Mục
sư Stainton Moses lui về ẩn dật tại núi Athos trong 6 tháng, trong
khoảng thời gian nầy, ông nghiên cứu Thần học và đối chiếu các lý thuyết
trái nghịch nhau. Việc làm tuyệt vời nầy đem lại cho tâm trí ông, từ
chỗ thiên về khuôn phép, giáo điều, không khoan dung, đến chỗ khiêm tốn
hơn, minh triết và chơn thực. Sau đó, ông được bổ nhiệm đến ở trong một
ngôi nhà nhỏ của Mục sư thuộc đảo Man. Nơi đây, các thú nhàn rỗi không
thiếu : cảnh thiên nhiên, đọc sách, cầu nguyện, thiền định, trầm tư mặc
tưởng về thần bí, làm cho ông thành một nhà giảng đạo rất thương tâm :
Đấng Thượng Đế đã nắm chặt lấy ông và xem chừng như không buông thả ông,
như xưa kia ma quỉ không buông thả Socrate. Thượng Đế dẫn Mục sư
Stainton Moses đến trường đại học Oxford, biến ông thành một trong những
công cụ quí báu nhứt của “Tân Thiên khải”, một trong những đồng tử
linh cảm nhất trong thế kỷ của chúng ta.
Chính cũng trong cảnh cô tịch, yên tĩnh, ẩn dật mặc tưởng mà Đấng Cao Đài tìm thấy người tín đồ đầu tiên của Ngài. Chẳng có đền thờ nào đẹp hơn thiên nhiên, chẳng cóquyển
sách nào thiêng liêng hơn quyển sách đời : Đức Jésus lui về vườn
Gethsémani cũng tại sa mạc; Thánh François d’Assise nói về Thần mưa,
Thần gió, về những ngôi sao im lặng, về những con chim én lắm lời và sờ
bàn tay lên mõm của con chó sói Gubbio rồi dắt nó về nơi Ngài như dắt
một con chó hiền từ ngoan ngoãn. Nhà tự nhiên học Thụy điển Bengt Berg
có thể làm cho con Lahol, một con chim rất nhát ở miền Laponie, đẻ trứng
và ở trong lòng bàn tay của ông. (Mon ami le pluvier, Stock). Nơi nào Thánh nhân cư ngụ, đất chỗ đó là Thánh địa và thiên nhiên là huyền bí.
Người tín đồ Cao Đài đầu tiên
Đạo
Cao Đài được thành lập chánh thức từ năm Bính Dần (1926), nhưng từ 6
năm trước đã có một người thờ phụng Đấng Cao Đài : đó là ông Đốc Phủ Ngô
Văn Chiêu, sau đó ông tòng sự tại Phòng nhì của Phủ Thống đốc Nam Kỳ.
Là
Quận Trưởng hành chánh vào năm 1919 tại Phú Quốc (một hòn đảo trong
vịnh Thái Lan), Ngài Ngô Văn Chiêu sống cuộc đời hiền đức theo đúng
điều luật chặt chẽ của Lão giáo. Trong địa phương hẻo lánh ấy lại thích
hợp với đời sống tu hành, thỉnh thoảng nhờ những đồng tử nhỏ tuổi, từ 12
đến 15 tuổi, ông Phủ Chiêu tổ chức các đàn cơ Cầu Tiên, nhận được những
lời giáo huấn cần thiết cho sự tiến hóa tâm linh. Trong số những Đấng
tiếp xúc được, có một Đấng tự xưng là “Cao Đài”, quan tâm đặc biệt đến
ông Phủ Chiêu.
Lúc
đầu, cái tên ấy làm kinh ngạc những người hiện diện, bởi vì không có
một quyển sách tôn giáo nào ghi chép việc nầy. Tuy nhiên, ông Phủ Chiêu
mà sự mẫn tiệp của ông làm cho bạn bè ngưỡng mộ, nhận ra rằng đó là biệt
danh của Thượng Đế, vì bởi những khải thị và những giáo huấn triết lý
ở trình độ cao mà ông đã lãnh hội được nhiều lần.
Ông
Phủ Chiêu xin phép Đấng Cao Đài cho ông được phụng thờ Ngài dưới một
hình thức xác thực và ông được lịnh tượng trưng Ngài bằng một con Mắt
làm biểu hiệu.
Đó chính là sự nhập môn của người tín đồ Cao Đài đầu tiên vào tôn giáo mới và tôn giáo nầy 6 năm sau được lập nên ở Sài Gòn.
Chẳng
bao lâu sau, ông Phủ Chiêu được đổi về thủ đô Sài Gòn, nơi đây, ông
thuyết phục được vài người tin theo đạo mới và gia nhập đạo.
Nhưng,
chúng ta hãy tạm rời những người nhập đạo mới đầu tiên ấy trong giây
lát để chỉ cho độc giả biết cách thức mà Đấng Cao Đài tuyển mộ các đồng
tử.
Vào
giữa năm Ất Sửu (1925), một nhóm nhỏ các thơ ký người Việt Nam thuộc
nhiều nghiệp vụ hành chánh khác nhau tại Sài Gòn, tiêu khiển vào mỗi
buổi tối bằng việc thông công với người vô hình theo lối Thần linh học.
Họ dùng cái “bàn gõ” (table frappante). Những thử nghiệm đầu tiên không
kết quả. Nhưng với sức nhẫn nại và kiên trì, họ đạt được những kết quả
tích cực.
Với
những câu hỏi đặt ra cho các Đấng chơn linh, hoặc bằng thơ, hoặc bằng
văn xuôi, họ nhận được những câu trả lời đáng kinh ngạc. Cha mẹ hay bạn
bè quá cố của họ hiển linh để nói với họ những việc gia đình và đồng
thời khuyên họ hy sinh quên mình. Những phát hiện xúc động ấy giúp họ
nhận biết sự hiện hữu của thế giới huyền bí.
Tuy
vậy, có một Đấng thiêng liêng thông công được rất đáng chú ý vì sự ân
cần của Ngài và những điều giáo hóa của Ngài về đạo đức và triết lý ở
một mức độ rất cao. Đấng ấy ký dưới tên giả là “A à ”, không muốn cho
biết về Ngài, mặc dầu có những lời cầu nguyện của những người tham dự.
Sau
đó, những ông thơ ký Việt Nam khác đến tham gia làm đông đảo thêm nhóm
xây bàn tài tử. Những đàn Cầu Tiên được tổ chức nghiêm túc hơn và đều
đặn hơn.
Vì
việc dùng cái “bàn gõ” không tiện lợi, nên một Đấng thiêng liêng bảo
phải thay thế bằng “Ngọc cơ”. Với Ngọc cơ, các Đấng có thể viết chữ trực
tiếp, việc thông công tự nhiên được nhanh hơn và các đồng tử phò cơ đỡ
mệt hơn.
Ngày
24-12-1925, nhân dịp Lễ Noel, Đấng thiêng liêng dẫn dắt bấy lâu nay,
vẫn khăng khăng giữ nặc danh, nay tiết lộ với các vị phò cơ, Ngài là
Đấng Thượng Đế đến dưới tên gọi là Cao Đài để truyền dạy chơn lý tại
nước Việt Nam.
Diễn tả bằng tiếng Việt Nam, Ngài nói đại ý như sau :
“
Hãy vui hưởng ngày lễ nầy. Đây là lễ kỷ niệm ngày Ta đến Âu châu để dạy
đạo. Ta rất vui lòng gặp các con, những tín đồ đầy lòng kính trọng và
yêu mến Ta. Ngôi nhà nầy của một trong các vị phò cơ sẽ có tất cả ơn
phước của Ta. Những biểu hiện Toàn Năng của Ta sẽ khiến các con còn kính
mến Ta hơn nữa.”
Từ đó, Đấng Cao Đài truyền thụ nền Tân giáo lý cho các tín đồ.
Đây chính là sự tuyển chọn các đồng từ đầu tiên có phận sự tiếp nhận các Thánh Ngôn (thông điệp thiêng liêng).
Về
ông Phủ Chiêu, người tín đồ Cao Đài đầu tiên, tạp chí La Revue
Caodaiste (số 22 tháng 3 năm 1933), nhân dịp ông từ trần, cho chúng ta
biết vài chi tiết.
I. Thời thơ ấu : Ông
Phủ Ngô Văn Chiêu chào đời ngày 28-2-1878 tại Bình Tây (Chợ Lớn) trong
một ngôi nhà nhỏ ở phía sau chùa Quan Đế. Ngay khi sanh ra, cậu bé từ
chối bú sữa mẹ, nên phải thay sữa mẹ bằng nước cháo.
Cha mẹ của cậu rất nghèo, sau đó dọn nhà về Mỹ Tho và giao cậu cho người cô để được cô gởi cậu đi học.
Vốn
rất thông minh, ở tuổi 12, cậu đã dám đến gặp quan Chủ Tỉnh Mỹ Tho để
xin học bổng và được chấp thuận. Cậu được nhận vào học sinh nội trú có
học bổng bậc tiểu học, rồi trung học tại Collège Mỹ Tho. Cậu đã hăng
hái làm việc và đã trúng tuyển kỳ thi tuyển Thư ký Hành chánh. Thời bấy
giờ, việc làm nầy là điều mơ ước của những học sinh có bằng cấp Thành
Chung. Ở tuổi 21, người thanh niên ấy vì không có điều kiện học xa hơn
nữa, nên bằng lòng bước vào cuộc đời công chức để giúp đỡ cha mẹ.
II. Cuộc sống công chức và Thiên chức tôn giáo :
Người
công chức ấy (ông Chiêu) khởi đầu được bổ dụng vào Sở Di Trú tại Sài
Gòn, làm việc trải qua 3 năm từ 1899 đến 1902. Vốn là người có khuynh
hướng tôn giáo, ông thích kể chuyện các vị Thánh và những chuyện mạo
hiểm của các vị Tiên ở nước Trung hoa thời cổ, mà ông được bè bạn người
Tàu kể cho nghe trong thời gian ở nhà người cô, có chồng là người Tàu.
Một hôm, một người bạn gặp ông đang kể chuyện các vị Thánh cho các học
trò Tàu ở Chợ Lớn mà ông thường đến dạy kèm vào buổi tối.
Ông
rất tôn kính các bậc Thần Thánh. Tại nhà của ông, ông lập bàn thờ Đức
Quan Thánh Đế Quân và thường tụng kinh Minh Thánh, quyển kinh mà chơn
linh Quan Thánh nhập vào một người có đạo đức cao viết nên và ông đã ăn
chay 2 ngày mỗi tháng.
Vào
năm 1902, nơi đàn cầu cơ lập ra ở Thủ Dầu Một, ông đến hầu đàn, một vị
Đại Tiên giáng đàn tiết lộ cho ông biết sứ mệnh tôn giáo và khuyến khích
ông sớm theo Đạo.
Nếu chúng ta tham khảo tạp chí “Ấn Độ tranh ảnh”
có loạt bài đề cập tới những biểu hiện khác nhau về tôn giáo tại Ấn Độ
thuộc Anh, tại Thái Lan, Trung hoa, Nhựt bổn và Phi Luật Tân, vv . . . ,
chúng ta thấy trong tạp chí số 2 tháng 3 năm 1933, một khảo cứu về Đạo
Cao Đài ở Nam Kỳ. Chúng ta đọc qua đề tài về nguồn gốc của tôn giáo ấy :
“ Mới đây (1929), Đạo Cao Đài đã phổ biến nhanh chóng và lan rộng khắp Nam Kỳ
Nguồn gốc : Đầu
năm 1926, một vài trí thức trẻ người Việt Nam, tất cả đều là tín đồ
Phật giáo, tụ họp trong một căn nhà nhỏ tại trung tâm Sài Gòn. Họ thường
xây bàn để thí nghiệm về Thần linh học.
Sau
giai đoạn dò dẫm, họ hoàn thành và nói rằng họ đạt được những kết quả
đáng kinh ngạc khi dùng những người bạn có khả năng tiếp điển mạnh mẽ.
Khởi
đầu trong việc giao tiếp thiêng liêng, một trong những vị Tiên của
Trung hoa cổ là Lý Thái Bạch, Homère của Trung hoa, người đã canh tân
văn học Trung quốc vào triều đại thứ 13 nhà Đường (713 - 742) và là một
tín đồ Lão giáo nhiệt thành.
Như thế, một lần nữa, chúng tôi đã chứng minh được tiểu đề : Đạo Cao Đài hay Thần linh học Việt Nam.
Nhân chứng người Pháp
Đó là ông Jean Ross, cộng tác viên của báo “Le colon français” ở Hải Phòng, viết về nguồn gốc của Đạo Cao Đài :
“ Năm 1926 ! Chúng tôi đang ở vào đầu năm.
Trong
vài ngày nữa là đến Tết Việt Nam. Cách chợ trung tâm không xa, trên con
đường thẳng góc với đại lộ nối liền Sài Gòn - Chợ Lớn, một dãy phố có
vẻ đơn sơ là nơi ở của phần đông các công chức thuộc cơ quan hành chánh
lớn và các công ty. Tại một trong những căn phố đó, từ nhiều tháng nay,
những thơ ký trẻ của sở thuế, sở công chánh, sở hỏa xa, của công ty, . .
. (ở xa nên không ghi rõ), tụ họp nhau vào buổi tối sau giờ làm việc ở
sở, giải trí với nhau bằng cách
Xây bàn, làm cho cái bàn nói được.
Họ là những tín đồ Phật giáo tất cả (1).
Họ bắt đầu như thế nào ? Một trong những người ấy đã nghe nói về Thần
linh học, về Xây bàn trong sở làm việc, nơi mà một trong những ông sếp
của ông ta, gốc Nam Kỳ, là một tín đồ Thần linh học xác tín, đại diện
của Hội Thần linh học quan trọng nhứt của nước Pháp. Ông ta nói lại cho
nhiều bạn nghe và một ngày đẹp trời, bốn người bạn ấy ngồi vây quanh một
cái bàn.
“
Cứ thử xem có được không ? Có thật không ? Họ đã bảo nhau như thế.
Những kết quả buổi đầu luôn luôn không sáng sủa, nhưng dần dần họ loại
bỏ những người không có khả năng tiếp điển thiêng liêng và thay vào đó
là những bạn có thiên tư hơn, họ ghi nhận được những kết quả kỳ diệu.
Họ
đặt những câu hỏi cho cái bàn và họ đều nhận được câu trả lời. Họ hỏi
rằng có phải họ giao tiếp được với Thần linh ? Câu trả lời khẳng định
là : đúng.
Chuyện
trở nên nghiêm túc. Mỗi lần thí nghiệm, họ hỏi danh hiệu của vị Thần
linh giáng bàn nói chuyện với họ. thường là những vị Thánh hiền thời cổ
Trung hoa như Lý Thái Bạch hay Quan Thánh Đế Quân, đôi khi là một Đấng
vô danh. Việc làm lúc đầu chỉ là một trò giải trí với chủ nghĩa thần bí
vốn rất quen thuộc với tâm hồn người Việt Nam, về sau trở thành cuộc nói
chuyện có tính đặc ân với các Đấng Thần linh thượng đẳng của thế giới huyền bí mà họ cầu xin những lời khuyên bảo.
Không hề có một nghi ngờ nào về tính cách chơn thật của các cuộc nói chuyện đó, trước hết vì tất cả những người
________________________________________________________
Chú thích của dịch giả :
(1) Đính chánh : Nhóm xây bàn đó có 4 ông : Phạm Công Tắc theo Công
giáo, 3 ông : Cao Quỳnh Cư, Cao Quỳnh Diêu và Cao Hoài Sang thì chưa có
tín ngưỡng tôn giáo.
tham
dự đều cùng xuất phát từ một điểm khởi hành, họ không thể nghi ngờ trò
lừa bịp của một ai trong bọn họ, kế đó, vì sự thông linh với thế giới
huyền bí làm họ phát hiện được những sự nâng cao tình cảm, những kiến
thức khoa học và triết học sâu sắc mà không một ai trong bọn họ có thể
là tác giả.
Nhưng
việc sử dụng cái bàn xây để trao đổi với thế giới vô hình, thật sự
không được tiện lợi ! Phải mất nhiều thời gian mới nhận được một câu
trả lời.
Chính
vào thời kỳ mà tôi nói (tác giả G. Gobron), nghĩa là trước Tết Bính Dần
(1926), họ thố lộ tâm tình với Thần linh mà họ tiếp xúc. Vị ấy trả lời
là nên dùng Ngọc cơ.
Họ
thỉnh cầu chỉ dẫn Ngọc cơ gồm có những gì ? (Những người nầy ước chừng
không thông thạo Thần linh học hay chỉ tham dự một đàn Cầu Tiên duy nhứt
nên họ chỉ mới tập sự). Đấng Thần linh khuyên họ nên đến hỏi một người
đồng bào của họ là ông Phủ Chiêu, rất thông thạo về cách cầu cơ trong
Thần linh học (2), bởi vì rất khó mà làm cho hiểu được với phương tiện là một cái bàn cử động.
Lúc
đó, Đạo Cao Đài sắp được sáng lập hay nói đúng hơn là sắp bước vào giai
đoạn được quần chúng biết đến, bởi từ nhiều năm nay, như chúng ta đã
thấy, có một người thờ phụng Đấng Cao Đài. Người nầy theo giáo lý của
Đức Phật Thích Ca, không ai khác hơn là ông Phủ Chiêu.
_________________________________________________________
Chú thích của dịch giả : (2)
Đính chánh : Lúc bấy giờ nhóm 4 vị xây bàn chưa liên lạc với ông Phủ
Chiêu. Việc cầu cơ là do Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi ông phán Phan Văn Tý
thuộc Chi Minh Thiện. Ông Tý cho mượn một cây Ngọc cơ và hướng dẫn quí
ông cầu cơ. (Xem Đại Đạo Truy Nguyên của Huệ Chương). Việc Xây bàn là
theo Thần linh học phương Tây, nhưng việc Cầu cơ thỉnh Tiên là theo Lão
giáo, từ đạo Minh Sư bên Trung hoa truyền qua VN.
Ngoài
luân lý đạo đức của Đức Phật và Đức Khổng Tử mà ông Phủ Chiêu sùng kính
như những biểu hiện thiêng liêng, ông còn tin tưởng sự hiện hữu của
Thượng Đế Toàn năng, là Chúa tể càn khôn vũ trụ mà ông gọi là Đấng Cao
Đài. Ông cũng tin tưởng các Đấng thiêng liêng mà ông đã liên lạc được
trong nhiều năm.
Phẩm hạnh của vị tín đồ Cao Đài đầu tiên ấy rất gương mẫu, người mà các thanh niên được gởi tới để học hỏi.
Đồng
bào của ông Phủ Chiêu, toàn thể đều xem ông như một vị Thánh sống. Ông
chỉ bảo các vị thơ ký cách dùng Ngọc cơ (mà sau nầy tôi sẽ có dịp quay
trở lại) giúp cho những buổi cầu cơ được dễ dàng rất nhiều. Chính ông
cũng trực tiếp tham dự, hân hoan sử dụng các đồng tử có đặc khiếu, thành
thạo, có khả năng tiếp điển mạnh mẽ lạ thường.
Sau
khi đến liên lạc với ông Phủ Chiêu, cũng trong hoàn cảnh tương tự và
theo sự chỉ bảo của Đấng thiêng liêng nói trên, các vị thơ ký ấy đến tìm
nhà của một người đồng bào khác, là cựu quan chức Nam kỳ, cựu Nghị
viên Thượng Nghị viện Đông Dương, Lê Văn Trung (3),
người cũng tự mình thỉnh thoảng tham dự các đàn cầu cơ. Những người
thơ ký trẻ tuổi chưa hề biết tên Lê Văn Trung trước khi Đấng thiêng
liêng chỉ dẫn. Ông Trung trước kia không sống đời đạo đức
__________________________________________________________________
Chú thích của dịch giả : (3)
Đính chánh : Nhóm thơ ký trẻ gồm các vị : Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc,
Cao Hoài Sang, theo lịnh của Đức Chí Tôn đến gặp Ngài Lê Văn Trung trước
khi đến với ông Phủ Chiêu. Trước khi nhóm thơ ký trẻ đến tìm ông Trung
thì ông Trung đã đến hầu đàn ở Chợ Gạo Phú Lâm, được Đức Lý Thái Bạch độ
ông bằng cách dùng huyền diệu làm cho đôi mắt của ông sáng lại (vì
trước đây ông bị bịnh quáng mắt). Sau khi Ngài Trung gia nhập nhóm, Đức Chí Tôn ra lịnh quí ông đến gặp ông Phủ Chiêu để hỏi về cách thờ phượng Đức Chí Tôn.
gương
mẫu, mà lại thích hưởng thụ những gì có thể được. Vào thời điểm trước
khi những thơ ký trẻ tuổi tìm đến ông để xin lời chỉ bảo, thì ông Trung
đã tiêu phá gần hết gia tài của ông.
Trước
50 tuổi, ông Lê Văn Trung, dưới con mắt của mọi người, là một người đam
mê vật chất, tham dự cầu cơ một cách tài tử, xem như là lời dặn trước
của Đấng Thượng Đế, chỉ định ông hiệp với ông phủ Chiêu mà ông Trung đã
quen biết từ lâu, để chỉ đường mở lối cho các vị trẻ tuổi đã theo Thần
linh học. Kể từ ngày ấy, ông Trung quyết định sống cuộc đời gương mẫu và
tỏ ra xứng đáng với sứ mạng mà Đấng Cao Đài giao phó. Vì thế, ông ngưng
hút thuốc phiện một cách đột ngột mà không thấy khó chịu. (Những tín đồ
Cao Đài nói rằng, điều đó chứng tỏ ông Trung được Đức Chí Tôn phù hộ,
vì một người khác không thể cai thuốc dễ dàng như thế). Ông cử uống
rượu, cử ăn thịt cá, trở nên ăn chay thật sự và sống khổ hạnh như những
vị hòa thượng khắc khổ nhất.
Sự
nhập đạo nhiệm mầu nầy lôi cuốn một số đông môn đệ đầu tiên thường
thuộc những gia đình khá giả hay đang nắm chức vụ cai trị khá cao, nhứt
là ông Phủ Tương đang làm việc trong tỉnh Chợ Lớn, như là bạn đồng liêu
của ông Phủ Chiêu, là một người có đạo đức cao, luôn luôn thực hành nhơn
đạo của Đức Khổng Tử, ông Đốc phủ Lê Bá Trang, ông Huyện hàm Nguyễn
Ngọc Thơ và bạn đời của ông là bà góa phụ Monnier, người Nam Kỳ, rất
giàu, từ nhiều năm đã dùng một phần tiền thu nhập vào các công việc từ
thiện.
Ông Phủ Chiêu là người được chỉ định trước tiên vào chức vụ chỉ huy tối
cao của nền Tân tôn giáo, Giáo Tông của Đạo Cao Đài, nhưng ông Phủ
Chiêu né tránh nên Ngài Lê Văn Trung được chỉ định thay thế.
Tôi
(tác giả G. Gobron) có hỏi một trong những Chức sắc cao cấp, những lý
do vì sao ông Phủ Chiêu có thái độ như vậy ? Vị ấy trả lời cho tôi biết
rằng ông Phủ Chiêu chính là tín đồ đầu tiên của Đạo Cao Đài ở Nam Kỳ,
đã làm tròn phận sự lãnh đạo tối cao của nền tôn giáo, nhưng ông tỏ ra
không đủ khả năng vượt qua các thử thách mà Thượng Đế đã định cho ông,
cũng như đã đặt ra cho tất cả vị lãnh đạo cao cấp khác, trước khi nâng
phẩm vị họ lên một bậc trên nấc thang mà tột đỉnh là sự hoàn thiện. Do
đó, ông phải chuộc lại sự yếu đuối mà ông đã từng chứng tỏ, trước khi
lấy lại địa vị mà ở quá khứ dành quyền cho ông.
Giáo Tông của Đạo Cao Đài
Sự nhập đạo của Ngài Lê Văn Trung, người trở thành Giáo Tông của Đạo Cao Đài, là một trong những biến cố lớn ở Đông Dương.
Đó
là vào năm 1925, ông Trung ở Chợ Lớn, say mê vào công cuộc kinh doanh,
trong cảnh huyên náo của một thành phố vốn tôn thờ tiền bạc, ông hoàn
toàn xa lánh tôn giáo. Một buổi chiều, theo lời mời của một người bà
con, vốn là một tín đồ xác tín Thần linh học thuộc Chi Minh Lý ở Sài
Gòn (Chi nầy giống như Minh Tân, Minh Thiện, phát sinh từ Thần linh học
trong những năm trước 1925 - Lời chú thích của tác giả), ông đến dự một
đàn cầu cơ tại Chợ Gạo trong vùng ngoại ô.
Tại
buổi hội nhóm nầy, Đức Lý Thái Bạch giáng đàn, nói riêng với ông
Trung, tiết lộ nguyên căn thiêng liêng của ông, đồng thời báo cho ông
biết sứ mạng tôn giáo sau nầy của ông. Đức Lý khuyến khích ông Trung sớm
đặt mình vào nền tôn giáo mới. Xúc động vì ân sủng, ông Trung không
ngần ngại thay đổi cách sống. Được sự nâng đỡ của đức tin, ông Trung can
đảm bỏ hút thuốc phiện ngay và bắt đầu ăn chay; ông cũng từ bỏ công
việc kinh doanh để có thể hiến dâng hoàn toàn cho tôn giáo.
Sự
nhập đạo của vị nầy, mới hôm qua còn tha thiết của cải và sự hưởng thụ
cuộc đời, thật quá rõ ràng để người ta tự hỏi, phải chăng cho đến hôm
đó, những đàn cầu cơ tổ chức tại Chợ Gạo, đã được thúc giục lập ra bởi
các Đấng với sứ mạng truyền giáo, trong mục đích duy nhứt là dìu dắt
ông Lê Văn Trung trở lại con đường Đạo Pháp.
Cho
nên, khi ông Trung quyết định sống theo Đức tin mới mà ông vừa tiếp thu
được, các Đấng thiêng liêng liền ra lịnh giải tán nhóm đồng tử Thần
linh học (nơi đàn Chợ Gạo) trong sự kinh ngạc và đau buồn sâu đậm của
những người trong nhóm.
Tại
Sài Gòn, Đấng Cao Đài nhận thấy đã đến lúc đem những đồng tử xây bàn
của Ngài tiếp cận với ông Lê Văn Trung. Ngài gởi hai trong số những đồng
tử nầy (ông Cư và Tắc) đến nhà ông Trung với lịnh truyền là tổ chức
tại đó một đàn cầu cơ để Ngài ban cho những lời giáo huấn.
Ông
Trung, không quen biết những đồng tử nầy, nhưng vẫn chấp nhận lời đề
nghị của họ khi đã biết lý do mà họ tìm đến ông. Một đàn cầu cơ được
thiết lập. Đấng Cao Đài, giữa những lời giáo huấn, báo cho ông Trung
biết sứ mạng trọng đại sắp tới của ông trong nền Tân tôn giáo mà Ngài
sắp lập ra để cứu độ nhơn loại.
Sự
tiết lộ nầy xác nhận những lời bóng gió trong những Thánh giáo khác
nhau mà ông Trung đã nhận được từ đàn Chợ Gạo với những đồng tử khác. Sự
kiện đó củng cố thêm lòng tín ngưỡng của ông và khuyến khích ông hiến
dâng trọn vẹn cho công cuộc hành đạo.
Sau
đó ít lâu, Đấng Cao Đài gởi quí ông Trung, Cư, Tắc đến gặp ông Phủ
Chiêu, người sẽ hướng dẫn họ trong con đường đạo với tính cách là một
người Anh Cả. Về phía ông Phủ Chiêu, ông đã được Đấng Cao Đài cho biết
trước, nên tiếp đón ba vị khách trên một cách thân ái. Ông liền đưa ba
vị khách đến tiếp xúc những đồng đạo đầu tiên của ông.
Cái
hạt nhân của Đạo Cao Đài được hình thành gồm 12 người, tất cả đều học
thức trong văn hóa Pháp, đều là công chức mà phần lớn trong các cơ quan
hành chánh tại Sài Gòn.
Lòng
nhiệt thành và tinh thần bất vụ lợi của các vị tiên phong, trong những
ngày giờ đầu tiên, thu hút một số đông tín đồ mỗi ngày mỗi nhiều. Đạo
Cao Đài thoát khỏi phạm vi giới hạn nhỏ hẹp, truyền bá khắp trong dân
chúng vào đầu năm Bính Dần (1926).
Ông
Phủ Chiêu, quen với cảnh sống cô tịch, cảm thấy trái ý bởi sự qui tụ
đông đảo tín đồ, làm cho ông lo lắng. Là một công chức có ý thức trong
các nhiệm vụ, ông quyết định từ đây lánh xa phong trào tôn giáo lớn mạnh
nầy.
Ngài Lê Văn Trung được Đấng Cao Đài chỉ định thay ông Phủ Chiêu vào cuối tháng tư năm ấy.
Những Thánh Thất đầu tiên
Những
đàn cầu cơ tiếp tục được tổ chức ngày càng nhiều tại các tư gia và phần
lớn là tại các Thánh Thất, trong đó có các trung tâm sau đây : Chợ Lớn,
Cần Giuộc, Lộc Giang, Tân Định, Thủ Đức và Cầu Kho.
Hai
đồng tử được bổ nhiệm đến mỗi Thánh Thất để tiếp nhận các Thánh giáo
của Đấng Cao Đài. Sự thu nhận các tân tín đồ cũng được quyết định tại
nơi đó. Các tín đồ đến gia nhập hằng loạt, làm tăng thêm đến hằng trăm
người đăng ký nhập môn trong mỗi kỳ đàn.
Tuyên ngôn chánh thức của Đạo Cao Đài
Tôn
giáo mới phát triển rất nhanh vì được dân chúng tiếp nhận nồng nhiệt.
Lo lắng cho hoạt động giữa thanh thiên bạch nhựt và giữ trong giới hạn
của phạm vi pháp luật nghiêm nhặt, các nhà lãnh đạo đưa ra một Tuyên
ngôn chánh thức có 28 người ký tên, được gởi đi ngày 7-10-1926 đến ông
Thống Đốc Nam Kỳ. Đính kèm theo Tuyên ngôn nầy là danh sách các tín đồ
ký tên gồm 247 người hiện diện trong buổi lễ công nhận sự hiện hữu chánh
thức của Đạo Cao Đài.
Việc truyền đạo
Sau
khi bản Tuyên ngôn được chánh quyền địa phương lịch sự tiếp nhận, các
nhà lãnh đạo của nền Đại Đạo tổ chức các đoàn truyền giáo trong quốc
nội.
Có tất cả ba đoàn truyền giáo : một cho các tỉnh miền Đông, một cho các tỉnh ở Trung ương và một cho miền Tây.
Chưa
đầy hai tháng, hơn 20 ngàn người cải giáo nhập môn vào Đạo Cao Đài,
trong đó có nhiều nhân sĩ bản xứ. Chính nhờ các đàn cầu cơ và nhất là
nhờ lòng nhân đức vô hạn của của Đấng Thượng Đế luôn luôn thể hiện trong
mỗi lần cầu nguyện. Những Thánh giáo có một ảnh hưởng quyết định trên
những người hầu đàn, nên Đạo Cao Đài đã tiếp nhận sự nhập môn vào đạo
hằng loạt.
Thành
quả lớn lao ấy là do những nghi thức thờ cúng mới của Đạo Cao Đài không
có gì trái với những gì mà các tôn giáo chánh đã thực hành trong nước.
LỄ KHAI ĐẠO
Từ
ngày mùng 10 tháng 10 âm lịch (dl 14-11-1926), những cuộc đi truyền đạo
được đình chỉ. Tất cả những nổ lực của các vị lãnh đạo đều tập trung
vào Lễ Khai Đạo, diễn ra trong ba ngày : 14, 15 và 16 tháng 10 âm lịch
của năm Bính Dần (dl 18, 19, 20-11-1926) tại chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén
(Tây Ninh). Toàn Quyền Đông Dương, cũng như Thống Đốc Nam Kỳ và các viên
chức cao cấp của Pháp và Việt đều được mời dự lễ.
Đại
lễ cử hành rất long trọng, qui tụ đáng kể nhiều tín đồ đến từ khắp các
tỉnh Nam Kỳ. Cuộc lễ cũng thu hút hằng ngàn người ngoại đạo đến xem vì
hiếu kỳ hay đến quan sát.
Sự hiện diện của Đại Úy Monet, một đại tín đồ Thần linh học Pháp, được đặc biệt chú ý.
Trong cuộc lễ nầy, Hội Thánh Cao Đài được xây dựng và Tân Luật được thiết lập và ban hành.
Thủ phủ chính thức của Đạo Cao Đài
Từ
Lâm Tự là một ngôi chùa Phật vừa mới được xây cất bởi Hòa Thượng Giác
Hải ở Chợ Gạo (Chợ Lớn). Vị Hòa Thượng nầy đã cải giáo để nhập vào đạo
mới là Đạo Cao Đài. Nhưng sau đại lễ Khai Đạo, những tín đồ Phật giáo đã
cung cấp tiền bạc cho Hòa Thượng xây chùa Từ Lâm, không được Hòa Thượng
tham khảo ý kiến về sự hiến chùa cho Đạo Cao Đài, nên đòi hỏi giao hoàn
chùa lại cho cố chủ.
Mặt
khác, kinh nghiệm cho biết chùa quá nhỏ, khoảnh đất cất chùa quá chật
hẹp, khó có thể xây dựng một cách thích đáng Tòa Thánh của một nền Tân
tôn giáo đang phát triển với một tương lai vĩ đại.
Theo
chỉ dẫn của Đấng Đại Tiên, khoảnh đất mà trên đó xây dựng Đền thờ tạm
thời hiện nay đã được chọn và mua để xác định xây dựng Tòa Thánh Cao
Đài, tọa lạc tại làng Long Thành, tỉnh Tây Ninh, khá rộng khoảng 100
mẫu, đủ đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai.
Việc
di chuyển Thánh Thất từ Gò Kén đến làng Long Thành thực hiện vào tháng 3
năm 1927. Số tín đồ tiếp tục tăng lên đáng kể. Những cuộc hành hương
đến Thánh Thất mới đáng ghi chép : mỗi ngày tiếp đón cả ngàn người.
Cũng
như tất cả tôn giáo khác vào buổi đầu, Đạo Cao Đài cũng có những kẻ
chống đối mà những lời chỉ trích của họ thường rất kịch liệt, luôn luôn
bị xúi giục bởi một đầu óc thiếu khách quan.
Trong
lúc đó, những vị lãnh đạo Cao Đài, vâng theo lời giáo huấn của Đức Chí
Tôn, cố gắng giữ mình và tự hoàn thiện trong nền Đại Đạo, bằng cách chỉ
quan tâm đến lợi ích về đạo đức và tinh thần của nhơn loại.
Đó
là câu trả lời duy nhứt mà họ được phép dùng để đối phó với những kẻ
công kích, vì tất cả tín đồ chân chính của Đạo Cao Đài phải giữ nghiêm
khắc với chính mình.
Rốt
cuộc, sau 4 năm hiện hữu, Đạo Cao Đài đã có nửa triệu tín đồ. Mặc dầu
có rất nhiều trở ngại gieo rắc trên đường đi, họ luôn luôn tiếp tục tiến
bước và đắc thắng đến mục đích mà Đấng Thượng Đế đặt ra cho họ : Sự
phục hưng nhơn loại trong nền hòa bình thế giới.
Nguồn gốc của giáo lý Đạo Cao Đài
Tạp chí “L’Inde illustrée” (Ấn độ hình ảnh) tóm tắt cho biết như sau đây :
“ Cao Đài là danh xưng tượng trưng của Thượng Đế, được khải thị tại phương Đông lần thứ ba.
“
Ý tưởng của các tín đồ về đức tin mới là Đấng Thượng Đế, theo lời giáo
hóa về sự tiến bộ tinh thần của loài người, được tinh tế hơn xưa, Thượng
Đế lần nầy thể hiện qua các đồng tử, không muốn ban cho một người nào
nơi cõi trần cái đặc ân sáng lập Đạo Cao Đài.
“ Cái hình thức biểu hiện mới của Đấng Thượng Đế chứng
tỏ rằng tôn giáo đặt dưới quyền thống trị của vị sáng lập trần thế,
không thích hợp tính cách đại đồng, vì các nhà tiên tri của họ nổi lên
chống lại cái chân lý được đề xướng bởi các tôn giáo khác mà họ tỏ ra
không có sự khoan dung.
“ Giáo lý Đạo Cao Đài là sự dung hợp giáo lý của các tôn giáo xưa ở phương Đông : Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo.
“ Trong một Thánh giáo được chuyển đi
vào ngày 13-2-1927, với sự hiện diện của vài người Pháp, Đức Lý Thái
Bạch, một trong những khâm sứ của Thượng Đế, đã trình bày giáo lý ấy.
Chúng tôi xin trích ra từ Thánh giáo ấy những dòng sau đây :
“
Những Thánh giáo của các tôn giáo không được thực hành đúng. Trật tự và
hòa bình thời xưa bị xóa bỏ. Qui luật đạo đức của loài người bị xuyên
tạc. Đối với những người thiếu suy nghĩ và hoài nghi, Thượng Đế chỉ tồn
tại trên từ ngữ. Họ không biết rằng nơi chỗ tối cao đang ngự trị một
Đấng Chúa tể của mọi sự biến đổi của vũ trụ và của tất cả số phận con
người.
“
Thuở xưa, các dân tộc không hiểu biết nhau, thiếu các phương tiện vận
chuyển, Ta (Đấng Thượng Đế) thiết lập trong các thời kỳ khác nhau năm
nhánh của Đại Đạo (gọi là Ngũ Chi Đại Đạo) gồm :
1. Nhơn đạo : Khổng giáo.
2. Thần đạo : Khương Thái Công, thờ các vị Thần.
3. Thánh đạo : Thiên Chúa giáo.
4. Tiên đạo : Lão giáo.
5. Phật đạo : Phật giáo.
“ Mỗi Chi Đại Đạo dựa trên tập quán và phong tục của mỗi giống dân được đặc biệt kêu gọi để hành đạo.
“
Ngày nay, tất cả những phần đất của thế giới được khai phá : nhơn loại
hiểu biết nhau hơn, khao khát một nền hòa bình thật sự. Nhưng vì có
nhiều tôn giáo nên nhơn sanh luôn luôn không sống trong sự điều hòa
người nầy với người khác. Cho nên, Ta quyết định qui hiệp tất cả tôn
giáo thành một mối duy nhứt để đem trở về một khối thống nhứt nguyên
thủy.
“
Hơn nữa, giáo lý của các tôn giáo, trải qua nhiều thế kỷ, đã bị biến
thể bởi chính các vị lãnh nhiệm vụ truyền giáo, đến mức mà ngày nay, Ta
nhứt định chính mình Ta đến với các con để chỉ dạy con đường phải theo.
. .
Cũng trong Thánh giáo ngày 13-1-1927, Đức Lý Thái Bạch còn nói thêm :
“
Các huynh đệ thân mến, Chúa Jésus nhân từ đã đến với các bạn để vạch
ra con đường Thánh thiện cho các bạn. Hãy cố gắng đi theo đường ấy để
sau nầy có được sự bình an của tâm hồn, hãy bước tới mỗi ngày một bước
mau lẹ trong tình thương yêu của Thượng Đế. Hãy đoàn kết, hãy thương yêu
nhau người nầy người khác, hãy giúp đỡ lẫn nhau. Đó là Thiên điều.
“
Vào lúc nầy, nơi mà mỗi người bị bắt buộc chịu đựng nỗi khổ sở, nếu
người nào chỉ nghĩ đến lợi lộc cá nhân, nếu người nào tìm cách gieo đau
khổ và phiền não, người đó sẽ mạo hiểm bị lôi cuốn vào trong dòng thác
địa ngục, nơi đây, cái hung dữ sẽ bẻ gãy cuộc sống và làm hoen ố tâm
hồn.”
Sự
thật, Đạo Cao Đài hay Đại Đạo là một tôn giáo giản dị nhứt hiện nay khi
nói về việc hành đạo và sự thờ cúng. Tôn giáo mới nầy chỉ đòi hỏi các
tín đồ mỗi ngày tụng kinh cầu nguyện Đấng Cao Đài, hoặc tại nhà của họ,
hoặc trong Thánh Thất; không có phép sám hối xưng tội, không có phép
thông công. (Việc cầu cơ là một việc làm tế nhị và nguy hiểm, chỉ dành
riêng cho Hội Thánh.
Số
lượng Giáo sĩ giới hạn trong phạm vi cần thiết nhứt để truyền bá giáo
lý, khuyến khích tín đồ thực hành Nhơn đạo, như Đức Khổng Tử đã quan
niệm. Chỉ có một Thượng Đế duy nhứt, là Đức Chí Tôn, Đạo Cao Đài khuyên
bảo các tín đồ noi theo đạo đức thuần túy của Đức Chúa Jésus, đạo đức
của Đức Khổng Tử, cả hai đều không có gì khác nhau.
Đạo
Cao Đài cũng khuyên bảo sùng bái các Đấng chơn linh thượng đẳng, ân
nhân của nhơn loại vào các thời kỳ khác nhau; Đức Chúa Jésus, cũng như Đức Phật Thích Ca, cũng như Đức Khổng Tử,cũng như các vị Thần thời cổ Trung hoa, không nên quên các Đấng ấy trong các lời cầu nguyện.
Trên
nguyên tắc, các Chức sắc của Đạo Cao Đài bị cấm cầu các Đấng thiêng
liêng trong khối đông đảo tín đồ, để tránh cho những đồng tử trở nên
chuyên nghiệp và tránh lạm dụng tính dễ tin của quần chúng ưa chuyện
thần bí.
Ngọc
cơ được cất giữ trong Thánh Thất. Nhưng những đồng tử linh tính tiếp
tục được các tín đồ nghe theo. Theo ý kiến của tôi (tác giả), thật là
bất công khi tuyên bố quá nhanh rằng các vị sáng lập Đạo Cao Đài muốn
che giấu sự thật để dành riêng cho mình độc quyền tiếp xúc các Đấng vô
hình.
Người
hành đạo cần vươn lên để chiếm được cái quyền đạt đến trí huệ trọn vẹn.
Trong vài trường hợp, đó là thái độ của Giáo hội Công giáo đối với Thần
linh học.
Giáo lý của Đạo Cao Đài không chỉ nhằm mục đích hoà hợp các tín ngưỡng tôn giáo, mà còn thích nghi với tất cả mức độ tiến hóa của tâm linh.
1. Về phương diện đạo đức :
Giáo lý Đạo Cao Đài nhắc nhở con người có bổn phận đối với chính mình,
đối với gia đình, đối với xã hội, ấy là một gia đình mở rộng, kế đó đối
với nhơn loại, gia đình thế giới;
2. Về phương diện Triết học :
Giáo lý Đạo Cao Đài truyền dạy sự khinh thường danh vọng, sự giàu có,
sự xa hoa, tắt một lời là sự giải thoát khỏi những nô lệ vật chất, để
tìm tòi trong tâm linh sự yên tĩnh của tâm hồn;
3. Về phương diện văn hóa :
Giáo lý Đạo Cao Đài khuyên nhủ sùng bái Thượng Đế, Đại Từ Phụ của tất
cả chúng ta, tôn thờ các Đấng chơn linh thượng đẳng vốn tạo nên hệ thống
trật tự oai nghiêm trong thế giới huyền bí. Chấp nhận sự thờ cúng tổ
tiên theo truyền thống dân tộc, bài trừ việc cúng bằng các thứ thịt thú
vật, cũng như giấy vàng mã;
4. Về phương diện tâm linh :
Giáo lý Đạo Cao Đài xác nhận sự đồng ý với các tôn giáo khác về các hệ
thống triết học tâm linh và tâm lý, sự hiện hữu của linh hồn và sự tồn
sinh của nó nơi thể xác, sự tiến hóa của linh hồn bởi sự đầu thai
chuyển kiếp liên tiếp, cái kết quả sau khi chết của các hành vi của con
người định bởi luật Nhân quả.
5. Về phương diện truyền giáo :
Đạo Cao Đài truyền đạo cho các tín đồ xứng đáng những giáo huấn mặc
khải mà nó cho phép các tín đồ, bởi quá trình tiến hóa tâm linh, đạt
đến sự hưởng thụ toàn phúc.
Các tín đồ
Có ba loại tín đồ :
1. Những tu sĩ chơn tu, những
Chức sắc cao cấp, những người bị bắt buộc tuân thủ một lối sống, nếu
không khổ hạnh thì ít nhất cũng phải kiêng cữ một số điều : quan hệ xác
thịt nam nữ bị cấm chỉ, họ có thể có vợ nhưng vợ chỉ là bè bạn; rượu,
thịt, cá đều bị cấm chỉ; họ chỉ được nuôi sống bằng thảo mộc (ăn chay).
Chỉ riêng họ mới được phép giao tiếp với Đức Thượng Đế và các Đấng chơn
linh thượng đẳng, nhưng chỉ được làm trong trường hợp đặc biệt mà thôi.
2. Các đồng tử, có
số lượng 12 người, họ cũng được xem là Chức sắc hay phụ tá, không phải
là tu sĩ chơn tu, nhưng họ cũng bị bắt buộc tuân thủ một số luật lệ và
kiêng cữ một số điều trong đời sống vật chất. Họ vẫn đi làm việc thường
ngày trong các hoạt động thương mãi hay kỹ nghệ. Họ cũng bị chính thức
cấm chỉ cầu cơ, khi không có hiện diện của những Chức sắc cao cấp mà
không được các vị nầy mời đến sau khi tụng kinh cầu nguyện Đức Chí Tôn.
3. Những môn đồ bình thường,
đây là khối đông đảo tín đồ, họ không có bổn phận nào khác hơn là tuân
theo đạo đức và qui tắc hành xử do các Chức sắc của Ban Trị Sự Cao Đài
truyền dạy và đáng kể là phải cúng lạy đều đặn mỗi ngày trước bàn thờ
Đấng Cao Đài, trong một ngôi chùa riêng biệt, hoặc trong một Thánh Thất
mới tạo nên, hay nơi tư gia của họ trước một bàn thờ nhỏ được sắp đặt,
trên đó đặt hình vẽ Thiên Nhãn có mây bao quanh, giữa hai chưn đèn nghi
lễ có một lư hương chứa đầy tro để cắm nhang, và phẩm vật dâng cúng là
hoa quả, nhiều hay ít cũng được.
Theo một tài liệu khác gần đây, tôi (tác giả) thấy những tín đồ chia làm hai bậc : Thượng thừa và Hạ thừa.
Được
xếp vào bậc Thượng thừa là những tu sĩ chơn tu, họ có thể là Chức sắc
hay tín đồ thường. Ở bậc Thượng thừa, họ bị bắt buộc để râu dài và tóc
dài, phải ăn chay, cấm xa hoa, cấm quan hệ tình dục. Đời sống của họ
thoát khỏi sự nô lệ vật chất, hoàn toàn dâng hiến để phụng sự tôn giáo.
Những
tín đồ thuộc Hạ thừa gồm đông đảo tín đồ, vẫn tiếp tục theo đuổi công
việc bình thường, bổn phận về tôn giáo của họ gồm việc thực hành cúng
lạy hằng ngày và hành xử đúng theo Tân Luật.
Các
tín đồ ở cả hai bậc đều bắt buộc tuân theo Ngũ Giới Cấm, trích ra từ
đạo đức của Phật giáo : không sát sanh, không gian tham, không tà dâm,
không ăn cao lương mỹ vị, không phạm tội bằng lời nói.
Về
chế độ ăn uống, đối với các tín đồ bậc nhì (Hạ thừa), qui định việc ăn
chay theo từng bậc, phải kiêng cữ thịt thú vật, chỉ ăn chay một số ngày
nhứt định trong một tháng âm lịch. Như thế, khởi đầu ăn chay tạm thời 2
ngày sóc vọng mỗi tháng, kế đó tiếp tục lên Lục trai, ăn chay 6 ngày
trong một tháng, rồi Thập trai tức là 10 ngày trong mỗi tháng.
Đạo
Cao Đài thu nhận vào lòng tất cả những người có thiện ý, không phân
biệt chủng tộc, địa vị xã hội. Một người dân có thể sát cánh trong tình
huynh đệ với một Đốc phủ sứ.
Sự thờ cúng trong Đạo Cao Đài
“
Sự thờ cúng được cử hành mỗi ngày tại Thánh Thất, cũng như tại tư gia,
vào bốn thời (Tứ thời) : lúc 6 giờ, giữa trưa (12 giờ), 18 giờ và giữa
đêm (12 giờ khuya).
Quì
lạy trước Thiên bàn, trong sự nhiệt thành của tâm hồn hướng về Đấng
Thượng Đế, chúng ta khởi đầu tụng kinh Niệm Hương, tiếp theo tụng Khai
Kinh, mà lời kinh như sau :
Biển trần khổ vơi vơi trời nước,
Ánh thái dương giọi trước phương đông.
Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông,
Ra tay dẫn độ dày công giúp đời.
Trong Tam giáo có lời khuyến dạy,
Gốc bởi lòng, làm phải làm lành.
Trung dung Khổng Thánh chỉ rành,
Từ bi Phật dặn lòng thành lòng nhơn.
Phép Tiên đạo tu chơn dưỡng tánh,
Một cội sanh ba nhánh in nhau.
Làm người rõ thấu lý sâu,
Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh.
Nghi
thức ấy đã xong, chúng ta cất giọng tụng kinh bài Vinh Danh Thượng Đế
(Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế), kế đó tụng 3 bài kinh xưng tụng ba Đấng
Giáo chủ Tam giáo : Đức Phật, Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử.
Nghi thức cúng lạy hằng ngày tất cả đơn giản như thế.
Về phần hiến lễ trong Thánh Thất, vào các ngày lễ lớn, việc thực hành các nghi tiết có phần quan trọng hơn.
Người
ta trách Đạo Cao Đài một cách tổng quát đã xa lìa Thần linh học khoa
học, để trở thành một tôn giáo. Đáng tiếc ! Có thể lắm ! Nhưng đừng quên
quá mau rằng, chúng ta không ở Paris, Bruxelles, Berlin hay Rome, và
rằng tâm hồn của người Á châu luôn luôn nhiệt thành, mặc dầu trên khuôn
mặt vẫn đeo cái mặt nạ đông cứng và không cảm giác.
Lòng bác ái
Mấy từ ngữ đơn giản nầy tóm lược khuynh hướng chủ yếu của Đạo Cao Đài. Những ứng dụng thực tiễn suy ra gồm :
1. Tình huynh đệ giữa nhơn loại.
2. Lòng thương yêu loài vật.
Bởi
vì chúng ta có bổn phận trong tình huynh đệ đối với mọi người, xem mọi
người đều là anh em trong đại gia đình thế giới, chúng ta cũng có bổn
phận đối xử tốt loài vật, vì chúng nó là những em út còn lạc hậu trên
con đường tiến hóa. Chúng ta phải chăm sóc chúng vì chúng được tạo ra để
giúp việc cho chúng ta, đối đãi với chúng một cách dịu dàng, và tránh
làm cho chúng đau đớn vô ích. Đời sống thú vật của chúng cần được tôn
trọng, bởi vì nếu làm tổn thương đến chúng thì chúng ta đã làm chậm trễ
sự tiến hóa của nạn nhân.
Vì
vậy, tất cả tín đồ Cao Đài ý thức bổn phận của mình và giữ việc ăn chay
để tránh khỏi làm tòng phạm sát sanh hằng ngày, làm tổn hại những em út
cấp dưới.
Ông
Schopenhauer nói : Giữa lòng thương xót loài vật và lòng nhân từ có sự
ràng buộc chặt chẽ, người ta có thể nói không ngần ngại rằng, khi một
người hung dữ với loài vật thì người ấy không thể là người lành.
3. Lòng nhân từ đối với thảo mộc :
Không
ai biết hết những ích lợi của thảo mộc đã đem lại cho nhơn loại. Ân
nhân yên lặng của con người, nó không hề trách móc về sự bội bạc, sự tàn
ác của con người. Cây cối che bóng mát cho những ai ngồi tại gốc của
nó, không phân biệt khách bộ hành mệt nhọc hay người tiều phu hung bạo.
Người ta nói, cây đàn hương đã xông hương lưỡi rìu chặt nó.
Thảo
mộc là một kho thuốc thiên nhiên thực sự, nơi đó, chúng ta có thể tìm
được những thứ thuốc trị bệnh bá chứng cho chúng ta. Bài học về lòng
tốt, lòng hy sinh không thể rút ra từ thảo mộc cho lợi ích của chúng ta
hay sao ?
Những
thí nghiệm khoa học gần đây của Sir Bose, một bác học Ấn Độ, đã chứng
minh rằng thảo mộc sống như loài người, mà vài loại cây, đặc biệt như
cây mắc cở có một hệ thần kinh nhạy cảm hơn của chúng ta về những tổn
thương thân thể. Chúng ta sẽ nghĩ gì khi một người nào đó đùa giỡn bẻ
gãy một cành cây hay nhổ bật rễ một cái cây ? Nếu vì nhu cầu cho đời
sống vật chất buộc chúng ta phải dùng thảo mộc, thì đối với “các thí
sinh thi lên động vật” nầy, chúng ta phải có lòng tốt là không bao giờ
nên chặt bỏ hay phá hại chúng một cách vô ích.
4. Phụng sự nhơn sanh. (bổ túc bổn phận của tình huynh đệ)
Biết
bao nhiêu dịu dàng, trìu mến, thiên nhiên đã đem lại cho con người khi
sống ẩn dật trong cảnh cô tịch. Lánh xa thế giới loài người, mà những
cám dỗ không còn giá trị, trong cảnh tĩnh mịch của cuộc sống ẩn dật,
người ta thanh lọc cuộc sống, lắng dịu những đam mê và nâng cao tư tưởng
lên gần Thượng Đế. Rồi trong niềm say mê trầm tư mặc tưởng, nơi đó được
khơi dậy cái tình cảm của Đấng thiêng liêng, nên cảm nhận nhiều hơn cái nguồn gốc thiêng liêng của mình.
Đó
là đời sống nội tâm dẫn lối những người thượng thừa, được phú bẩm những
năng lực lớn, khi sứ mạng phàm trần của họ hoàn thành, họ mong muốn
được an lạc tinh thần. Nhưng, trước khi đạt đến giai đoạn cao cấp trong
con đường hành tu của nhơn loại, người khách lữ hành, vẫn tìm cách tiến
lên, nhưng phải giúp đỡ những kẻ đang dò dẫm đi sau.
Như
thế, tất cả tín đồ Đạo Cao Đài, lo lắng về hành động theo nguyên tắc
nhân ái, trong mọi trường hợp, tự hiến mình cho việc phụng sự nhơn sanh.
Được thúc đẩy bởi lòng ham muốn giúp đỡ đồng loại, họ sẵn sàng đem đến
sự an ủi cho những nỗi khổ đau về tinh thần và xã hội bằng những lời nói
hay việc làm của họ. Và trong niềm khao khát về lòng từ bi, họ luôn
luôn đưa tay giúp đỡ tất cả những người cần đến sự giúp đỡ của họ. Chịu
đựng tất cả nỗi khổ nhục bất cứ từ đâu tới, họ vẫn sống không thù hận,
giữa những người thù hận
họ.
Tất cả tín đồ Đại Đạo, Chức sắc hay Đạo hữu, phải nhận nhiệm vụ khó
khăn là đem linh hồn đến Thượng Đế, ghi khắc vào trí não những Thánh
giáo của Đấng Cao Đài, dựa trên lòng yêu mến điều thiện và sự tôn thờ
chơn lý.
Nếu
đã cố gắng tuyên cáo chơn lý mà vẫn không thuyết phục được những kẻ vô
tín ngưỡng, thì ít ra cũng làm cho họ dao động vài phần, và lúc bấy giờ
những nghi ngờ được khơi dậy trong tâm hồn những kẻ từ trước đến nay
không có đức tin, sẽ làm tiếp những gì còn lại. . . .
Chính
khi hoàn thiện và cứu độ kẻ khác, người ta cũng hoàn thiện và cứu độ
chính mình, vì những hành động thương yêu, từ thiện, đến lượt nó tạo nên
lộ phí trong cuộc hành trình dài về Cực lạc. Bởi vì việc phụng sự nhơn
sanh là một trong những điều kiện cần thiết của việc tự độ, người ta có
tất cả lợi ích để thực hiện với lòng nhiệt thành hơn là cho phép họ lòng
hâm mộ tôn giáo và tiến bộ đạo đức của họ.
Không
dám có cao vọng tự đặt mình là nhà truyền giáo, người tín đồ phải thúc
đẩy đặc biệt những đồng đạo của mình làm điều thiện và đạo đức. Nó có
thể đạt được, không phải bằng bài thuyết giảng trống rỗng, mà bằng cách
làm gương và thích hợp cuộc sống theo giáo lý mà mình chủ trương. Nếu
thỉnh thoảng nó trốn lánh bổn phận, xa rời con đường đạo mà Đức Chí Tôn
đã vạch ra, thì đấy chính là do sự yếu đuối hay khinh suất của nó, chớ
không phải do những Thánh giáo mà nó có sứ mạng truyền bá, bởi chúng tôi
há cần nhắc lại luôn luôn những Thánh giáo ấy, một lý tưởng hòa bình và
tình yêu huynh đệ.
Giống
như các tôn giáo hiện hữu, Đạo Cao Đài cũng có những kẻ giả tu (không
thành tín sùng đạo) và những tín đồ còn thiếu đức tin để chống lại những
cám dỗ của các Tà Thần. Đó là những phần tử bất hảo làm hoen ố tôn giáo
mà họ đang theo và họ sẽ bị loại ra hoàn toàn.
Ngũ Giới cấm
1. Không giết hại các sinh vật (vì chúng đều có Sanh hồn do Thượng Đế ban cho);
2. Không gian tham
(để tránh khỏi sa đọa vào vật chất vì nhu cầu sở hữu và thống trị).
Chính sự tiến bộ của xã hội hiện nay mà tất cả dường như khêu gợi lòng
kiêu ngạo và thèm khát giàu có;
3. Không dùng cao lương mỹ vị :
- Không ăn thịt thú vật (phải ăn chay).
- Không uống rượu (vì nó làm hại thể xác và chơn thần).
“ Tác dụng độc hại của rượu lên chơn thần :
“
Chơn thần nhập vào thể xác và bao bọc thể xác bởi khí thể của nó. Trung
tâm sinh hoạt của nó ở tại óc và trung tâm linh khí của nó ở tại Nê
huờn cung. (Chính tại trung tâm Nê huờn cung nầy mà Hộ Pháp đến gìn giữ chơn linh của người tu luyện cho đến khi đắc đạo).
“
Nay, tác dụng kích thích của rượu lan lên tận óc, làm tụ máu trong não,
gây ra những xáo trộn trong chơn thần, thiệt hại đến đời sống người
luyện đạo, phá vỡ sự hòa hiệp huyền bí (của Khí và Thần) đã được thiết
lập nơi người tín đồ. Hơn nữa, trong lúc loạn thần ấy, để cửa mở trống
(trung tâm linh khí) cho Tà Thần xâm nhập chiếm đoạt thể xác, thi hành
quyền lực trên thể xác, xúi giục thể xác gây ra những hành động đáng
trách, có thể dẫn đến sự sa đọa vào địa ngục. Cho nên, Đức Chí Tôn chính
thức cấm chúng ta uống rượu.”
4. Không tà dâm (việc nầy đưa chúng ta vào nghiệp ác).
5. Không phạm tội bằng lời nói :
“
Sự khải thị dạy cho chúng ta biết rằng Thượng Đế đã đặt định một chơn
linh hướng dẫn và gìn giữ cái mạng sống của con người. Cái chơn linh ấy
rất vô tư, có sứ mạng không ngừng liên lạc với các Đấng trọn lành nơi hệ
thống thượng đẳng (Ngọc Hư Cung) để trình bày trước Tòa Phán xét một
bản báo cáo chi tiết về tất cả hành động tốt xấu. Đó là bản báo cáo tất
cả việc làm của con người, gồm những công đức và tội lỗi, không thể
tránh khỏi bị xử trí bởi luật Quả báo luân hồi. Hơn nữa, chơn linh ấy
được giao phó gìn giữ chúng ta, mà còn có sứ mạng dạy bảo khuyên nhủ
chúng ta. Trong ngôn ngữ nghèo nàn và thiếu thốn của con người, người ta
gọi chơn linh ấy là Lương tâm. Nay, trước khi chúng ta tìm cách lừa dối
kẻ khác bằng những lời nói dối, chúng ta đã lừa dối Lương tâm của chúng
ta, nghĩa là lừa dối chơn linh ấy.
“Chơn
linh ấy ghi chép không những tất cả việc làm mà còn tất cả lời nói của
chúng ta, cả khi chưa thực hành. Bởi vì, dưới mắt của các Đấng trong Tòa
Phán xét, những tội lỗi của lời nói cũng đáng bị trừng phạt như lúc
hành động.
“ Như vậy, chúng ta cần phải thật cẩn thận trong lời nói cũng như trong hành động.”
Thánh giáo Pháp văn
Những
Thánh giáo Pháp văn thường được tiếp nhận bởi các đồng tử của Đạo Cao
Đài do các Đấng ban ra như : Allan Kardec, Léon Denis, Camille
Flammarion, Descartes, Jeanne d’Arc, Chateaubriand, vv . . và nhứt là
Victor Hugo và gia đình Victor Hugo.
Nhiều
vị lãnh đạo trong Đạo Cao Đài, là người VN hiện nay, do sự tái kiếp của
nhiều người trong gia đình Hugo. Những việc kỳ lạ làm cho người ta tin
tưởng điều đó. Trong một số ít Thánh Thất, có treo hình của Victor
Hugo.
Sự đầu thai chuyển kiếp trong Đạo Cao Đài
Liên
quan với Phật giáo, Lão giáo và Khổng giáo, và tôi tin tưởng có thể xác
quyết mà không sợ bị buộc tội : với giáo lý của Kardec (Allan Kardec
được xem là một vị Thần linh tôn giáo), Đạo Cao Đài tin vào thuyết Nhân
Quả và Luân Hồi, hệ quả của nó. Người tín đồ Cao Đài thẳng thắn tuyên bố
rằng, không mới lạ gì về điểm nầy.
Tất cả sự chấp ý (tư tưởng, lời nói hay việc làm) là một cái Nhân, sẽ mang lại cái Quả :
Cái Nhân gắn chặt với cái Quả, Quả là sự biến thái cách nào đó của Nhân, là sự giải thích cụ thể của Nhân.
Sự
giải thích ấy chính xác đến nỗi chỉ cần xem xét tỉ mỉ kiếp đầu thai
hiện tại của một thực thể, đủ để chỉ cho chúng ta biết cùng một lúc kiếp
quá khứ và kiếp tương lai của nó. Kiếp đầu thai hiện tại của một thực
thể với sự xen kẽ những nỗi vui buồn được xác định bởi những việc làm mà
họ đã hoàn thành trong kiếp sống trước. Cũng vậy, những việc làm trong
kiếp hiện tại xác định nguyên nhân tác thành của kiếp lai sinh.
Cái
Quả có thể được tách ra khỏi Nhân trong một thời gian lâu hay mau. Nếu
khoảng cách đó ngắn, cái Quả đến tức khắc và kẻ có tội thấy ngay hình
phạt trước mắt.
Nếu
khoảng cách đó dài, đó là vì kẻ tội lỗi còn được hưởng một thời gian
nữa cái Quả tốt của những việc làm tốt của nó trong những kiếp trước xa
xưa hay kế cận còn kéo dài.
Nhưng,
ngay sau khi sự miễn dịch vô hình ấy chấm dứt thì luật Nhân Quả liền
thể hiện đầy đủ. Trong nhiều trường hợp, sự suy sụp diễn ra nhanh đến
chóng mặt, giải thích như thế về sự suy tàn của một số gia đình như đã
nói ở trên. (Trích trong tạp chí La Revue Caodaiste, Tháng 3, số 33).
Tự
do ý chí của con người bị giới hạn bởi cái Quả nghiệp của kiếp trước.
Người tín đồ Cao Đài quả quyết rằng, chính mình tạo ra số phận của mình.
Việc hành thiện giúp cho thực thể tự cổi bỏ dần dần cái nghiệp quả của
nó.
Ngài Ngô Văn Chiêu, tín đồ đầu tiên của Đạo Cao Đài mới qui vị gần đây, nói : “Để tự biết mình, người môn đệ phải tự chúc mình những nỗi khổ đau.”
Đạo Cao
Đài còn tin tưởng rằng, sự xuất hiện của một sắc dân mới, cũng như
giáo sư Pietro Ubaldi (29-4-1933) tin rằng, loài người tương lai sẽ là
Thần thông nhơn, một mẫu mới của sinh vật, như những người bạn Thông
thiên học của chúng ta đã nhận thấy mẫu người mới đang hình thành :
“
Kinh nghiệm chứng tỏ rằng, mỗi lần giáng trần của Đấng Cứu Thế, Ngài
mang tên gọi là : Lão Tử, Thích Ca hay Jésus, loài người như được đánh
thức từ cơn mê. Một luồng sức mạnh huyền bí lưu thông khắp nơi, giúp con
người hiểu được những điều mầu nhiệm mà đến lúc đó họ vẫn còn lờ mờ, sự
khai mở đột ngột và mầu nhiệm của một vài năng khiếu như : trực giác,
ký ức, trí thông minh, huệ nhãn, cho phép người tín đồ đạt tới Đạo, từ
đấy mở rộng cửa đối với họ.
Tiếp
nhận được linh khí của vũ trụ, chỉ đến gần trái đất sau hàng ngàn thế
kỷ, người tín đồ hiểu một cách dễ dàng những Thánh giáo và để đốt giai
đoạn, một ngày nào đó, người tín đồ sẽ được đến gần và nhập vào Thượng
Đế.
“
Kể từ khi xuất hiện Đạo Cao Đài, mà Đức Chí Tôn là Giáo chủ, những hiện
tượng thuộc loại nói trên, được loan báo chút ít khắp Nam Kỳ. Điều ngạc
nhiên hơn hết là việc ăn chay trường thực hiện không khó khăn bởi những
tín đồ nam nữ ở mọi lứa tuổi. Người ta thấy những đứa trẻ 4 hay 5 tuổi
không chịu nổi khi thấy dĩa cá hay thịt. Người ta thấy những đứa trẻ 13
hay 14 tuổi khước từ ăn mặn để chỉ ăn toàn rau cải và chỉ ăn một lần
trong mỗi ngày, vào lúc giữa trưa (ăn ngọ). Người ta cũng thấy những
người chỉ ăn toàn là trái cây. Các sự kiện nầy của một đẳng cấp mới, làm
ngạc nhiên những tu sĩ Phật giáo mà chính họ thú nhận rằng, trong số họ
chỉ có một số ít người là giữ được trường chay.
“
Kế đó, đến sự phát triển bất ngờ của vài năng khiếu như : ký ức, sự
thông minh, trực giác nơi những người mà họ vốn chưa bao giờ tiếp thu
một kiến thức nào.”
Tạp chí La Revue Caodaiste từ
khi sáng lập, đã loan báo một vài sự kiện về đầu thai chuyển kiếp ở
Việt Nam. Chúng ta vui mừng được thấy những huynh đệ của Đạo Cao Đài đã
thừa nhận những cuộc điều tra và kiểm soát độ chính xác khoa học cần
thiết ở Tây phương mà nó cần những bằng chứng cụ thể hơn là những sự làm
chứng về đạo đức.
Những
bằng chứng ấy đem chúng ta đến cái điểm lợi ích lớn lao : một sự kiện
tái sinh được kiểm tra tỉ mỉ đã đánh đổ ngay những sự chống đối quen
thuộc vốn đã nghe cả trăm lần chống đối sự tái sinh (đầu thai). Tạp chí La Revue Caodaiste đi theo con đường đó và chúng tôi khen ngợi họ.
Đạo
Cao Đài nhắc lại, mỗi người của chúng ta, trước khi đi tái sinh, phải
ăn cháo lú (loại cháo làm quên hết dĩ vãng). Nếu người nào ăn nhiều cháo
ấy (khi người ấy có nhiều tội lỗi và nên quên nhiều), nó không nhớ lại
được tiền kiếp của nó. Nếu người nào ăn ít cháo lú (khi người ấy đến
một của những kiếp tái sinh gần đây và nó không hổ thẹn về những lỗi lầm
trầm trọng), bằng phương pháp hồi quang phản chiếu, bằng trực giác,
bằng sự phát huệ, nó sẽ nhớ lại những kỷ niệm về những kiếp tái sinh
trước đây.
Nhưng,
đó là là khả năng thiên phú của một người ưu tú về thiền hay những bậc
hiền triết khiêm tốn và trầm lặng mà người đời không biết đến họ.
Sự
xác nhận ấy được chứng thực, và chúng tôi dám nói rằng : Chúng tôi
thích những tài liệu được thiết lập bởi phương pháp thực nghiệm.
Kết luận :
Thời
đại của chúng ta đang phá sản, hỗn độn, khao khát giàu có, hận thù, vui
lòng nói đến sự xem xét lại thuế khóa, xem xét lại các hiệp ước, các
đường biên giới, quan thuế, vv . . . Nhưng họ lại quên xem xét lại cái
mà người ta ít nói đến là cái chìa khóa của tất cả mọi sự xét lại : Chúng ta có nên bắt đầu bằng sự xem xét lại Lương tâm không ?
Chính
vì Đạo Cao Đài hiểu rõ sự cần thiết đó và trù tính xem xét lại Lương
tâm mà tôn giáo nầy đã gặp phải sự chống đối của bao thế lực hắc ám tại Á
châu : Tổng hợp mạnh mẽ các tôn giáo ở Á châu, làm gạch nối với Thiên
Chúa giáo, tập hợp sự kiện tâm linh và Thần linh làm nền tảng cho thuyết
duy tâm hiện đại của Tây phương; kêu gọi lòng thương yêu đến Vô Danh,
Vô Cực, đến nền hòa bình thế giới và đại đồng huynh đệ các dân tộc, vĩnh
phúc nơi Đấng Cao Đài, vĩnh phúc cho các anh, tín đồ Đạo Cao Đài, những
người anh em xa xôi của nước Việt Nam, mà chúng tôi đã tiếp nhận được
và hôm nay xin cảm tạ lời giáo huấn và bài học hay.
Châu Âu xưa cũ có dám chấp nhận sự đảo lộn giá trị mà thời đại mới đòi hỏi không ?
Chúng tôi tin là có, và do đó, chúng tôi nói lời cảm tạ đối với các tín hữu Cao Đài ở Đông Dương