thông qua việc ghép chữ từ trong bài thơ (chiết tự). Chúng tôi đã
khảo sát được có đến 132 trường hợp như vậy trên tổng số 273 bài.
Chẳng hạn khi Đức Chí Tôn giáng bút, ngài sẽ báo danh bằng thơ như sau :
“Tâm sẵn NGỌC Minh há kiếm ngoài,
Chuyển luân HOÀNG đạo hiện Cao Đài;
Chơn truyền THƯỢNG hạ ban từ thử,
Sự nghiệp ĐẾ Thiên đã định bày.”
(1970)
Hoặc Đức Quan Âm Bồ Tát trong một lần giáng bút đã báo danh :
Thường đến hồng trần độ chúng sanh,
Cư mà chẳng nhiễm chốn hư danh;
Nam san giả khách khuyên người dữ,
Bắc Hải hóa nhơn giúp kẻ lành.
Quan tước ngàn phen tâm chẳng lụy,
Phúc Âm muôn kiếp chí lo hành;
Như không hữu tận vô cùng nguyện,
Lai vãng dìu đời lại cõi thanh.”
(1965)
Đôi khi người đệ tử hầu cận và Đấng giáng phàm cùng có những bài thơ để
báo hiệu sự xuất hiện của mình, như những trường hợp sau:
Kim Quang Đồng Tử đi liền với Đức Đông Phương Chưởng Quản :
“Kim ngân mã não nhứt thời gian,
Quang tước vinh hoa giả mộng tràng;
Đồng đẳng nhứt tâm qui chánh lộ,
Tử tôn do thử bộ nhiên khoan.
Tiểu Thánh vâng lịnh báo đàn, vậy chư Thiên mạng thành tâm tiếp điển Đức
Đông Phương Chưởng Quản, Tiểu Thánh chào, xin xuất ngoại hộ đàn, thăng.
Tiếp điển:
THI
Đông độ thương người chốn biển mê,
Phương chi giác ngộ dẫn đem về;
Chưởng đèn chơn lý soi đường lối,
Bao Quản thăng trầm khen với chê.”
(1965)
Thành Hoàng Bổn Cảnh địa phương nơi lập đàn gắn với Đức Tả Quân :
“Thành lòng tầm lối thoát mê tân,
Hoàng vũ điêu linh khắp phú bần;
Bổn mạc nếu không gìn chín chắn,
Cảnh trần lạc nẻo khó yên thân.
Ta chào chư Thiên mạng lưỡng đài, chào chư liệt vị nam nữ. Bổn Thần được
lịnh báo đàn, vậy chư vị thành tâm nghinh tiếp Đức Lê Đại Tiên, Bổn
Thần xin xuất ngoại ứng hầu.
Tiếp điển:
THI
Lê dân chen chúc cảnh lầm than,
Văn sĩ tài nhân khéo ngỡ ngàng;
Duyệt lại sổ đời trong quá khứ,
Lửa Thiên chưa dịu chí ngang tàng.
Hồng trần lặn hụp vòng tai ách,
Đại Đạo hoằng dương cứu khổ nàn;
Tiên tục phải đâu xa vạn dặm,
Giáng cơ gởi gắm tấc can tràng.”
(1965)
Thể Liên Tiên Nữ báo hiệu sự giáng lâm của Đức Diêu Trì Kim Mẫu :
Tập Thể phổ thông mối Đạo Thầy,
Kết Liên Giáo lý của Đông Tây;
Tục Tiên khác bởi thanh cùng trược,
Nam Nữ chắc gì ai dở hay.
Chị mừng các em đàn trung. Các em hãy thành tâm tiếp điển Đức Mẹ, Chị xuất ngoại ứng hầu.
Tiếp điển:
THI
Diêu Trì Kim Mẫu Mẹ lai cơ,
Vô Cực Từ Tôn gọi trẻ khờ;
Hợp sức chống chèo thoàn Đại Đạo,
Hầu đưa khách tục khỏi bơ vơ.”
(1965)
Đặc biệt, chúng tôi còn nhận thấy một số trường hợp độc đáo. Chẳng hạn
như bài giáng bút số 27 năm 1974, nếu sử dụng cách thức lục chuyển
thất trùng bát tiếp khoán thủ, từ mười bốn vế thi bài ở phần lời dạy của
các Đấng thiêng liêng ở trên, chúng ta sẽ có được bài thơ lục bát xưng
danh của các vị khi cùng giáng đàn dạy đạo.
Việt Nam Thánh Nữ Trưng Vương,
Liên Hoa Thánh Nữ mở đường khai thông;
Vân Hương Thánh Mẫu hội đồng,
Lê Sơn Thánh Mẫu cứu vòng nạn tai.
Quan Âm Nam Hải Như Lai,
Giáng cơ độ thế rộng khai pháp quyền;
Đàn trung ai hỡi thiện duyên,
Lóng nghe bí pháp mật truyền nơi tâm.
Cũng trong năm 1974, khi giáng đàn ban Thánh giáo, Đấng thiêng liêng
không xưng danh mà cho bài thơ gồm 23 khổ thất ngôn bát cú cùng với câu
lục bát mang ý thách đố khá thú vị để môn đệ trong đàn tìm ra mình
là ai :
“Lão đề một bức tâm thơ
Ai người chiết tự nên trò Phật Tiên”
Nếu chúng ta chiết khoán thủ từng câu kết hợp lại thì được 3 khổ thơ thất ngôn và 2 câu cuối như sau:
Lên đường phụng sự quốc dân,
Anh hùng đâu chẳng đem thân giúp đời.
Van xin một tấm lòng người,
Sắc thân huyền nhiệm theo Trời hướng lên.
Duyên xưa cùng Phật Thánh Tiên,
Anh đi đi mãi cõi Thiên … (mịt mờ)
Mịt mờ bến giác sông mê,
Nặng mang nghiệp lực tái tê đường trần.
Đai cân nặng nợ quốc dân,
Tiến trình bảo đảm sắc thân được nào;
Sớm tu thoát chốn trần lao,
Non nhân cảnh trí động đào siêu sanh.
Mấy dòng gởi bạn tài danh,
Bàn thơ chiết tự thì rành Lão ai ?
Trong bài thơ chiết tự bằng tiếng Việt, nét đẹp độc đáo ấy lung linh
huyền diệu khi trong thủ pháp chiết tự ẩn thêm một lần chiết tự nữa ta
sẽ biết tác giả của bài Thánh thi này là ai.
Lên đường phụng sự quốc dân,
Anh hùng đâu chẳng đem thân giúp đời.
Lên mà chẳng có anh (n) thì là Lê
Van xin một tấm lòng người,
Sắc thân huyền nhiệm theo Trời hướng lên.
Van thêm dấu sắc - huyền hướng lên \ / thì thành là Văn.
Duyên xưa cùng Phật Thánh Tiên,
Anh đi đi mãi cõi Thiên … (mịt mờ)
Mịt mờ bến giác sông mê,
Nặng mang nghiệp lực tái tê đường trần.
Duyên mà anh (n) đi thì còn duyê, mà lại nặng (.) và tê (t) thì thành Duyệt.
Đai cân nặng nợ quốc dân,
Tiến trình bảo đảm sắc thân được nào
Đai mà nặng (.) thì thành Đại.
Tiến mà không sắc (/) thì là Tiên.
Vậy tác giả bài thơ giáng bút này chính là Đức Tả quân - Lê Văn Duyệt Đại Tiên.
Qua bài thơ này, ta rất dễ dàng cảm thụ ý nghĩa bài thơ một cách đơn
giản, nhưng nhìn nhận ở một góc độ tu từ học sẽ khám phá thêm được giá
trị độc đáo, nét đẹp văn hóa qua thủ pháp chiết tự thơ ẩn trong thơ :
trong bài thơ chiết tự lại cho ra một bài thơ, trong bài thơ mới này
chiết tự lại cho ra tên tác giả.
Nguyên lý thông công :
Trời người hiệp nhứt." Thủ cơ hay là chấp bút phải để cho thần, tâm tịnh mới xuất Chơn Thần ra khỏi phách, đặng đến hầu Thầy nghe dạy.
" Khi chấp thủ thì tay tuân theo Chơn Thần nói lại mà viết ra, mường tượng như con đặt để, con hiểu đặng vậy…"
" Ấy là một phần của con, một phần của Thầy hiệp nhứt, mới thấu đáo càn khôn, tinh thông vạn vật đặng."
- Những điều kiện nghiêm khắc về sự thông công.
" Trước khi thủ cơ hay là chấp bút, thì phải thay y phục cho sạnh sẽ, trang hoàng, tắm gội cho tinh khiết, rồi mới đặng đến trước bửu điện mà hành sự chớ nên thiếu sót mà thất lễ. Nếu chấp cơ thì phải để cho ý thanh bạch, không đặng tưởng đến việc phàm. Tay chấp cơ cũng phải xông hương khử trược, tịnh tâm một lát, rồi phải để tinh thần tinh tấn mà xuất ngoại xác đến hầu dạy việc, phải có một chơn linh tinh tấn mới mầu nhiệm, huyền diệu, phải trường trai mới đặng linh hồn tinh tấn, phải tập tành chí Thánh, Tiên, Phật mới phò cơ dạy Đạo cả chúng sanh. Kẻ phò cơ, chấp bút cũng như Tướng Soái của Thầy để truyền Đạo cho thiên hạ. Các con đừng tưởng việc bút cơ là việc tầm thường.Vậy khi nào chấp cơ thì phải đợi lịnh Thầy rồi sẽ thi hành."
Những phương pháp thông công.
a./ Thủ cơ :
" Như chấp cơ mà mê, thì Chơn Thần ra trọn vẹn khỏi xác. Thầy mới dạy cho nó viết ra chữ chi đó, nó đồ theo, Thầy nói tên chữ, xác nó cầm cơ viết ra, người đọc trật chữ nó nghe đặng, không chịu, Thầy buộc viết lại và rầy kẻ đọc trật ấy."
b./ Chấp bút.
" Còn chấp bút, khi Thầy đến thì làm cho Thần con bất định một lát, cho Thần xuất ra nghe Thầy dạy còn tay con tuân theo mà viết. . .Còn việc truyền Thần lấy điển quang thì ai cũng có điển trong mình, nó tiếp điển ngoài rồi Thần nó viết ra, có khi trúng có khi trật".
c./ Nhập xác
" Chơn Thần của các con gặp tà khí thì khó chịu nên xin Thầy xuống điển nhiều đặng ngăn tà mị, một đôi khi phải nhập xác vì điển xuống nhiều. Cũng một lẽ ấy, mà mỗi lần lập thệ đều có nhập xác"
Sự tai hại về việc lạm dụng thông công.
a./ Lời dạy Đức Chí Tôn.
" Buổi Bạch Ngọc Kinh và Lôi Âm Tự lập pháp "Tam Kỳ Phổ Độ", quỉ vương
đã khởi phá khuấy chơn Đạo. Đến danh Ta nó còn mượn, duy ngai Ta nó
chẳng dám ngồi mà thôi.
Lại còn hiểu rõ rằng Ta đến với huyền diệu nầy *
mượn cơ mầu nhiệm, hiệp Tam Thập Lục Động đổi gọi Tam Thập Lục Thiên.
Các tên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật bị mạo nhận mà lập nên tả Đạo".
~~~~~~~~
* huyền diệu nầy chỉ về sự thông công
b./ Lời dạy của Thất Nương Diêu Trì Cung
"… Nhất là về việc Diêu Trì Cung bị mượn danh nơi khác mà dối gạt nhơn sanh. Cái hại ấy vốn chẳng vừa về phần tín ngưỡng. Chớ chi thất tại tà quyền thì có mấy em trừ khử, nhưng tại nơi đồng tử thì mấy em không phương giải nạn cho mấy người mê tín".
Thuận Phong tổng hợp và biên tập
Ý kiến bạn đọc (1)
Phan thị hạnh - 09:08 AM 18/03/2020 Vi phạm