|
|
A- NHỮNG HÌNH THỨC GỌI LÀ BÍ PHÁP
TRONG NỀN ĐẠI ĐẠO
Bí pháp 秘 法
A: The sacrament.
P: Le sacrement.
Bí: sáng rỡ. Giấu kín, không hở ra cho ai biết.
Pháp: có nghĩa là pháp thuật, phương pháp.
Bí Pháp là những pháp thuật huyền diệu, mà khi thi hành sẽ có những hiệu quả thiêng liêng mà ta không thể dùng trí phàm hiểu biết hết được.
Đây là những Bí Pháp Chơn truyền của Đại-Đạo.
Trong cửa Ðạo Cao Ðài, Ðức Phạm Hộ Pháp vâng lịnh Ðức Chí Tôn truyền cho các Chức sắc vào hàng Thánh Thể của Cửu Trùng Đài và Hiệp-Thiên-Đài hay Phước Thiện đi hành đạo ở địa phương bảy Pháp sau đây để cứu độ nhơn sanh phần xác cũng như phần hồn, hầu giúp cho công cuộc Phổ Độ nhơn sanh được kết quả:
1- Phép Tắm Thánh. 2- Phép Giải Oan.
3- Phép Hôn Phối. 4- Phép Giải bịnh.
5-Phép Xác 6-Phép Ðoạn Căn. 7-Phép Ðộ Thăng.
Tương tự: Bên Thiên Chúa giáo cũng có bảy Bí Pháp dành cho “Con chiên của Chúa” là:
1- Phép Rửa tội 2- Thêm sức
3- Thánh Thể. 4- Giải tội
5-Xức dầu 6-Truyền chức 7-Hôn phối.
1- Bí pháp xưng tội
Chơn-truyền từ trước đến nay Đức Chí-Tôn để tại mặt thế trên các Đạo: Phật, Tiên, Thánh, là phương để gội rửa linh-hồn mà thôi. Đức Hộ-Pháp nói:
“Nhứt là Công-giáo có phép xưng tội là một Bí pháp, nhưng ta không hiểu tại sao Chí-Tôn lại không truyền chơn-pháp.
Ta nghĩ, có lẽ Đức Chúa Jésus-Christ đã ban quyền cho những đại-diện của Ngài tức là người cầm quyền Hội Thánh có đủ năng-lực xá tội, nhưng trong hai đàng là kẻ xá tội và kẻ xưng tội; cũng có lẽ có người không thực tâm xưng tội, hoặc người không xứng đáng là ngừơi xá tội. Nếu xét ra người đến xưng tội và người xá tội cũng đều là phàm cả, chưa biết người này có xá tội được cho người kia chăng? Thảng không đủ quyền tha tội càng thêm mang tội hơn nữa. Hễ có tội tức là có hình, có hình tức có phạt, có phạt phải thành án, mà án tiêu mới hết tội. Nên hễ có tội thì phải trả, mà có trả rồi thì hết tội”..
(Đức Hộ-Pháp 1-7 Mậu Tý 1948)
2- Nhận dạng Bí tích
Tại sao cũng thời là người mà không ai giống ai? Trách nhiệm, quyền hành cũng không giống nhau? Cuộc đời thăng trầm cũng không giống nhau? Có ai biết được?
Nhưng duy chỉ biết được một phần nào trong cái cơ vi bí mật của Tạo hoá có thể từ trong kiếp trước, nay qua kiếp này còn lại một ít dấu tích mà người “sành đời” mới nhận biết hay đoán ra được thôi. Đó gọi là Bí tích.
Trong cửa Đạo Cao-Đài ngày nay: Một Đấng mà toàn Đạo rất là tôn trọng đây là Đức Hộ-Pháp, có ai biết được Ngài là ai? Cũng vì theo trí phàm mà trước đây có nhiều sự ngộ nhận về Ngài, vì nghĩ rằng Ngài nhỏ tuổi không quyền thế, nên coi thường Ngài. Đến khi có Luật, Pháp, phân ngôi cao thấp thì sinh ra ganh tỵ, không nễ nang nhau, vì ngỡ rằng Ngài nhỏ tuổi thì cái gì cũng nhỏ, Đức Chí-Tôn cho là lầm lắm!
Đức Hộ-Pháp là hiện thân của Đức Chúa Jésus Christ.
Làm sao biết được?
Trong
năm 1956, thời gian Ngài còn lưu vong nơi Miên Quốc, Kim biên Tông Đạo.
Công việc tắm rửa cho Ngài là của Ba Hiệu, hôm ấy Ba Hiệu bị cảm không
lo cho Ngài được nên nhờ Ông Út Thoại (Hữu Phan Quân Lê Văn-Thoại) làm
thay. Đang tắm kỳ lưng cho Ngài thấy sau lưng hiện lên một Thiên-Nhãn
hào quang sáng chói, trông việc lạ, ông quan sát tiếp thấy bên hông có
vết sẹo lớn và hai bàn tay cũng như hai bàn chân có dấu đóng đinh, còn
trước trán hiện lên chữ Vạn . Khi tắm xong và mặc đồ cho Ngài rồi, ông Thoại tự tay đóng cửa phòng tắm lại, đoạn quì xuống bạch với Đức Ngài rằng:
“Có phải Thầy là Chúa Jésus Christ Hộ-Pháp Di Đà không?”
Đức Hộ-Pháp quở:
- “Đồ quái gỡ. Ai bảo con hỏi?”
Ông Thoại bạch:
- Thưa Thầy do con thấy Thiên Nhãn sau lưng Thầy và trước trán hiện lên chữ Vạn và vết sẹo do CHÚA bị đóng đinh trên Thập Tự giá”.
Đức Thầy dạy:
- “Con không được tiết lộ nghe!”
Ông Phạm Công Tắc nguơn linh là Ngự Mã Thiên Quân Hộ-Pháp Di-Đà. Hiện Ngài nắm Ba Châu trên cõi Trời, nên nhơn sanh niệm danh Ngài là “Nam mô Tam Châu Bát Bộ Hộ-Pháp Thiên Tôn”. Nhưng khi ngự ngai thì mặc Đại phục có Mão và “Người phải mặc giáp, đầu đội Kim Khôi toàn bằng Vàng, trên Kim Khôi có thể Tam Sơn, giống như cái chỉa ba ngạnh, chủ nghĩa là Chưởng Quản Tam Thiên bên Tây Phương Cực Lạc”. (PCT)
Do đó mà khi thuyết giảng Đức Ngài có dạy rằng lẽ ra câu niệm phải là “Nam mô Tam Thiên Thế giới Hộ pháp giáng lâm” nhưng vì đã thành thói quen niệm như trên nên không sửa.
Đức Hộ-Pháp nói về quyền hành của Ngài:
“Bần Đạo duy muốn làm Bạn với con cái Ngài, nên phẩm vị PHẬT SỐNG của Đức Chí Tôn để cho Bần Đạo, mà Bần Đạo chưa có ngồi. Ấy vậy mê tín dị đoan trong cửa Đạo Cao Đài không có và không cần có, quả quyết hẳn vậy, nên đình lại Bí pháp chơn truyền, nếu thuyết ra là lấy cái quyền năng mê tín dị đoan mà thắng thiên hạ là một điều hèn nhát nên Bần Đạo không dùng, để khi nào dùng được Bần-Đạo sẽ dùng. Bần Đạo hứa chắc sẽ giáo hóa cho con cái Đức Chí Tôn mà thôi”.
Đức Hộ-Pháp làm phận sự của Chí-Tôn giao phó.
Đức Ngài nói:
“Chỉ Qua biết phận sự của Qua là Đại-Từ-Phụ giao phó với một lời yếu thiết như thế này:
- Tắc, đời quá khổ chẳng phải khổ về xác thịt mà thôi, mà lại khổ đến tinh thần nữa, nạn của nhơn loại tương tàn tương sát sắp đến. Thầy giao cho con một cây CỜ CỨU KHỔ, chẳng phải cứu khổ tinh thần mà thôi, lại lẫn cả thể xác nữa. Trọng hệ hơn hết là điều ấy Thầy giao phó cho con, nhưng mà con phải hiểu: có khổ về tinh thần mới biến sanh ra khổ của thể xác.
Thầy nói rõ Thầy giao cho một gánh Đạo và Đời.
Thực sự ra Bần Đạo xin thú thật, gánh của Đạo chẳng hề khi nào làm cho Bần-Đạo khủng khiếp. Duy có gánh của Đời, Ngài giao phó nó nặng nề hơn hết…”
Về việc “Bí Tích” này Ông Thoại rất tôn kính và giữ nơi lòng không dám nói ra cho một ai biết. Chỉ duy ông Sĩ-Tải Huỳnh-Văn Hưởng thuở sanh tiền thường ghi chép tài liệu và thân cận với Ông Hữu Phan Quân Lê văn Thoại nên có ghi lại. Tình cờ tôi biết được, nhưng hai vị này còn sinh thời, tôi không dám tiết lộ sớm, nhân có một em ở Tiền giang yêu cầu tôi nên viết về những bí sử, tôi vẫn còn e ngại, nhân hôm nay thấy ông Thanh Minh đã phổ biến những vấn đề này tôi mới tùng theo và ghi vào quyển “Bí pháp Cao-Đài” mà tôi đang soạn.
Được biết Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là Ngự Mã Thiên Quân tức là người đánh xe (ngự là đánh xe) của Đức Ngọc Đế, giáng trần làm Hộ Pháp cầm cây Kim Tiên, còn cây Giáng Ma Xử trấn ở Thiên môn. Mãi đến khi Đức Hộ-Pháp triều Thiên rồi mới dám viết nên lời này: “Đức Ngài chính là Chúa Jésus Christ Hộ-Pháp Di Đà” đó vậy.
Trong tài liệu này vị Phạm Thanh có đề cập đến thuở xưa Đức Di-Lạc đang tắm với ông Cư-sĩ họ Trần nơi suối Trường Đình, đưa lưng nhờ ông Cư sĩ kỳ giùm, bỗng thấy hiện bốn Thiên Nhãn sau lưng Phật Di-Lạc.
Sự so-sánh này để thấy vào hàng Phật thì có nhãn quang chiếu khắp cõi ta bà để cứu nhơn độ thế. Phật Di Lạc là một trong ba vị Cổ-Phật là: Nhiên Đăng, Di-Đà và Di-Lạc. Còn Hộ-Pháp Di-Đà là Ngự Mã Thiên Quân của Đức Chí-Tôn thay thế cho Ngài giáng trần chuyển Pháp lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Ngài là Đấng thay quyền cho Cực-Lạc Thế giới chuyển pháp.
Nhân đó, nhìn trong Đạo phục của Chức sắc Đại
Thiên phong bên Cửu Trùng Đài như Chưởng Pháp phái Ngọc “Bộ Ðại Phục thì toàn bằng màu hồng (màu Ðạo) nơi trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí (PCT)”.
(Chưởng Pháp phái Thượng cũng như trên nhưng đặc biệt thay bằng màu Trắng)
- Ngoài ra thì Pháp Chánh Truyền còn dạy rõ là phẩm Giáo sư “nơi trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng vô vi, áo ba dải”.
- Chánh Phối Sư thì áo chín dải, còn Phối Sư ba dải. Ðạo Phục cũng có hai bộ phân biệt (Ðại Phục và Tiểu Phục) như của vị Ðầu Sư, song trước ngực và sau lưng cóthêu Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng vô vi.
- Riêng Đầu sư thì khác, nơi trước ngực và sau lưng có “thêu sáu chữ Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ, bao quanh ba vòng vô vi”.
Thiên Nhãn ở trước ngực là sự nhập tâm về giáo lý, giáo pháp của Đại-Đạo. Thiên Nhãn ở sau lưng là sự phát huy lý Đạo, như hào quang chiếu diệu khắp nơi để Phổ Độ chúng sanh trong cơ chuyển thế và cứu thế này. Nhưng đây chỉ là “thêu Thiên Nhãn”.Còn Thiên Nhãn thực thì mỗi người phải ra công tu tập mới có được vậy.
3- Hỏi vậy ngày xưa Chúa đã chịu nạn cho
nhân loại như thế nào?
Đức Hộ-Pháp nói:
“Ðức Chúa Jésus-Christ thương nhơn loại một cách nồng nàn thâm thúy. Bởi Ngài đã ngó thấy:
- Nhứt Kỳ Phổ-Ðộ nhơn loại ký Hòa-ước với Chí Tôn mà đã bội ước, nên phạm Thiên-Ðiều, nhân-quả nhơn loại gớm ghiết. Do nhân-quả ấy mà tội tình nhơnloại lưu trữ đến ngày nay, Thánh-Giáo gọi là “Tội Tổ tông”.
- Chính mình Ngài đến, đến với một xác thịt phàm phu, Ngài đến giơ tay để ký Đệ Nhị Hòa ước với Ðức Chí Tôn chịu tội cho nhơn loại, ký đệ nhị Hòa-ước đặng dìu dắt chúng sanh trở về cùng Ðấng Cha lành của họ tức nhiên là Ðức Chí-Tôn, là Ðại Từ-Phụ chúng ta ngày nay đó vậy.
Ðấng ấy vô tận vô biên, thấy nạn của nhơn loại đã dẫy-đầy, Ngài chỉ xuống tại mặt thế nầy làm con tế vật đặng chuộc tội tình cho nhơn loại, mà lại còn đem quyền của Chí-Tôn để nơi tay của nhơn loại, bàn tay đó đã ký đệ nhị Hòa-ước cho nhơn loại, nó làm cho Ngài thế nào?
- Do tay Ngài ký tờ Hòa ước với Chí Tôn, nên hai tay của Ngài bị đóng đinh trên cây Thập Tự giá. Hai chân của Ðấng ấy đã đi trước nhơn loại dìu đường hằng sống cho họ, rồi hai chân của Ðấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây Thánh-Giá, còn trái tim yêu ái nhơn sanh vô hạn ấy bị một mũi kiếm vô tình đâm ngay cạnh hông của Ngài, lấy giọt máu cuối cùng đó đặng cứu nhơn loại, một tình ái vô biên ấy để lại cho loài người một tôn chỉ yêu ái. Tôn chỉ nhìn nhơn loại là anh em cốt nhục và khuyên nhủ nhơn loại coi nhau như đồng chủng.
“Ðức Chúa Jésus Christ đã lấy máu thịt đặng chuộc tội cho loài người. Giờ phút nầy là giờ hiển Thánh của Ngài dùng quyền hành yêu ái vô biên của Ðức Chí Tôn mà tha tội cho nhơn loại đó vậy”.
Làm sao biết được Đức Hộ-Pháp là hậu thân của Đức Chúa? – Bài thi khoán thủ “Hộ-Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài” có câu:
Nhị kiếp Tây Âu cầm máy tạo,
Hữu duyên Đông Á nắm Thiên thơ.
Nếu kiếp thứ nhì Người đến thế này cầm máy tạo nơi “Tây Âu” do Thiên thơ định đoạt là Đức Chúa Jésus,
thì kiếp thứ nhứt là ai? – Chính là Phật Thích Ca.
Còn kiếp thứ ba hay kiếp hiện tại là Hộ-Pháp Phạm Công Tắc. Qua “bức hình ba mặt” thì gồm có Hộ pháp, Phật Thích Ca và Đức Chúa, cho ta kết luận ấy. Tức là ngày nay thì Ngài: “Hữu duyên Đông Á nắm Thiên thơ”. Chính Đức Ngài đang hành quyền Hộ-Pháp đó vậy.
Hiện tại hàng rào quanh Hộ-Pháp-Đường là hình ảnh Thập Tự Giá trang trí thành những cây sắt đứng, cốt để nhắc nhở cho nhơn sanh thấy rằng biểu tượng “Thập Tự Giá” là hình ảnh của Chúa Cứu Thế đó.
Đức Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có trả lời Đức Hộ-Pháp về nguyên linh VI-HỘ khi Ngài cầu hỏi:
(Báo Ân Đường Kiêm Biên, ngày 15-8-Bính Thân (dl 19-9-1956). Phò loan: Hộ Pháp - Bảo Đạo)
- “Phải! Thì trước đầu kiếp vào nhà họ VI, còn nay vào nhà họ PHẠM. Điều đó có chi khó hiểu mà phỏng đoán. Tiên tri của Bần Tăng đã nhiều và chỉ rõ Việt Nam xuất Thánh thì đã hẳn rồi, còn chi không rõ rệt. Hơn nữa lại còn một điều trọng hệ hơn là DI-LẠC giáng linh, thì Thiên Tôn đã thấy rằng, tiên tri vốn không sai sót. …. Vui mừng hơn nữa là từ đây thiên hạ sẽ hiểu rõ Thánh chất của Thiên Tôn và ngọn cờ cứu khổ sẽ cứu quốc cho giống nòi Việt Nam, rồi loan ra cho toàn thế giới chung hưởng.”
Quả thật ngày nay Vi Hộ đắc quả Phật Hộ Pháp, gọi là VI HỘ PHÁP,hộ giá Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế. Thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Vi Hộ Pháp đầu kiếp xuống trần vào nhà họ Phạm, tên là Phạm Công Tắc, làm Tướng soái cho Đức Chí Tôn khai Đạo cứu Đời
B-Tìm hiểu nguơn linh của các bậc tiền bối:
Trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nầy, Bát Tiên lâm trần độ chúng sanh bằng thi phàm xác thịt là các ông:
1. Lê Văn Trung 2. Cao Quỳnh Cư
3. Cao Hoài Sang 4. Ca Minh Chương
5. Lâm Quang Bính 6. Huỳnh Hương Hồ
7. Vương Quan Kỳ 8. Ngô Văn Chiêu
BÁT TIÊN LÂM TRẦN
Việc chi trên cõi vũ trụ tuần hoàn này cũng do Thiên Thơ định sẵn. Lúc mới thâu Môn đệ đầu tiên, Đức Chí Tôn đã dùng Huyền diệu cho Ngài Ngô văn Chiêu thấy cảnh Bồng Lai để ham Đạo mà tu hành, làm người nhân chứng thứ nhứt trong cửa Đạo. Chính cảnh Bồng Lai báo hiệu cho Bát Tiên giáng phàm lập Đạo cứu đời.
Vào đêm 17-6-Qúi Hợi (dl 30-7-1923) tại Miếu Nổi, Tào Quốc Cựu giáng cơ khuyên tu như sau:
“Chư Nhu có phước có duyên nên mới gặp Đạo ở kỳ thứ ba “Hữu duyên đắc ngộ Tam Kỳ độ”. Tiên Thánh đều lâm phàm mà độ kẻ nguyên nhân”(Đại Đạo căn nguyên)
Miếu Nổi nằm trên cồn đất độ trăm thước ở giữa sông Bến Cát, một nhánh của sông Bình Lợi (Gia định). Theo sách Tử Nguyên và Quảng sự Loại, Bát Tiên là những người phàm tu thành Tiên. Kể thứ tự như sau:
1. Lý Thiết Quả 2. Chung Ly Quyền
3. Lữ Đồng Tân 4. Trương Quả Lão
5. Lam Thể Hòa 6. Hà Tiên Cô
7. Hàn Tương Tử 8. Tào Quốc Cựu
Trước tiên Ðức Lão Tử độ Lý Thiết Quả; sau khi đắc đạo, Lý Thiết Quả độ Hớn Chung Ly và Hớn Chung Ly độ Lữ Ðồng Tân. Độ tất cả tám người thì lập thành Bát Tiên. Lữ Ðồng Tân là Đệ tử của Hớn Chung Ly.
1- Lý Thiết Quả hay Lý Ngưng Dương
Là nguơn linh của Ông Lê Văn Trung
(1876 - 1934)
Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt
Lý Thiết quả người đất Giáp, sinh đời nhà Tùy, tên là Hồng Thủy, tiểu tự Thiết Quả (hay Quẩy). Người khôi ngô, tu luyện ở Nham Động. Trước khi xuất Chơn thần đi học với Đức Lão Tử, Thiết Quả dặn đệ tử: giữ xác Ta ở đây, hồn Ta đi trong 7 ngày. Sau thời gian đó Ta không về thì hủy xác. Mới 6 ngày, mẹ học trò bị chết, người học trò vội hủy xác Thầy. Lý Thiết Quả xong việc trở về, không thấy xác, nhập vào tử thi của một kẻ hành khất. Ngài biến bị và gậy của kẻ ăn mày thành “Bầu Hồ lô và gậy sắt” làm Bửu pháp của Ngài. Do đó, Lý Thiết Quả chân què, mặt và thân hình xấu xí, tay cầm bầu rượu.
Đức Lý Ngưng Dương hay Lý Thiết Quả cho thi:
“Đại hỉ chư Đạo-hữu:
Trời đất riêng tay giữ một bầu,
Ngàn mây dặm gió gót chơn thâu.
Rừng tòng thong-thả nhàn ra dạo,
Đền Ngọc thung-dung rảnh đến chầu.
Thoát tục sớm dìu nên Bảy bạn,
Dẫn phàm nay rảo khắp Năm châu.
Thế trần mừng gặp Tam-Kỳ độ,
Biển khổ thuyền đưa khách lánh sầu.
Lý-Ngưng-Dương
Hai vị nầy có điểm giống nhau là hay cứu người.
Ngài Lê văn Trung quê ở Chợ Lớn, sinh ra trong một gia đình Nho phong. Ông rất thông minh năm 17 tuổi đã được bổ vào ngạch Thư ký Soái phủ Nam Kỳ. Năm 1906, ông đắc cử Hội Đồng Quản Hạt. Năm 1911, ông đề xướng trường Nữ Học Đường, được thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh. Ông Lê văn Trung được Đức Cao Thượng Phẩm độ vào cửa Đạo năm Ất Sửu (Dl 6-10-1925).
Ông từ chức Nghị viên, phế đời hành Đạo:
Ngày 23-4-1925 đắc phong Đầu Sư, Thánh danh Thượng Trung Nhựt.
Ngày 03-10-Canh Ngọ (1930) Đức Lý Giáo Tông ban cho Ngài phẩm “Quyền Giáo Tông” hữu hình.
Đức Quyền Giáo-Tông Lê văn Trung hành Đạo: Tính từ ngày Khai Đạo là 15-10- Bính Dần (19-11-1926)
Lúc Ngài qui Tiên ngày 13-10-Giáp Tuất (19-11-1934).
đúng 8 năm tròn, không thừa không thiếu 1 ngày. Điều ấy đúng vào con số Bát Tiên mà Ngài là vị Tiên trưởng. Về lý Đạo thì Ngài đã nắm trọn Bát Quái Cao Đài vào tay.Ấy là Đấng đã “thay Trời tạo thế” trong nền Đại-Đạo.
Tượng Đức Quyền Giáo-Tông LÊ VĂN TRUNG đứng trên quả đất đặt trước Bạch Ngọc Chung Đài (lầu chuông) của Đền Thánh. Nguơn linh Ngài là Lý Ngưng Dương hay là Lý Thiết Quả.
Hiện nay Tháp của Ngài đặt phía sau Bát Quái Đài Đền Thánh - Toà Thánh Tây Ninh-.
Đức Hộ Pháp đề Thần Lý Ngưng Dương du Nam:
Bầu linh gậy sắt quảy du Nam,
Nương bóng Từ Bi đến cõi phàm…
Bảy Bạn ai còn nơi cõi thế,
Đông du xin nhắc chuyện ông Lam.
(1949)
Tượng, Đức Quyền Giáo Tông tay trái cầm gậy sắt, tay phải cầm quyển Thiên Thơ (Bộ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển) đúng câu “Cầm mối Thiên Thơ lo cứu chúng”.
Cũng nên phân biệt những quyển sách có trên các bức Tượng trong Đền Thánh như:
- Đức Khổng-Tử tay cầm quyển sách cuộn tròn ấy là Bộ Xuân-Thu mà bình sinh Đức Ngài đã san định. Nay là buổi Cao-Đài Đại-Đạo nên bộ Xuân Thu trở thành Cổ pháp của Đạo Thánh, là một trong Cổ-pháp Tam giáo:
“Xuân-Thu, Phất chủ, Bát-vu,
“Hiệp qui Tam-giáo hữu cầu chí chơn”.
(Kinh Phật-Mẫu)
- Đức Quan-Thánh tay cầm sách mở ra, cũng là bộ Xuân-Thu, nhưng Đức Quan-Thánh là người học ở Bộ Xuân Thu, lập chí từ đó “Chí tại Xuân Thu tâm tại Hớn”.
Như vậy là có cả thảy ba bộ sách cũng vừa đủ cho người Cao Đài suốt thông lý Đạo, là số ba tròn đầy rồi!
Như vậy Giáo Tông trong cửa Đạo có các Ngài:
- Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo-Tông Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ là Giáo-Tông chánh vị, thuộc về Thần.
- Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, chỉ mới “Quyền” thuộc về Khí.
- Ngài Ngô văn Chiêu thì Đức Chí-Tôn định ban phẩm Giáo-Tông, trong thời gian 10 ngày thì bị biếm. Nhưng Ngài cũng có công “mời gọi” các bậc lương sanh, truyền lại phương thức thờ Thiên Nhãn Thầy, thuộc Tinh.
Vậy Tinh - Khí - Thần đã đủ. Thế nên trong cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này không một ai có quyền xưng là Giáo-Tông nữa cả.
Thánh ngôn Đức Lý có dạy ngày 19 - 3- 1928:
“Ðại hỉ, Ðại hỉ ! Cười... Lão cũng nên cắt nghĩa phẩm vị của chư Hiền hữu. Tỷ như ngôi của Thượng Ðầu Sư, Ngọc Ðầu Sư, Thái Ðầu Sư, Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, hay là Giáo Tông của Lão đi nữa, dầu ngày sau có nhượng cho ai, thì họ ngồi địa vị của mình, chớ chẳng hề ở thế nầy có hai Thái Bạch, hai Thượng Trung Nhựt, hai Ngọc Lịch Nguyệt, hai Thái Nương Tinh, hai Hộ Pháp, hai Thượng Phẩm, hai Thượng Sanh bao giờ, hiểu à!”
2- Hớn Chung Ly hay Chung Ly Quyền
Là Nguơn linh ông Cao Quỳnh Cư
(1887-1929)
Thượng Phẩm Hiệp-Thiên-Đài
Do điển tích “Hớn rước Diêu Trì” nơi Báo-Ân-Từ:
Vốn là Vua Hớn Vũ Đế có lòng mộ Đạo và sùng kính ĐỨC DIÊU-TRÌ-KIM-MẪU hơn hết trong các triều đại. Ngài là Vua thứ V của nhà Hán (Hớn) bên Tàu khoảng 141-87 trước Tây lịch, nghĩa là cách nay hơn 2.000 năm, Ngài có lập một cảnh chùa cực kỳ tráng lệ gọi là Hoa Điện để sùng kính Đức Diêu-Trì. Nhân ngày lục tuần, Ngài thiết lễ ăn mừng, được một vị Tiên ĐÔNG PHƯƠNG SÓC đến mách bảo cho cách thức để thỉnh Đức Phật Mẫu Diêu-Trì về ngự.
Thường, Đức Mẹ Diêu Trì cỡi con chim Thanh loan tức là con chim linh của Đức Phật-Mẫu. Theo hầu, có 4 vị Tiên-Đồng Nữ Nhạc là: Hứa Phi Yến, An Phát Trinh, Đổng song Thanh, Vương Tử Phá. Đồng thời có 9 vị Tiên Nương theo sau Đức Phật Mẫu. Khi đến ngự nơi Hoa Điện Đức Phật Mẫu có ban cho HỚN VÕ ĐẾ bốn quả Đào Tiên. Ông Đông Phương Sóc hai tay nâng cái dĩa để nhận tặng vật ấy.
Do theo điển tích này mà trên bức hình đều được đắp tượng nổi để tỏ lòng ngưỡng vọng Đức DIÊU TRÌ KIM MẪU. Hình ảnh Hớn-Võ-Đế đắp theo gương mặt của Đức Cao Thượng Phẩm, vì chính Đức Cao Thượng Phẩm là hậu thân của Hớn Chung Ly hay còn gọi là nguơn linh của Ngài.
Cuối năm Tân Mão (1951) Báo-Ân-Từ xưa bị hư mục qua 20 năm, giờ này được chuẩn bị để kiến tạo lại ngôi Báo Ân Từ cho khang trang. Phần trang trí được tạo dưới hình thức mới mẻ hơn, đắp vẽ bằng Tượng nổi do theo điển tích “HỚN RƯỚC DIÊU TRÌ”nói trên.
Hớn Chung Ly do từ tên Chung Ly Quyền, tự Vân Phòng, người đất Hàm Dương, làm tướng đời Hớn. Chung Ly râu dài, mặt sáng, mình cao tám thước nên được vua Hớn phong làm Nguyên soái đi đánh quân Phiên. Lý Thiết Quả thấy Chung Ly ham chinh chiến nên khiến cho thất trận chạy lạc vào núi gặp Đệ tử của ông là Đông Huê. Ông ấy mời cơm chay rồi nói “Công danh như bọt nước, phú quí như đèn trước gió. Thừa dịp này, Tướng quân nên đi tu, ham chi phú quí”.
Chung Ly hỏi: Luyện phép chi được sống lâu?
Đông Huê đáp: Trống lòng là đừng lo chi cả, đặc bụng là không đam mê sắc dục, lo gì không trường thọ. Chung Ly Quyền xin thọ giáo. Sau gặp Chính Dương Chơn Nhơn truyền thêm phép Tiên và đắc Đạo. Tay ông cầm cây Long Tu Phiến (quạt kết bằng râu Rồng).
Hớn Chung Ly giáng Cơ:
“Chư Đạo-hữu may mắn thay, gặp đường Chánh giáo, chớ dần-dà, trễ công thiếu quả, mà chẳng đến thang Thiêng-liêng kịp thì Hội vị. Lão mong ngày Đạo khải hoàn, chư Đạo-hữu nên gắng sức. Đường cũng chẳng bao xa, miễn hiệp đồng nhứt tâm vì sanh chúng, sau còn ngày gặp-gỡ. Cho thi:
Rảo khắp non sông dặm trải qua,
Bì gương nhựt nguyệt tác không già.
Biển trần nay gặp kỳ dìu chúng,
Muôn dặm đèn soi đã có TA !
Hớn-Chung-Ly
Ðức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư, nguơn linh là
Hớn Chung Ly trong Bát Tiên và tiền thân là vua Hớn Võ
Ðế xưa. Ban đầu Bát Tiên do Lý Thiết Quả cầm đầu.
Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư Chưởng quản chi Đạo (Hiệp Thiên Đài) tuổi Mậu Tý (1888). Qui thiên ngày 1 tháng 3 năm Quí-Tỵ (1929).
“Đức Cao Thượng Phẩm làm sứ-mạng của Chí Tôn đến tạo dựng nền Tôn giáo tại thế này. Người cùng với Đức Hộ-Pháp họp thành cặp cơ phong Thánh lập Pháp Chánh truyền và Tân-luật để làm Hiến-chương cho nền Quốc Đạo.
“Chúng ta phải nhìn-nhận đầu công khai Đạo của Đức Cao Thượng-Phẩm, vì nếu thiếu bàn tay xây dựng của Người để chấp Cơ cùng Hộ-Pháp thì:
- Đâu có Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ.
- Đâu có Chức-sắc Thiên-phong Nam Nữ.
- Đâu có Hội-Thánh và các cơ-quan trong Đạo.
- Đâu có Pháp-Chánh-Truyền và Tân-luật.
-Đâu có đại-nghiệp hiện giờ cho nhơn-sanh thừa hưởng.”
Đến khi khởi công xây dựng Thánh Thất tức là nhà chung của Đạo (là Thánh-Thất tạm trước khi xây Đền Thánh bây giờ) thì Đức Thượng-Phẩm là người đứng ra cùng góp công với nhân-sanh bứng gốc phá chồi, thật là Đấng đã khai sơn phá thạch cùng với Đức Hộ-Pháp tạo nên một ngôi thờ phượng khang-trang, một ngôi Tổ đình lưu lại cho nhơn-sanh một đức-tin tuyệt-đối. Nhưng đại nghiệp ấy mới nửa chừng Người phải về Thiêng-liêng làm nhiệm-vụ của Đức Chí-Tôn giao-phó, đành buông gánh Đạo lại cho Đức Hộ-Pháp một tay lèo-lái. Với hai Đấng đầu công thật là công-trình vẹn-vẻ, vừa lo phần Thể pháp, vừa thực hiện Bí-Pháp của Đạo, hai Ngài đã thể hiện cơ Âm Dương tương đắc vậy.
Với lời minh-chứng của Đức Hộ-Pháp như sau:
“Bần-Đạo xin nhắc lại, xin làm chứng cho cả thảy con cái Đức Chí-Tôn: Nam Nữ cũng vậy. Nếu toàn thể con cái của Ngài một đôi triệu chơn linh mà có Đức-tin vững chắc như Đức-tin của:
- Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư,
- Đức Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt,
- Hộ-pháp Phạm-Công-Tắc.
Nếu cả thảy đều có Đức-tin vững-vàng dường ấy Bần-Đạo dám nói chắc rằng: Các người dời núi Bà xuống
châu-thành Sài-gòn cũng đặng. Có thể nói: nền Đạo Cao Đài này thiệt-hiện được như ngày nay là nhờ Đức-tin của Thượng-Trung Nhựt.”
Đức Hộ-Pháp nói lý do:
“Cả toàn con cái Đức Chí-Tôn buổi nọ còn lại có ba người. Thật ra hồi ban sơ chỉ có ba người. Ba người ấy thiên-hạ kêu là ba người lỳ, ba người ấy là:
- Đức Cao-Thượng-Phẩm
- Đức Quyền Giáo-Tông
- Và Bần-Đạo đây (Hộ-pháp)
“Chúng tôi nhứt tâm, nhứt trí quyết làm cho thành Đạo, cho vừa lòng Đức Chí-Tôn. Bởi vì không biết duyên cớ nào chúng tôi hiểu rằng: chúng tôi phải báo hiếu cho Đức Chí-Tôn và tự nhiên quyền-năng thiêng-liêng giúp chúng tôi biết ĐẠO CAO-ĐÀI này tương-lai sẽ cứu quốc, cứu chủng-tộc và giống-nòi.”
…Kể từ đó bị khảo miết: Đức Cao Thượng-Phẩm bị khảo đến ngày giờ chót. Ngày giờ cuối cùng, nằm trên giường bịnh cho tới hơi thở cuối cùng không buổi nào không bị khảo, không buổi nào không bị nhục-nhã. Cái luật thiên-nhiên không có điều gì xin-xỏ, điều gì cũng phải mua chuộc.
Bần-Đạo đã quyết rồi, xin để Bần-Đạo kết luận: Bởi mua chuộc với cái khảo-đảo, nhục-nhã của đời, để bảo-trọng danh-giá của Ngài. Ngày nay Ngài sang-trọng vô đối.”
Giữa nguơn linh và hiện kiếp: Hai vị này có điểm giống nhau là rộng tâm tu, xả thân cầu Đạo.
Ngài Cao Quỳnh Cư sinh trong gia đình Nho phong Lễ giáo ở Hiệp Ninh (Tây Ninh).
Thời kỳ làm Thơ ký Sở Tạo Tác tại Sài Gòn, ông thường cùng các bạn họp Xây bàn, được Đấng AĂÂ giáng
đàn cho thi. Sau được Đức Phật Mẫu và Thất Nương hướng dẫn vào đường Đạo.
Ngày 23-4-1925, ông thọ phong Thượng Phẩm, sau khi lập bàn Vọng Thiên cầu Đạo (ngày 1-11-Ất Sửu).
Ngày 7-10-1926 lập Tờ khai Đạo với chánh phủ.
Ngày 18-11-1926 (14-10-Bính Dần) thiết Đại Lễ Khai Đạo tại Từ Lâm Tự. Ngài phò cơ viết ra Bộ Pháp Chánh Truyền thành lập Hội Thánh.
Năm 1928, Ngài bị khảo đảo, sau khi Thánh Thất dời về Chùa mới ở làng Long Thành. Quá đau lòng, Ngài lâm bịnh và qui Tiên (ngày 1-3-Kỷ Tỵ) tại Thảo Xá Hiền Cung. Tháp Ngài đặt phía trái, trước mặt tiền Đền Thánh.
3- LỮ ĐỒNG TÂN
Là nguơn linh của ông Cao-Hoài-Sang
( 1900 - 1971)
Thượng-Sanh Hiệp Thiên Đài.
Lữ Đồng Tân tên là Nham, tên chữ là Đồng Tân, thuộc gia đình vọng tộc đời Đường.
Ông mắt phụng, mày tằm, tay dài, cổ cao, mũi thẳng, xương gò má nhô lên, thích ăn mặc như đạo sĩ, năm 20 tuổi lấy hiệu là Thuần Dương, thi đỗ Cử nhân..
/
Khi đến Trường An, Lữ Đồng Tân gặp Chung Ly Quyền trong một quán trọ. Chung Ly muốn độ ông tu Tiên nên bày việc nấu nồi kê. Trong khi Lữ Đồng Tân ngủ mê nơi quán, thấy mình thi đỗ Trạng Nguyên cập đệ, hai lần cưới con gái nhà quyền thế. Có gia đình, con cháu đủ đầy, đều đỗ đạt vẻ vang, hạnh phúc trong 40 năm. Sau bị nịnh thần vu oan, tịch thâu gia sản và đày qua núi Lãnh Biểu, cực khổ vô cùng, ông ôm mặt khóc rồi giựt mình thức giấc. Ông thấy Chung Ly Quyền còn nấu nồi kê chưa chín nên phá lên cười và nói: “Huỳnh Lương do vi thục, nhất mộng đáo Hoa Tư” (Nồi kê chưa chín, mộng đã đến nước Hoa Tư). Rồi ông quay sang Chung Ly hỏi: Ông biết tôi nằm mơ thấy gì không ?
Chung Ly đáp: Chiêm bao 40 năm, công việc cả muôn mà không đầy giây lát. Việc được không đủ mừng, việc mất không đủ lo, nhưng có ý thức đại giác, thế gian nầy chỉ là giấc mộng lớn mà thôi. Lữ Đồng Tân nghe lời nói phải, giác ngộ, bèn lạy Chung Ly Quyền và xin theo học phép tu Tiên. Sau Lữ Đồng Tân đắc Đạo, tay cầm Thư Hùng Kiếm. ..
Lữ Đồng Tân giáng Cơ:
Chư Đạo-hữu, Đức Chí-Tôn dìu bước, cả Tiên Phật dẫn đàng, há chẳng sớm lánh phồn hoa, đặng dồi dào gương độ chúng. Huống chi, chư Đạo-hữu đã có quả nơi mình, lại chẳng vì mạng lịnh Đức Từ-Bi, mà chịu ít lâu khổ hạnh, hầu mong buổi đoạt phẩm-vị Thiêng-liêng sao?
Ước mong ngày hội ngộ, trông mong buổi tạc thù, rượu Thánh ra non dòm thế, cờ Thần dựa đảnh luận đời. May thay! Vui thay! Chư Đạo-hữu nên gắng sức! Thăng.
Riêng vui nguyệt chiếu sắc trong ao,
Đền ngọc từng khi để bước vào.
Rảnh hứng trăm hoa khoe Đảnh Ngự,
Nhàn vầy mấy Bạn dự Bàn-Đào.
Độ đời rảo gót non sông lướt,
Cứu thế dìu nhân đạo-đức trau.
Chờ buổi tuần huờn Thiên Địa trở,
Nương gươm Thần huệ một vừng cao.
Lữ-Đồng-Tân
Nguơn linh còn vọng lại trong hiện kiếp: Lữ Đồng Tân vốn thổi tiêu, tâm hồn thích tiêu dao với thiên nhiên cùng tiếng nhạc dìu dặt. Ngài Thượng Sanh Cao-Hoài Sang đã mời nhiều đoàn nghệ sĩ về Thánh Địa diễn các vở tuồng do Ngài biên soạn được khán giả và đồng Đạo hoan nghênh nhiệt liệt.
Ngài Cao Hoài Sang, sinh ngày 11-9-1900 tại xã Thái Bình, tỉnh Tây Ninh. Thân sinh là cụ Cao Hoài Ân, một vị Thẩm Phán đầu tiên tại Miền Nam và thân mẫu là Bà Hồ Hương Lự (Nữ Đầu Sư Hàm phong). Đức Ngài là con út trong gia đình có ba anh em. Người anh cả là Ngài Cao Đức Trọng Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài và chị là Giáo Sư Cao Hương Cường (Giám đốc Cô nhi viện Tây Ninh).
Sau khi thi đỗ bằng Thành chung, Đức Ngài vào làm việc tại Sở Thương Chánh (tức Quan thuế Sài gòn) cho đến chức Tham Tá Thương Chánh rồi hồi hưu.
Trong thời gian làm viên chức, Ngài còn là một Nhạc sĩ tài hoa của trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon.
Đức Thượng Sanh là một trong những bậc tiền khai Đại-Đạo. Ngài góp công nhiều trong nền Đạo Cao-Đài:
Ngày 30-10 Ất-Sửu (dl 15-12-1925)
Ông AĂÂ giáng dạy rằng:
“Ngày mùng 1 tháng 11 này (dl 16-12-1925) Tam vị phải VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO.
Tắm gội cho tinh-khiết, ra quì giữa Trời cầm 9 cây
nhang mà vái rằng:
“Ba Tôi là: Cao-Quỳnh-Cư, Phạm-Công Tắc, Cao Hoài-Sang. Vọng bái CAO-ĐÀI THƯỢNG-ĐẾ, ban ân đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh.”
Sớm mai ngày mùng một, ông Cao-Quỳnh Cư đi mượn một Đại Ngọc-Cơ của ông Tý ở ngang nhà (cũng ở đường Bourdais, Sài-gòn). Nhớ lời Ông AĂÂ dạy, ba ông quì ngoài sân, sắp đặt có một cái bàn nhỏ, quì chống tay trên bàn, cầm 9 cây nhang mà vái:
“Ba tôi là: Cao-Quỳnh-Cư, Phạm-Công Tắc, Cao Hoài-Sang. Vọng bái Cao-Đài Thượng Đế ban ân đủ phúc lành cho Ba tôi cải tà qui chánh.”
Ba ông cứ tịnh tâm mặc niệm vái như lời Ông AĂÂ dạy, không nhớ tới cái vụ quì ngoài đường có kẻ qua người lại dập-dìu, lớp thì xe cộ họ đi chơi, đi coi hát về, họ dừng chân lại coi ba ông cúng vái ai mà quì ngoài sân cỏ như vậy. Ai coi mặc ai, ba ông cứ quì đó cầu-khẩn van-vái cho tàn hết 9 cây nhang.
Ngày Vọng Thiên Cầu Đạo là sắp vô đề mở Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, các Đấng dìu-dắt ba ông lần lần, nghĩa là ba ông mới nhập trường Đạo.”
Tại sao Đức Phật-Mẫu dạy phải cầm 9 cây nhang mà khấn-vái?
- Bởi mỗi người là một tế-bào khởi thủy cho sự trường tồn của nền Đại-Đạo.
Nền Đạo trải qua nhiều lúc gian truân. Sau khi Đức Hộ-Pháp tự lưu vong sang Miên quốc để tránh cảnh nồi da xáo thịt, lúc ấy Hội-Thánh có mời Ngài về để lèo lái con thuyền Đạo đang luân vơi. Ngài có làm bài thơ vào tháng 7-1970 hai câu đầu là:
Hội Thánh mời giao nắm Đạo quyền,
Mười ba năm một dạ trung kiên
Hẳn Đức Ngài biết mình chỉ giúp Đạo hơn 13 năm thôi? Đến khi qui Thiên Ngài giáng Cơ và cho sửa hai câu đầu như trên, còn toàn bộ giữ nguyên. Thế nên bài thơ ấy hàng năm làm:
Bài thài để dâng hiến lễ Ngài Thượng Sanh:
Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền
Nguyện đem thi thố tấm trung kiên
Độ đời quyết lánh vòng danh lợi,
Trau chí tìm noi bậc Thánh hiền.
Từ ái làm nền an thổ võ
Đức ân dụng phép tạo nhơn duyên,
Những mong huệ trạch trên nhuần gội,
SỨ MẠNG LÀM XONG giữ trọn nguyền.
Thượng Sanh Cao Hoài Sang
Ngài Qui Thiên ngày 26 tháng 3 năm Tân-Hợi (1971) tại Sài gòn, nhưng Hội-Thánh rước về Toà-Thánh làm lễ Thánh tang cho Ngài. Một đám tang lớn nhất trong nước, kể cả đời lẫn Đạo. Nhất là toàn Đạo để tang Ngài như một “rừng tang” trắng xoá.
Đức Hộ-Pháp có lời tiên tri qua bài Thi:
Cao-Đài khai Hội tại Tây trường
Cải cựu hoán tân chế Lệ Thương
Qui chánh cải tà hoàn miếu võ
Tòng chơn khử giả định phong cương
Hồng Môn thử nhựt tri thành bại,
Xích Bích kim triêu biện nhược cường.
Phụng tấn Long hồi huờn Nhứt thổ.
Lập cân hiển hiện buổi Huỳnh Lương.
Bài này là một trong số nhiều bài thơ của Đức Hộ Pháp. Ngoài lời tiên tri về vấn đề thời cuộc qua các điển xưa tích cũ làm dẫn chứng cho sự việc ngày nay, chúng tôi không đủ khả năng bàn luận. Duy chỉ hai câu cuối là dùng lối chữ Hán chiết tự cũng lý thú xin ghi để làm quà hiến cho chư độc giả:
Phụng là loài điểu, trong Dịch chỉ thời gian là tháng, năm Dậu. Long là chỉ vì Vua: người đứng đầu một quốc gia, một lãnh thổ..Huờn là hiệp lại. Nhứt 一 và Thổ 土đặt lên nhau thành ra chữ VƯƠNG 王
Câu cuối: Lập 立 là đứng, cân 巾 là khăn. Hai chữ này đặt lên nhau sẽ thành chữ ĐẾ 帝. Như vậy cả hai chữ mới tìm thấy đọc thành VƯƠNG ĐẾ nghĩa là có Vua Trời.
Hình ảnh người đứng trên Ngai mà đội khăn đây là Đức Thượng Sanh khi mặc phẩm phục thì Ngài đội khăn, gọi là “bao tải xanh” là hình ảnh Vua Đời đó vậy.
4- TRƯƠNG QUẢ LÃO
Là nguơn linh của ông Ca Minh Chương
(1850-1928)
Bảo Đạo Chơn Quân Hiệp-Thiên-Đài
Trương Quả Lão là con dơi trắng tu hành thành Tiên, làm bạn với Lý Thiết Quả, ở ẩn trong núi Trung Điền (Hàng Châu). Tên thật là Trương Quả, chữ Lão là già được người đời thêm vào.
Dưới đời Đường, niên hiệu Khai phong (713-733) Võ Hậu cho triệu về Kinh, nửa đường ông giả chết. Đường Minh Hoàng nhiều lần đem sắc chỉ rước, ông mới chịu ra và được phong là Ngân Thanh Lộc Đại phu. Sau ông xin về ẩn dật trên núi, lấy hiệu là Thông Huyền tiên sinh, qui Tiên dưới đời Thiên Bảo (742-755).
Trương Quả Lão giáng cơ:
Hỉ chư Đạo-hữu, Đạo gặp lối quanh co, há biết
ngừa vực thẵm, gắng sức cho tròn trách-nhậm lớn lao của Đấng Chí-Tôn phú thác.
Chư Đạo-hữu khá biết:
TRƯƠNG kỳ bạch động mộ Tiên gia,
QỦA diệu thâu trì tác trí kha.
LÃO dược độ sanh tiên tự khởi,
Hiến trần tu thức trực ninh tà.
Trương Quả Lão
Ách nước nạn dân, số Trời đọa thế. Vòng vay trả, mối buộc ràng; nếu có tai mắt rộng xa, tự hỏi vì đâu nông nỗi.
Đây hậu thân của Trương Quả Lão là:
Ngài Ca Minh Chương sanh năm 1850 (tuổi Canh Tuất) tại ấp Thanh Ba, làng Mỹ Lộc Tây, tổng Phước Ðiền Trung, quận Cần Giuộc, trong một gia đình thấm nhuần Nho giáo (Ngài Ca Minh Chương cùng quê với Ðức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung).
Ngày 21-2-Bính Dần (dl 3-4-1926) Ðức Chí Tôn giáng cơ tại Vĩnh Nguyên Tự, Ngài Ca Minh Chương có hầu đàn, được Ðức Chí Tôn ban cho bốn câu thi và thâu nhận Ngài vào hàng Môn đệ:
Thế thượng hề vô bá tuế nhân.
Thất tuần dĩ định vấn thời quân.
Ưu tư mạc vọng thường vô lộ,
Nghiệp trái tùy căn định số phần.
Khi Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên-Đài, ngày 12-1-Ðinh Mão (dl 13-2-1927), Ðức Chí Tôn phong Ngài Ca Minh Chương phẩm Bảo Ðạo, nên người ta thường gọi Ngài là Ca Bảo Ðạo. Ngài được Ðức Chí Tôn khai khiếu. Ngài phò loan cùng Ngài Hiến Ðạo Phạm Văn Tươi, lập thành cặp Phò loan truyền Đạo.
Hoàn cảnh khắc khe của Ngài Ca Minh Chương thật quá thảm thiết. Bài Văn tế của Đức Hộ-Pháp có ghi:
…Hỡi ôi ! Vợ già yếu, gái thời ngây dại,
Nối lửa hương, ngó lại vắng người.
Theo linh xa một gái chơi-vơi,
Phò giá triệu bóng trời không kẻ đậy…
Ðức Chí Tôn giáng cơ cho Ngài Ca Bảo Ðạo bài thi để an ủi cho hoàn cảnh gia đình quá bi thảm của Ngài:
Thấy con gia đạo tợ tơ cuồn,
Chạnh đến lòng Thầy dạ ướm tuôn.
Ngặt nỗi vợ nhà đau dã dượi,
Khật khùng con trẻ nói luông tuồng.
Khiến nên mai đảnh khơi màu trắng,
Cho đến tòng lâm trổ sắc buồn.
Công quả đã đành công quả đủ,
Nay đem ba kiếp dập dồn luôn.
Qua bài thi trên, Ðức Chí Tôn cho biết: Ðức Chí Tôn cho gia đình của Ngài Ca Bảo Ðạo nhồi quả ba kiếp nhập lại trả trong một kiếp nầy: Ngài bị bịnh, vợ cũng bị bịnh, con bị điên khùng. Nay phải ráng chịu đựng để trả trong kiếp nầy cho sạch nợ tiền khiên thì mới có thể trở về cựu vị (lúc này Bà Lâm Hương Thanh có đến trị bịnh cho)
Ngài Ca Bảo Ðạo hành quyền được gần ba năm. Ngài qui Tiên vào ngày 19-10-Mậu Thìn (dl 30-11-1928), hưởng thọ 79 tuổi. Ban đầu an táng tại quê nhà,vì Đạo mới khai chưa có điều kiện đất đai. Sau cải táng về Ngã Ba Ao
Hồ, Châu Thành Thánh địa, Toà-Thánh Tây Ninh
5- LÂM THỂ HOÀ
Là Nguơn linh của ông Lâm Quang Bính
(1873-1931)
Phối sư Thái Bính Thanh
Lam Thể Hòa là ông Tiên bị đày đọa làm khách trần. Tính tình thuần hậu nhất trong Bát Tiên.
Ông thích mặc áo rộng màu xanh, buộc dây lưng đen thật to, một chân đi đất, một chân đi giày. Mùa hạ mặc áo lót bông, mùa đông nằm trên tuyết. Thường ngày, ông cầm cặp sanh dài 3 thước ta, vừa đi, vừa nhịp ca ngoài chợ mà kiếm tiền bố thí cho người nghèo.
Đạp ca Lam Thể Hòa
Thế giới năng kỷ hà ?
Hồng nhân nhất Xuân Thu
Lưu quang nhất trịch thoa
Cổ nhân hổn hển khứ bất phản
Kim nhân phân lai cánh đa
Triệu kỵ loan phụng cáo bích lạc
Mộ kiến tang điền sinh bạch ba
Trường cảnh minh huy tại không tế
Kim ngân cung khuyết cao ta nga
Dịch ca:
Nhịp chân ca Thái Hòa
Thế giới được bao lâu ?
Nhan sắc như xuân cội
Thời hạn tựa thoi đưa
Người xưa không trở lại
Người mới đến quá thừa
Sáng cưỡi loan trời thẵm
Chiều dâng thành sóng xa
Không trung lâu đài sáng
Cung điện cao nguy nga
Về sau, trong lúc uống rượu với Lý Thiết Quả nơi Hào Lương, bỗng trên mây có xe hạc, tiếng tiêu thanh thoát đưa hai ông bay bổng, trở về Tiên vị, tay ông cầm Giỏ Hoa Lam.
Lâm Thể Hoà giáng Cơ:
“Hỉ chư Đạo-hữu, Đạo gặp kỳ Phổ-độ, khá biết cải thế thì. Đạo khả trọng, đức năng trau.
Đời dời đổi, Đạo chờ người.
Khách tục nương thuyền độ,
Non Tiên tiếng khánh đưa,
Gắng nhọc thế lọc-lừa,
Tìm đường ngay thẳng-rẳng.
Nguồn rửa bợn nhiều đường cay đắng,
Bước nâu sồng dặm lắm gay go.
Liệu sao khỏi trễ con đò,
Mới thoát vòng khổ hải.
Gắng sức vì sanh mạng,
Lao tâm chớ sợ bởi căn xưa.
Đường quanh co, bước khá ngừa;
Nẻo hiểm trở, chơn nên lánh.
Hậu tái ngộ. Thăng
THI
Từng vào non Thánh lại Đền vàng,
Mãn quả sớm nhờ sắc ngọc ban.
Lần hạc tu tâm thìn nét Đạo,
Biển trần độ chúng vững con thoàn.
Cuộc cờ chung hứng nơi rừng thắm,
Bầu rượu riêng vui với cội tàng.
Gặp lúc dìu đời qua bến tục,
Để công phải nhọc đến phàm gian.
Lâm-Thể-Hòa
Hậu thân là Phối sư THÁI BÍNH THANH, tên thật Lâm Quang Bính, người Rạch Giá, là nguơn linh của Lâm Thể Hòa. Hai vị giống nhau ở tánh tình thuần hậu, ý tứ từ hòa, thương người nghèo. Ông được phong Giáo sư phái Thái ngay từ buổi đầu. Ông chưa rõ tự sự bạch rằng:
“Thưa Thầy, Lâm Thể Hòa mặc áo xanh, sao Thầy ban cho phái Thái (áo vàng).
Đức Chí Tôn chuyển cơ viết:
- “Đó là bí pháp, con biết sao được”.
Vai trò của ông Bính trong việc xây dựng Toà Thánh cũng rất quan trọng:
Thầy dạy:
“Hộ Pháp, Thượng phẩm, nội trưa nầy phải cắm một cây viết vào đầu cơ, lấy một miếng giấy lớn, vào Điện phò loan cho Lão vẽ ( khuôn viên Toà Thánh).
Bính Thanh phải có mặt, còn kỳ dư không cho ai vào Điện hết, nghe à !”
Nhất là việc thiết kế Quả Càn Khôn có Thiên Nhãn để thờ. Thầy dạy ngày 12-8 Bính Dần (17-9-1926):
Bính – “Thầy giao cho con lo một trái Càn Khôn; con hiểu nghĩa gì không?... Cười... Một trái như trái đất tròn quay, hiểu không? Bề kính tâm ba thước ba tấc, nghe con, lớn quá, mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo Hóa trong ấy!…”
6- HÀ TIÊN CÔ
là Nguơn linh của Bà Giáo sư Hương Hồ
Hà Tiên Cô là người con gái mang họ Hà ở huyện Linh Lăng, tỉnh Hồ Nam, tên là Tố Nữ, sinh vào đời Đường. Thuở nhỏ, trên đầu có 6 xoáy, mọi người lấy làm kỳ. Năm 15 tuổi, cô xin cha mẹ đến ở khe Vân Mẫu. Đêm nằm mộng thấy Tiên dạy ăn hột Vân Mẫu sẽ nhẹ mình và trường thọ. Cô vội đi tìm hạt Vân Mẫu thì gặp Lý Thiết Quả và Lữ Đồng Tân đang hái thuốc. Thấy cô gần thành Tiên, Lữ Đồng Tân cho cô một quả Đào. Cô ăn mới nửa trái thì thấy không đói nữa, biết được mọi sự họa phước, lành dữ trên đời. Mọi người cho cô là Thần Tiên, cất lầu cho cô ở và gọi cô là Hà Tiên Cô. Bà Võ Hậu nghe tiếng, cho người đến rước, đi được nửa đường, cô biến mất. Sau Lý Thiết Quả độ dẫn hai mẹ con cô đều thành Tiên. Tay
Hà Tiên Cô cầm bông sen.
Bà Giáo sư Hương Hồ (Huỳnh Thị Hồ) nguơn linh là Hà Tiên Cô, con gái của Bà Lâm Thị Thanh (Đầu sư Hương Thanh). Một hôm, Đức Chí-Tôn giáng đàn gọi đến Bà Hương Hồ. Hôm ấy Bà đang hành kinh (kinh nguyệt) không dám lên lầu để trình diện, nên được Bà Bát Nương dạy: Bà Bát Nương giáng đàn:
THI
Thân phận phàm nhơn trược đã đành
Chẳng vì nguyệt huyết kỵ anh Linh
Âm dương Nam Nữ hoa trêu bướm
Hòa ái tương sanh thủy nhập bình
Tạo hóa ví tay xây đảnh trí
Chúng sanh nên mặt tạo khuôn hình
Thợ trời đâu dễ chê đồ Tạo
Tốt xấu sạch dơ tại miệng mình
Đó là một quan niệm tiến bộ của nền Tân Tôn giáo.
7- HÀN TRƯƠNG TỬ (hay Tương Tử)
Là Nguơn linh của ông Vương Quan Kỳ
(1880 - 1940)
Giáo sư Thượng Kỳ Thanh
Hàn Trương Tử sinh vào đời Đường, người huyện Nam Dương kêu Hàn Dũ (Xương Lê) bằng chú.
Thuở nhỏ, theo Lữ Đồng Tân học đạo Tiên. Sau về quê gặp ngày sinh nhật Hàn Dũ. Hàn Dũ có ý trách Hàn Trương bỏ nhà đi lưu lạc. Hàn Trương liền thưa rằng:
“Xin chú đừng giận, cháu có nghề nầy xin kính mừng sinh nhựt”. Nói xong, Hàn Trương nhóm đất rồi trùm lại, giây lát dở ra nhiều hoa nở, mỗi cánh đều có chữ Vàng:
“Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại
“Tuyết ửng Lam quan mã bất tiền”
Xương Lê không hiểu gì cả. Sau vì can vua sùng Đạo Phật mà bị đày ra Triều Châu. Khi đến Tần Lĩnh, Lam quan, Hàn Dũ được Hàn Trương ra đón. Hàn Dũ nhờ đó biết được ý hai câu thơ của Hàn Trương bèn tiếp:
Nhứt phong triêu tấu Cửu Trùng Thiên
Tịch phiến Triều Câu lộ bát thiên
Dục vị Thánh Triều trừ tệ sự
Khảm tương suy hũ tích tàn niên
Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại
Tuyết ủng Lam quan mã bất tiền
Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý
Hảo thu ngô cốt chướng giang biên
Dịch thơ :
Buổi sớm dâng vua một bức thư
Triều Châu chiều đến bị đày lưu
Muốn vì Thánh Chúa trừ tệ nạn
Đâu tiếc cuối đời vận đã suy
Tần Lĩnh mây che nhà chốn ấy
Ải Lam tuyết phủ ngựa không đi
Biết mi hảo ý từ xa đến
Thu nhặt cốt ta ở bến ni !
Thấy Hàn Trương đoán không sai, từ đó Hàn Dũ mới trọng Đạo. Rạng ngày, Hàn Trương dâng cho chú một bầu thuốc nói: Chú uống thuốc nầy khỏi bịnh và không bao lâu nữa được phục chức nhờ bài “Văn Tế cá sấu”. Nói rồi, Hàn Trương từ biệt chú. Về sau, nhờ vua Tề đuổi được cá sấu, Hàn Dũ được phục chức cũ.
Hàn Trương thành Tiên, người đời gọi là Hàn Trương Tử hay Tương Tử, tay cầm ống tiêu. Bản tính của Hàn Tương Tử là thích phóng túng tiêu dao.
Hậu thân là:
Ông VƯƠNG QUAN KỲ người tỉnh Chợ Lớn, cháu nội của Thống Chế Vương Quan Hạc, ông ngoại là nhà Nho yêu nước Huỳnh Mẫn Đạt. Ông là tri phủ Sở Thuế Thân Sài gòn.
Song thân ông Kỳ là Vương Quan Để và Bà Huỳnh Thị Bảy. Ông học Lycée Chasseloup đậu Diplôme, cùng làm việc với ông Ngô Văn Chiêu ở Dinh Thống đốc Nam Kỳ. Ông theo Đạo được Đức Chí Tôn phong phẩm Giáo sư ( 26-4-1926) và cho bài thi:
Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt tân
Niên đáo tân hề đạo khả tân
Vô lao công quả tri đương tác
Niên hóa niên hề đạo tối tân.
Ông Kỳ là bào đệ của Ông Vương Quan Trân - thân sinh cô Vương Thị Lễ (tức Thất Nương Diêu Trì Cung) hướng dẫn Tam vị Thiên sứ học Đạo buổi đầu. Trong “Con đường Thiêng Liêng hằng sống” Đức Phạm Hộ Pháp nói về ông như sau:
“Bần Đạo nói rõ người ấy là Vương Quan Kỳ chú ruột của Thất Nương. Người mở Đạo mà chẳng biết Đạo là gì hết và cả hành tàng nếu chúng ta thấy sẽ lên án là Tả Đạo Bàn Môn chắc hẳn vậy.
Người đó bận Thiên phục giống hình đội Mão Giáo sư, áo tốt lại vắt vai, mão cầm nơi tay, bận quần cụt ở trần đi ngật ngờ, ngật ngưởng cười một mình không biết cười cái gì, đi ngang qua Bát Quái Đài, như không vậy..”.
Đó là nguơn linh Hàn Trương Tử thích phóng túng tiêu dao. Nay:
Ông Kỳ thọ phong Giáo-Sư ngày 26-4-1926. Ông là Chú của cô Vương Thị Lễ. Cô Lễ đến với Tam Kỳ Phổ Độ trong buổi đầu tiên, tá danh là Đoàn Ngọc Quế tức Thất Nương Diêu-Trì-Cung hướng dẫn các ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư và Cao-Hoài-Sang học Đạo buổi đầu.
Ngày 15-3 Bính-Dần, ông Vương Quan-Kỳ được phong chức “Tiên đắc Lang quân nhậm Thuyết Đạo Giáo sư”. Rồi ông được Thiên-phong Giáo-sư phái Thượng, tức là Thượng-Kỳ Thanh ngày 14-5 Bính-Dần.
Đến rằm tháng 10 Bính Dần (dl 19-11-1926) lại xảy ra việc thử thách: Cô Vương Thanh Chi là ái nữ Ngài Vương Quan Kỳ bị “nhập xác” tạo nên chuyện biến trong ngày Lễ khai Đạo này tại Thánh Thất Gò-Kén. Có lẽ vì vậy thêm một lý do nữa khiến Ngài Vương Quan Kỳ chán nản và lơi dần việc Đạo sự mới ra đến nỗi.
Nhưng đến ngày 14-11 Bính-Dần (18-12-1926) thì Đức Lý giáng dạy:
“Thượng-Kỳ-Thanh bị sụt chức làm Giáo Hữu. Như không tuân lịnh xuất ngoại”.
Đến ngày 18-11 Bính-Dần (22-12-1926)
Đức Lý dạy:
“Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu viết thơ cho mấy Thánh-Thất lục tỉnh nói Thượng-Kỳ Thanh bị trục xuất ra khỏi hàng Môn-đệ chẳng quyền-hành truyền Đạo nữa. Như nó chẳng tin nghe lời bị phạt Tả đạo bàng môn thì chịu, nghe à! Đã Lập Pháp mà nó muốn làm chi thì làm như buổi trước vậy hoài, thì bị phạm Thiên-điều tránh sao cho khỏi tội. Hộ-Pháp Hiền-hữu khá an lòng”.
Qua ngày 28-11 Bính-Dần (1-1-1927) thì:
Đức Lý giáng dạy:
“Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu từ đây coi Thượng Kỳ Thanh như một Môn Đệ vậy thôi, chứ chức Giáo-Hữu cũng cất luôn nữa. Thầy để lời xin tha mà Pháp-luật đã phạm tha sao cho được”.
Vào năm 1930, Giáo-Sư Thượng Kỳ-Thanh tức là Vương-Quan-Kỳ, không tuân lịnh Toà Thánh Tây-Ninh áp dụng nghi lễ mới, nên tách ra lập Chi phái, lập tại Thánh Thất Cầu-Kho.
8-TÀO QUỐC CỮU (Cựu)
Là Nguơn linh của ông Ngô văn Chiêu
(1878-1932)
Đệ-Tử đầu tiên của Đức Thượng Đế
Tào Quốc Cữu (hay Cựu) tên Hữu, là con trai thừa tướng Tào Ban, người đất Linh Thọ, em Hoàng Hậu, vợ của Tống Thái Tổ. Tào Hữu, tướng khôi ngô đẹp đẽ, được Vua và Hoàng hậu qúi mến, nên tặng cho một bài vàng. Ngược lại, người em ỷ thế hại dân. Sợ liên lụy, Tào Hữu bán hết sản nghiệp bố thí cho dân nghèo, rồi mặc đồ đạo sĩ đi tu.
Tào Hữu gặp Lữ Thuần Dương, bị Tiên ông nầy gạn hỏi: Đạo ở đâu mà tu? Tào Quốc Cữu chỉ trái tim Thuần Dương cười nói: lòng là trời, trời là Đạo, đã biết cội rễ, tu chắc thành Tiên.
Tào Quốc Cữu hay Cựu xin thọ giáo và đắc Đạo.
Tay cầm cặp sanh. Năm 1923 Tào Quốc Cựu giáng đàn Bến Cát (Gò Vấp) “Hữu duyên đắc ngộ Tam Kỳ độ” báo trước Đạo Tam Kỳ xuất hiện .
Nay, Ông NGÔ VĂN CHIÊU sinh tại Bình Tây, Chợ Lớn, nguơn linh của Tào Quốc Cựu. Hai vị giống nhau ở điểm lánh trần. Năm 1920 ông làm chủ quận Hà Tiên, rồi ra Phú Quốc mà ngộ Đạo Cao Đài. Năm 1921, Tiên Ông giáng dạy “Chiêu, tam niên trường trai”.
Ngài Ngô Văn Chiêu, sanh ngày 7 tháng Giêng năm Mậu-Dần (dl 8-2-1878) Thân mẫu là bà Lâm-Thị Quí và thân phụ là ông Ngô-Văn Xuân thuộc dòng dõi quan Thị Lang của triều đình Huế.
Khi Ngài Chiêu được 6 tuổi, ông bà thân của Ngài tìm được việc làm ở Hà-Nội nên đem Ngài gởi cho người em ruột là bà Ngô Thị Đây ở Mỹ Tho. Bà Đây có chồng là người Hoa, mở tiệm thuốc Bắc tại xã Điều Hòa, cạnh nhà việc, thuộc Mỹ Tho.
Ngài Chiêu ở với cô ruột và được cô cho đi học đến
năm 12 tuổi thì nhờ người quen cũ của cha bảo lãnh xin vào học nội trú tại Collège Mỹ Tho. Sau đó Ngài lên Sài Gòn học tại trường Chasseloup Laubat và đậu bằng Thành Chung năm Ngài được 21 tuổi.
Lý do Ngài Ngô văn Chiêu không được làm Giáo Tông trong thời Đại- Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ:
Thầy giáng Cơ nói:
“Chư Môn đệ nghe dạy:
Vốn từ trước trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy nền Chánh giáo phải có: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên đồ đệ, Chưởng quản thâu Tam giáo hiệp nhứt.
CHIÊU, thiệt là Nhứt Phật đó.
Vậy, trước ngày định lập Thiên phong đặng tôn chức Giáo Tông cho nó, thì Chúa Quỉ sai tam thập lục động địa giái kêu nài với Ta rằng: Cựu phẩm nó chẳng xứng ngôi ấy và kiện rằng: Nó chẳng nhứt tâm thờ phượng Ta. Ta có cãi lẽ, Quan Thánh Đế và Quan Âm giúp lời, Ta nhứt định phong chức Giáo Tông cho nó.
Chúa Quỉ xin lịnh Ta mà khảo nó và phải để cho Tam thập lục động hành xác nó. Ta không nỡ nên cho khảo mà không cho hành xác.
Rủi thay! Đau đớn thay! Buổi khảo nó phải bị Tà quái áp chế nên phải mất ngôi, song Ta cũng còn thương yêu chẳng nỡ, nhưng mà có mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thì khó bề bào chữa đặng.
Đại lụy! Ta phải dùng quyền Chí Tôn mà tha thứ, song buộc nó phải Tịnh thất.
Ta vừa muốn tha nó, lại bị Tam thập lục động khảo nữa thì mới liệu sao? Ta phải giáng cơ biểu nó.
Con Thơ! con phải tuân nơi lịnh Thầy đã dạy khi
Thầy giáng cơ mà thôi, còn mọi sự khác thì đừng nghe:
- Kẻ bị tù còn có thế rỗi ai chăng?
Chư Môn đệ khá nghe lịnh dạy, từ đây, ai còn phạm đến thì Thầy buộc trục xuất cho khỏi rối loạn nền Đạo của Thầy.” Thầy thăng.
(Trích trong tập Thánh Ngôn chép tay của Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh, trang 237)
Ngày 9-1 Bính-Dần (dl 21-2-1926)
Đức Chí-Tôn giáng Cơ ban Thi cho Ông Chiêu bài:
Bao năm dạy-dỗ quá dày công.
Lời hứa năm xưa gắng giữ lòng.
Siêu đọa đôi đường tua chọn lấy.
Lơi chơn một bước sẽ hoàn không.
Cao Đài
Theo Đạo-sử của Bà Đầu sư Hương-Hiếu
(Ngày 21-10 Bính Dần - dl 26-11-1926)
Thầy nói:
“Thầy cũng thương đó chút. Thầy đã nói cái lòng thương của Thầy hơn biếm trách, nên Thầy chẳng hề biếm-trách các con, ngặt trước quyền của Thần, Thánh, Tiên, Phật biết sao cứu rỗi cho đặng.
“Thầy lại phải làm thinh cho kẻ thì mất lẽ công bình. Thơ nó tưởng Thầy giận mà nài xin tha-thứ. Thầy thì đặng còn chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mới nài sao? Nhất là Thái-Bạch Kim Tinh rất khó. Chiêu cũng vì vậy mà mất ngôi. Các con chớ dễ ngươi mà phạm thượng nghe à!”.!
Trước đó thì chư Môn-đệ đồng quì lạy Thầy xin thứ tội cho ông Chiêu.
Ông Vương-Quan-Kỳ bạch hỏi Thầy:
-Bạch Thầy:Anh Cả Ngô-Văn-Chiêu bảo Thầy giao cho Ảnh thay Thầy làm Chủ mối Đạo, dạy-dỗ Môn Đệ mà Ảnh không chịu tiếp xúc với chúng con, phải làm sao?..
C-THẬP NHỊ THỜI QUÂN
Ngày 15-10-Bính Dần (Dl 19-11-1926) chính thức Khai Đạo tại Từ Lâm Tự (Gò kén - Tây Ninh), Đức Chí Tôn phong phẩm tước cho Thập Nhị Thời Quân. Đúng ra phải 12 vị nhưng thực tế chỉ có 11 vị thôi, trong đó khuyết phẩm Tiếp Đạo.
Công việc điều hành phải lo xây cất Đền Thánh tạm ở làng Long Thành thì do Đức Cao Thượng Phẩm, còn Đức Phạm Hộ Pháp thì sau khi nghỉ phép sáu tháng để lo Lễ Khai Đạo, xong trở lại công sở thì người Pháp đổi Ngài đi Campuchia. Nhưng khi sang đây thì Ngài bắt đầu mở Đạo ra nước ngoài, tức là thành lập Kim Biên Tông Đạo, rồi từ đó truyền giáo ra ngoại quốc, tức là có thêm một Hội-Thánh ngoại giáo..
Trong đàn cơ đêm 29-6-Đinh Mão (dl 27-7-1927) tại Thánh Thất Nam Vang do Đức Phạm Hộ Pháp và ông Cao Đức Trọng phò loan, Đức Chí Tôn giáng dạy và phong Thánh cho nhiều vị. Nhưng tuyệt nhiên không thấy ban phẩm cho ông Cao Đức Trọng. Đức Hộ Pháp cầu hỏi:
- Bạch Thầy, còn Trọng em con, sao không thấy Thầy phong chức.?
Đức Chí Tôn gíang Cơ đáp:
- Tắc, sao con dại quá vậy, Trọng thuộc về chi Đạo
bên Hiệp Thiên Đài.
Thật vậy, sau đó ông Cao Đức Trọng được Đức Chí Tôn phong cho phẩm Tiếp Đạo. Lúc đó thì ông Trọng đang làm việc tại Văn phòng Chưởng Khế (Nam Vang). Tức nhiên quyền năng Thiêng liêng dành cho con gà (ông Trọng tuổi Đinh Dậu) Gà đi gáy xứ người, một Bí pháp nhiệm mầu làm sao người phàm rõ thấu được!
Thấy ra Đức Hộ-Pháp là Người của Hỗn Nguơn Thiên, Cung thứ 11.Thế nên trên bàn thờ Hộ-Pháp chỉ 11 Cúng phẩm. Trong khi đó Thiên bàn thờ Đức Chí-Tôn phải đủ 12 Cúng phẩm, vì Đức Thượng Đế quyền hành là Chúa Tể Càn Khôn vũ trụ.Còn Hộ-pháp nắm Cung Càn (quẻ Bát-thuần Càn biểu tượng 6 nét Dương, biệt số 11) thay trời trị Thế: Giáo Chủ Đạo Cao-Đài cơ hữu hình
Thế nên: Thập nhị Thời quân có 12 phẩm cho 12 vị khác tuổi nhau: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Người lớn tuổi nhất là Bảo Đạo Ca Minh Chương tuổi Canh Tuất (1850). Người nhỏ tuổi nhất là Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh tuổi Quí Mão. Một vị ở đầu bảng và một vị ở cuối bảng Thập Nhị Thời Quân. Quả là một cơ mầu nhiệm của Tạo hóa.
Dưới đây là danh sách Thập Nhị Thời Quân:
1- Khai Pháp Trần Duy Nghĩa tuổi Mậu Tý (1888)
2- Khai Đạo Phạm Tấn Đãi tuổi Tân Sửu (1901)
3- Hiến Pháp Trương Hữu Đức tuổi Canh Dần (1890)
4- Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh tuổi Qúi Mão (1903)
5- Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu tuổi Nhâm Thìn (1892)
6- Tiếp Pháp Trương văn Tràng tuổi Qúi Tỵ (1893)
7- Hiến Thế Nguyễn văn Mạnh tuổi Giáp Ngọ (1894)
8- Bảo Thế Lê Thiện Phước tuổi Ất Mùi (1895)
9- Hiến Đạo Phạm văn Tươi tuổi Bính Thân (1897)
10-Tiếp Đạo Cao Đức Trọng tuổi Đinh Dậu (1897)
11-Bảo Đạo Ca Minh Chương tuổi Canh Tuất (1850)
12-Khai Thế Thái văn Thâu tuổi Kỷ Hợi (1899)
Lại nữa chư vị Thời Quân có mặt trong buổi đầu gọi là Thập Nhị Chơn Quân.
Tuổi và ngày giờ được ghép bởi Thập Thiên Can và Thập Nhị Địa Chi còn gọi là Thập nhị Thời Thần.
Đúng như lời Kinh Cúng Đức Phật Mẫu:
“Thập Thiên Can bao hàm vạn Tượng
“Tùng Địa Chi hóa trưởng Càn Khôn”.
Cũng nên nói rõ:
Thập Thiên Can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí.
Thập Nhị Địa Chi là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo (Mão), Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Theo thứ tự người ta ghép một CAN với một CHI như: Can thứ nhất với Chi thứ nhất là khởi Giáp Tý.
Sau đó, mãn chu kỳ mười Can thì tiếp tục phối hợp Can thứ nhất với Chi thứ mười một, ví như chu kỳ mới của vòng Thiên Can thứ nhì là: Giáp Tuất, Ất Hợi.. Rồi Can thứ ba với Chi thứ nhất…cứ tuần tự như vậy lại đến năm Giáp Tý là đáo tuế. Trong một chu kỳ, tên mỗi Can xuất hiện sáu lần (60 : 10 = 6) và tên mỗi Chi xuất hiện năm lần (60: 12 = 5). Chu kỳ này, ta gọi là Lục thập hoa giáp hay biểu Giáp Tý. Một Lục Thập hoa giáp (chu kỳ 60 năm). Mãn chu kỳ ấy sẽ khởi lại như ban đầu nữa, nhưng chắc chắn sẽ có những biến chuyển mới lạ hơn.
Bài thi Đức Chí-Tôn ban cho ông Ca Minh Chương:
Giáp Tý niên hề! Giáp Tý niên!
Càn Khôn thiên địa định qui tiền
Hạ ngươn Kỷ Tỵ xuân viên mãn
Thượng cổ Mậu Dần thất ức niên
Chư vị Thập Nhị Thời Quân bấy giờ là đồng tử làm trung gian giữa Trời và Người. Nếu không có Thời Quân thì cũng không có Đạo, vì chư vị là những Thiên sứ phò Cơ, chấp Bút đủ huyền linh cho Trời, Phật, Thánh, Thần giáng Cơ dạy Đạo. Các vị là Tướng Soái của Chí Tôn.
Từ trước Hiệp Thiên Đài đã qui định có 4 cặp cơ:
1- Chư vị: Tắc - Cư là Cơ Lập giáo
2- Chư vị: Hậu - Đức là Cơ Lập pháp
3- Chư vị: Sang - Diêu là Cơ Truyền giáo
4- Chư vị: Nghĩa - Tràng là Cơ Bí pháp
Cơ Bút là Bí Pháp mầu nhiệm và là huyền-lực của Thiêng Liêng. Thánh ngôn chỉ có giá trị khi cầu ở Cung Đạo Đền Thánh Toà-Thánh Tây Ninh mà thôi. Đồng tử phải là những người được Thiêng Liêng chỉ định.
Ngoài ra nếu có những Đàn Cơ khác ngoài sự chuẩn nhận nêu trên thì chỉ có giá trị học hỏi riêng không được phổ biến rộng ra ngoài. Bất tuân thì phạm tội cùng Hội-Thánh Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ. Nhưng điểm quan trọng là sẽ bị lạc vào bàn Môn Tả Đạo mà thôi.
1- Ngài Trần-Duy-Nghĩa
(1888-1954)
Khai pháp Chơn Quân Hiệp-Thiên Đài
Nguơn linh là Thánh Pierre
Ông Trần Duy nghĩa sinh ngày 17-8 Mậu-Tý (dl 11-9-1888). Qui lúc 3giờ sáng ngày 22-01-Giáp-Ngọ (24-2-1954)
Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, nguơn linh là Thánh Pierre, một trong 12 vị Thánh Tông Ðồ của Ðức Chúa Jésus Chris, nhưng có đến ba lần chối Chúa.
Chuyện kể lại:
“Một hôm nọ, Đức Phạm Hộ Pháp lập Đàn, có các vị Chức sắc Thiên phong dự chứng. Đức Phạm Hộ Pháp cầm cây Kim Tiên đưa ra bên trên và trước mặt Ngài Khai Pháp đang quì. Đức Phạm Hộ Pháp nói:
- “Nầy Pierre, ngày trước ngươi đã chối TA ba lần, lần nầy Ta tha cho đó.”
Tiền kiếp của Ngài là Thánh SAINT PIERE, tức là một trong 12 Thánh Tông-Đồ của Thiên-Chúa-giáo, ngày nay các vị Thánh ấy cũng trở lại trong hàng Thập Nhị Thánh, tức là Thập Nhị Thời-Quân trong cửa Hiệp-Thiên Đài cũng giữ phận sự hầu Thầy mà thôi”.
Hiện tượng này, một lần nữa xác định rằng Đức Chúa Jésus-Christ vốn tiền thân của Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc, Ngài làm nhiệm vụ tha tội cho Thánh Pierre.
Khi Ngài Khai Pháp Trần Duy nghĩa qui Thiên liền giáng Cơ cho bài thi làm:
Bài Thài hiến Lễ
Đã chán công danh dưới phép người,
Đem thân cửa Phạm để nên nơi.
Lóng chuông Bạch-Ngọc hồi hồn tục,
Nghe trống Lôi-Âm tỉnh mộng đời.
Nắm pháp Thiêng-Liêng dìu Thánh vị,
Cầm Cân Công-lý giữ ngôi Trời.
Dầu chưa trọn nghĩa Thiên-Thơ định,
Giác ngộ vui theo cũng kịp thời.
Đức Hộ-Pháp nhắc lại buổi đầu Đức Chí-Tôn dạy “đi tìm Pháp”. Nhưng rốt lại đi tìm đúng Ông Trần-Duy Nghĩa, sau Đức Chí-Tôn phong cho Ngài là KHAI-PHÁP CHƠN-QUÂN:
“Bần Đạo đưa bài Thánh Giáo Đức Chí Tôn dạy đi tìm Ngài thì Ngài nói với Bần Đạo hai câu, mà làm cho Bần Đạo kính phục và cảm tưởng mãi nơi tâm, biết rằng ông nầy có thể chung sức với mình gánh vác nỗi sự nghiệp của Chí Tôn đã giao phó.
Ngài nói rằng:
“Tôi tưởng dòng dõi của dân tộc Việt Nam trên bốn ngàn năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí Tôn đến định lập Quốc Đạo thì chắc hẳn rằng đất nước Việt Nam sẽ sống lại được mà là cứu chữa Tổ quốc và giống nòi dân tộc Việt Nam sẽ cỗi ách lệ thuộc giữa thời Pháp thuộc đang bạo hành.”
Kể từ đó thì Ngài vẫn cương quyết lo giúp đỡ Bần Đạo và sự kính nể đáo để không giờ phút nào mà Đức Ngài muốn rời xa Bần Đạo.
Khi trở về Thánh Địa Bần Đạo gượng làm vui chớ kỳ thật riêng về Đức Ngài Khai Pháp và Bần Đạo không giờ khắc nào mà quên trong cảnh tù đày lao lung…
Bần Đạo đã thấy toàn thể con cái Đức Chí Tôn rất chú ý về việc đó, nhưng Bần Đạo ôm lòng nín chịu và căn dặn Ngài vẫn dằn lòng không thốt ra lời nói gì cả. Bần Đạo sợ nói ra đây gây oán chất hờn thêm cho Đạo, nếu Bần Đạo nói ra không có bút mực nào tả cho hết, lại thêm xung đột.
Kể từ ngày về Thánh Địa Đức Ngài Khai Pháp thường than khổ với Bần Đạo, vì sợ e không khỏi gây cảnh nồi da xáo thịt, bên ngoài thì Pháp, bên trong thì Việt Minh, ở giữa thì Quân Đội Cao Đài, ai vui hứng chớ riêng Đức Ngài không có ngày nào mà không lo sợ sự đổ máu giết chốc lẫn nhau làm đến tương tàn cốt nhục của nòi giống Việt Nam ta nữa mà chớ…”
Thử cơ Bút - Nguơn linh Pierre giáng:
Một hôm Ông Bà Đốc Phủ Chi, là người theo Đạo Công-giáo có đến nhà Ngài Cư, mục đích muốn thử xem vấn đề chơn giả của Cơ Bút, nên ông Bà có đề nghị:
“Xin cho chúng tôi để thử trên bàn Cơ hai vật này là Ảnh tượng CHÚA và Cây Thánh giá. Nếu Đức Cao Đài là Thượng-Đế thật thì mới giáng Cơ được, bằng Quỉ Vương thấy hai vật báu này tự nhiên phải tránh”.
Ông Cư bằng lòng cho thử. Đoạn Ông Đốc Phủ cùng ngồi với Ngài Tắc để quan sát. Trước hết Thánh Pierre giáng Cơ cho bốn câu thi để trả lời cho Ông Bà Đốc Phủ Chi, vào ngày 17-11 Ất-Sửu (dl 01-01-1926)
Thánh giáng Cơ cho biết là:
SAINT PIERE
Thiên đàng giữ cửa góc Trời Tây,
Truyền Ðạo cho dân biết mặt Thầy.
Cứu chuộc đã gần đôi ngàn tuổi,
Cao Ðài phú thác dắt dìu bây.
(31 Decembre 1925)
Ngày 11-01 Bính Dần (dl 23-2-1926) Đức Chí Tôn có giáng cho KHAI-PHÁP CHƠN-QUÂN bài thi: Đạo Tâm rỡ rỡ sáng như ngày
Hiệp cũng may mà gặp cũng may.
Đã mộ trong lòng thân cũng mộ,
Một lòng mộ Đạo chớ đơn sai
Đức Chí-Tôn
Ngài Khai Pháp quí danh là Trần Duy Nghĩa, sanh năm Mậu Tý (1888) tại làng Thành Phô, tổng Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò-Công. Trưởng thành trong một gia đình Nho phong. Thân phụ là Ông Trần-Duy-Quyền và Thân mẫu là Bà Đặng thị Lâu, đều ở Gò Công.
Ngài Trần Duy Nghĩa được Thiên phong Khai Pháp, cùng một lượt với chư vị Thời-Quân khác khi Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp-Thiên-Đài ngày 12 tháng Giêng năm Đinh Mão (dl 13-2-1927).
Ngài hợp cùng Ngài Tiếp-Pháp Trương văn Tràng thành cặp Phò-loan truyền Đạo lúc ban sơ và sau đó trở thành cặp Phò loan chuyên về Bí Pháp.
2- Ngài Khai Ðạo Phạm Tấn Ðãi
(1901-1976)
Nguơn linh Ngài là Ðông phương Sóc
Là Tiên gia giáng trần làm Quân sư cho Hớn Võ Ðế, trong sự tích “Hớn rước Diêu Trì” (Xem lại trang 27)
Ông Phạm Tấn Đãi, tộc danh là Thuộc và Đạo hiệu là Trí Thanh, sanh ngày 28-7-Tân Sửu (dl 10-9-1901) tại làng Mỹ Lệ, quận Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn. Qui ngày 19-2 Bính-Thìn (1976)
Thân phụ của Người là Ông Phạm Thành Thiệt, được Thiên phong Giáo Hữu, sau khi nhập môn cầu Đạo, thăng lần đến phẩm Phối Sư Phái Thượng.
Thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Ruộng, cũng được thọ Thiên ân Giáo Hữu, quê ở Chợ Trạm làng Mỹ Lệ. Vào ngày 4-11-Ất Sửu (Thứ Bảy:19-12-1925). Người được ông Phủ Nguyễn Ngọc Tương mời đến dự Lễ Khai đàn, có rất đông viên chức đến dự. Đêm ấy, Đức Chí Tôn giáng dạy, ban cho mỗi người một bài thi và riêng Người thì Đức Chí Tôn cho bốn câu thi như sau:
Dằn lòng len lỏi hãy qui y,
Nay gặp Ta đây đã đến kỳ.
Oanh liệt hồng trần e phải khổ,
Tầm đường đạo đức tránh đường nguy.
Đúng một tuần sau, ngày 11-11-Ất Sửu, Thứ Bảy: ngày 26-12-1925 các ông ấy đến tư gia của Người để Khai đàn thượng tượng cầu các Đấng.
Đêm ấy, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Đạo và thâu nhận nhập môn, có cho Người một bài thi:
Nên gầy đạo đức đặng hồi nguyên,
Un đúc trẻ thơ sửa tánh hiền.
Nương bút Thiên cơ lo độ chúng,
Dìu người gắng sức đến rừng thiền.
Chính ngày ấy là ngày Người nhập môn cầu Đạo. Sau ngày nhập môn, Người cùng ông Đốc học Tươi tập cầm cơ hằng tháng mới viết ra chữ và thi phú.
Ngày Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên-Đài ngày 12 tháng Giêng Đinh-Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Phạm Tấn Đãi chức Khai Đạo Hiệp Thiên-Đài .
3- Ngài Hiến-Pháp Chơn Quân
TRƯƠNG HỮU ĐỨC (1890-1975)
Nguơn linh là Từ Hàng Đạo Nhơn.
Ngài Hiến Pháp lấy Đạo Hiệu là Thân Dân.
Ông sanh ngày 02-02-Canh Dần (1890). Qui Tiên lúc 20g15 ngày 15-12- Ất Mão (dl 15-01-1975).
Quê quán: Cầu An Thượng, Hiệp-Hòa, Chợ-Lớn.
Đức Chí Tôn có cho biết nguơn linh của Ngài Hiến Pháp là Từ Hàng Đạo Nhơn. Ngày 3-7 Đinh-Mão (31-7-1927) may được Quỉ Cốc Đại Tiên giáng đàn, Ngài mới xin cho mỗi người một bài thi kỹ niệm:
Thập Nhị Tiên gia nhứt tánh TỪ,
HÀNG phong Vương mãn thọ hàn thư.
Trung niên thế cuộc tao vân mộng,
Quản thị Càn Khôn thủ Phật thư.
“Trương Hữu Đức, sanh ngày mùng 2 tháng 2 năm Canh Dần (1890) (trên giấy tờ sanh năm 1892), con ông Trương Văn Tựu (chết) Cựu Cai Tổng Cầu An Thượng, làng Hiệp Hòa (Chợ Lớn), Giáo Sư phái Ngọc và bà Lê Thị Nhụy tức Sót (chết). Hiền nội của Ngài Trương Hữu Đức là Bà Nguyễn Thị Sanh, nhập môn vào Đạo Cao Đài rất sớm, được Đức Chí Tôn phong phẩm Nữ Lễ Sanh, do kỳ Phong Thánh Nữ phái lần thứ nhứt ngày 14-Giêng năm
Đinh Mão (dl 15-2-1927).
Ngài Nhập môn vào Đạo Cao Đài từ năm Ất Sửu (1925) lúc mới còn Xây bàn, vì lúc ban sơ, những người theo Đạo đều do lịnh Đức Chí Tôn chỉ định, nên không có Sớ Cầu Đạo.
Trong số 12 Môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn nêu tên trên bài thi tứ tuyệt trong quyển Thánh Ngôn Hiệp Tuyển thứ I có tên ĐỨC (sau thọ phong Hiến Pháp Hiệp Thiên-Đài), hiệp với Ông HẬU thành cặp phò loan truyền Đạo, Ông Hậu sau thọ phong Bảo Pháp Hiệp Thiên-Đài.
Ngài Hiến-pháp là một trong những Tướng-Soái của Đức Chí-Tôn, lúc qui thiên Ngài cũng giáng đàn cho
Bài Thi để thài hiến lễ:
HỮU-ĐỨC mừng nay đã gặp Thầy,
Chẳng còn mong ước cái không hay.
Mừng nay gặp Đạo lòng mong muốn,
Chí quyêt cùng nhau để hiệp vầy.
Hiến-pháp Chơn Quân
Trong khi Ngài nhập môn vào Đạo Cao-Đài ngày 9-01 Bính-Dần (dl 21-02-1926) Qua bữa sau, lúc đúng Ngọ, trong khi thanh tịnh, Ngài bắt chước Đức Hộ-Pháp ngồi chấp bút một mình và cầu nguyện xin thi, có vị Minh-Nghĩa Tiên Ông giáng bút cho bài thi như sau:
Minh Đức mừng nay đã gặp Thầy,
Chẳng còn mong ước cái không hay
Mừng cầu Âu Á càng thêm mặt,
Mừng nậu côn đồ đã chịu chay!
Ông Hữu Đức chỉ chấp bút được một lần ấy thôi. Chính Ngài Hiến-Pháp Trương-Hữu-Đức được Đức Chí Tôn cho biết rằng “Đức cứu Đạo”. Sau quả thật như vậy.
4- BẢO-PHÁP CHƠN QUÂN
NGUYỄN TRUNG HẬU (1892-1961)
Nguơn linh là Xích Tinh Tử
Ông Nguyễn Trung Hậu, tên thật là Nguyễn Văn Hậu, bút hiệu Thuần Ðức, sanh ngày 5-3-Nhâm Thìn (dl 1-4-1892) tại làng Bình Hòa, tỉnh Gia Ðịnh. Qui tại Gia định lúc 16 giờ ngày 7-9 Tân-Sửu (1961) táng ở quê nhà.
Về nguyên căn của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, Ngài có ghi lại như sau:
“Ngày mùng 3-7 Ðinh-Mão (dl 31-7-1927) nguyên Ðức Chí Tôn có cho biết tiền thân của Hậu là Xích Tinh Tử và của Ðức là Từ Hàng Ðạo Nhơn. May được Quỉ Cốc Ðại Tiên giáng đàn, chúng tôi xin Ngài cho mỗi đứa một bài thi:
Bài thi cho Hậu (Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu):
Ðỏ đỏ một vùng ấy Hỏa tinh,
Nhà Châu tên tuổi đã rành rành.
Tam Kỳ tái thế an thiên hạ,
Hậu nhựt thành công hậu hứng tình,
Sau khi qui Thiên, Ngài giáng cơ cho bài thi làm:
Bài thài hiến lễ
Nhà Phật hôm nay giữ Đạo mầu,
Phiền ba nghĩ lại có vui đâu.
Tẻ đường phi thị noi đườg tịnh.
Tìm cửa Từ-bi lánh cửa Hầu.
Xác thịt trải qua miền gió bụi.
Nắm xương chờ gởi bóng tang du.
Lửa lòng vụt tắt từ đây vẫn…
Giọt nước nhành Dương gợi tấm sầu.
(Bảo-Pháp Nguyễn Trung Hậu)
Được Huyền diệu từ ban đầu mới đủ đức tin:
Năm 1926 vì làm ăn sa sút, ngày 23-6-1926 (14-5
Bính Dần) Người có cầu hỏi Đức Chí-Tôn coi nên tiếp tục hay để cho sụp đổ, thì Thầy dạy:
Con muốn làm sao tự ý con,
Nhà nghèo nhơn nghĩa miễn vuông tròn
Thầy đâu nỡ để Môn đồ cực,
Mối đạo giữ cho ngàn thưở còn.
Đức Chí-Tôn
Tuy nhiên không phải mỗi việc nào cũng hỏi, dầu Thầy trả lời nhưng cũng có ý trách phiền:
Cái khiếu thông minh con ở đâu ?
Kêu Thầy mà hỏi việc cơ cầu.
Hễ là quân tử chi màng việc,
Hễ biết điều cao bớt việc sầu.
Đức Chí-Tôn
Chỉ có hai Chơn-Quân: HẬU, ĐỨC có tên trong số 12 vị Môn-Đệ đầu tiên của Đức-Chí Tôn được chỉ định, như thế cũng đủ thấy rằng tất cả đều có sự an bày của Thượng Đế:
CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh
BẢN đạo khai SANG QÚI GỈANG thành.
HÂU ĐỨC TẮC CƯ thiên địa cảnh,
Quờn, Minh, Mân đáo thủ đài danh.
Đức Chí-Tôn
Vào khuya mồng một Tết năm Bính-Dần (dl 13-12-1926) khoảng giờ Tý, Ngài tái cầu thì Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng-Đế giáng dạy rằng: “Đức, Hậu tập Cơ sau theo mấy Anh mà độ người, nghe!”
Năm Bính-Dần (24-9-1926) Đức Chí-Tôn cho thi, điểm đúng tên: Nguyễn Trung Hậu bút hiệu Thuần-Đức một bài thi khoán thủ như vầy:
THUẦN phong mỹ tục giáo nhơn sanh,
ĐỨC hóa thường lao mạc dị danh.
HẬU thế lưu-truyền gia pháp quí,
GIÁO dân bất lậu tán thời manh.
Bài thi kế tiếp:
Đã có căn phần dựa cảnh Tiên,
Bước đời chớ quản bậc sang hèn.
Mưa mai nắng xế chờ qua khỏi.
Đêm tối lần ra gặp ánh đèn.
Đức Chí-Tôn
Ngày 12-1 Đinh Mão (dl 13-2-1927) Ngài thọ Thiên phong BẢO PHÁP CHƠN QUÂN.
Theo Châu tri ngày 7-3 Quí-Dậu (1-4-1933) Ngài giữ Quyền Chưởng Pháp Cửu Trùng Đài.
Năm 1934, Ngài về dưỡng bịnh tại Gia Định (Cây Quéo). Ngài hợp với Hiến-Pháp thành một cặp Cơ chánh thức phò loan cho Đức Chí-Tôn truyền Đạo các nơi: Cầu kho, Gò kén, Chợ-lớn, Gò công, Tân an, Mỹ-tho, Bến tre.
Lúc sanh tiền, thú vui của Ngài là làm thơ và cờ tướng. Chính Ngài Nguyễn Bảo-Pháp có biệt tài về làm liễn đối được Đức Lý Đại Tiên khen tặng là: Ai muốn xin liễn hãy tìm Hậu.
Hai câu liễn trên Thuyền Bát-Nhã do Ngài viết:
- Vạn sự viết vô, nhục thể thổ sanh hoàn tại Thổ.
- Thiên niên tự hữu linh hồn thiên tứ phản hồi Thiên
5- Ngài Tiếp Ðạo Cao Ðức Trọng
(1897-1958)
Ngài Tiếp Ðạo Cao Ðức Trọng, nguơn linh ông là Thánh Juda, một trong 12 vị Thánh Tông Ðồ của Chúa Jésus Chrits.
Đức Hộ-Pháp nói về ông Tiếp Đạo:
“Khi Đức Chí-Tôn đến với chúng tôi, Đức Chí Tôn mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ chứ không phải mở Đạo Cao-Đài, tới chừng Ngài biểu cầm một cây Cơ và một ngọn Bút đi các nơi thâu Môn đệ.
Trọng yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông đồ có sứ mạng trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này đã giáng sanh trước đặng làm môi giới độ Đạo sau này. Đức Chí-Tôn biểu chúng tôi phò loan đặng Ngài dùng quyền năng thâu dụng mấy vị Tông đồ đó. Quả nhiên chẳng bao lâu, có đủ Thập Nhị Thời Quân hiển hiện ra, trong số các vị Thời Quân ấy có CAO TIẾP ĐẠO ở tại Kiêm-Biên chớ không phải ở Sài-gòn.
Đi thâu Thập Nhị Thời Quân rồi Đức Chí-Tôn mới mở Đạo”.(ngày 13-10 Giáp-Ngọ - 1954)
Ngài Tiếp Đạo quí danh Cao Đức Trọng, sanh ngày 20-4 Đinh-Dậu (1896) tại làng Ích Thạnh, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định. (Ngài Cao Tiếp Đạo là bào huynh của Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang).
Đàn cơ ngày 29-6-Đinh Mão (dl 27-7-1927) Đức Chí Tôn ân phong Ngài Cao-Đức-Trọng phẩm Tiếp-Đạo Hiệp-Thiên-Đài.
6- Ngài Bảo Ðạo Hồ Tấn Khoa
Nguơn linh là Sa Nặc theo hầu Thái tử Sĩ-Ðạt Ta tức là Phật Thích Ca sau khi đắc Đạo.
Ông là vị Thời quân sau cùng, thứ 13, tức nhiên là người thừa hành trách nhiệm Bảo Đạo thế cho Ngài Bảo Đạo Ca-Minh Chương sớm qui Tiên, nên chưa làm gì cho Đạo. Ông chỉ là người tiếp lo về mặt hữu hình thôi. Vậy nên sau ngày Qui thiên ông bị áp lực cho chôn hàng nằm và mặc đạo phục trắng, cũng là chuyện đương nhiên.
Đêm 9 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (dl 11-2-1954), tức là gần 5 tháng sau, tại Cung Ðạo Tòa Thánh, Ngài Bảo Ðạo Ca Minh Chương giáng cơ xin với Ðức Hộ Pháp trao quyền Bảo Ðạo tại thế cho Ông Hồ Tấn Khoa để Hiệp Thiên-Đài có đủ chư vị Thời Quân làm việc.
Ngài Ca Minh Chương giáng Cơ nói rằng:
“Chào Hộ Pháp Thiên Tôn, cùng chư vị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài. Cùng các Bạn,
Thưa Ðại huynh Hộ Pháp Thiên Tôn,
Ðệ xin giao nơi tay Ngài uy quyền Bảo Ðạo đặng Ngài ban lại cho bạn Hồ Tấn Khoa và lập Thánh lịnh.
Bổn Quân Bảo Ðạo Ca Minh Chương tuân y mệnh lệnh của Chí Tôn và quyền Ngọc Hư phê chuẩn, giao chức tước quyền hành nơi thế về hữu vi nhi trị, còn phần thiêng liêng về phần Bổn Quân nắm giữ.
Hồ Hiền hữu! Bổn Quân lấy làm hữu hạnh đặng hiểu Hiền hữu kế nghiệp thì chỉ mong một điều trọng hệ hơn hết là trách vụ khó khăn cực nhọc ấy, Hiền hữu cáng đáng kham tất. Vậy Hiền hữu nên nhớ rằng, nghiệp thiêng liêng hằng tồn tại mãi, còn quán tục là thừa.
Hiền hữu nên nhớ mãi lời ký thác của Bổn Quân hầu ngày sau vui gặp nhau nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống”.
D- CỬU TRÙNG ĐÀI
1-Bà Nữ Ðầu Sư Lâm Hương Thanh
(1874-1937)
Nguơn linh là Long Nữ hầu Phật Quan Âm. Long Nữ vốn là em của Đệ Tam Thái Tử con vua Long Vương, hóa cá dạo chơi, bị vướng phải lưới ông chài. Đức Quan Âm sai Thiện Tài Đồng tử hóa thường nhơn đến mua cá đem ra Nam Hải thả. Nam Hải Long Vương cám ơn đức, sai con gái là Long Nữ đem tặng Đức Quan Âm một viên ngọc chiếu sáng cả ban đêm. Long Nữ cảm phục quyền năng của Đức Phật nên xin qui y và làm Đệ tử Đức Quan Âm. Ngày nay Bà cùng ông Nguyễn Ngọc Thơ nên duyên chồng vợ. Nguơn linh ông là Từ Hàng Đạo Nhân, tức Quan Âm Bồ Tát. Kiếp này Ông Thơ và Bà Lâm Hương Thanh là đôi bạn đời với nhau vì tiền kiếp đã định.
Bà Nữ Đầu sư Lâm Hương Thanh, thế danh là Lâm ngọc Thanh, sanh năm Giáp Tuất (1874) tại làng Trung Tín, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Thân mẫu là Bà Trần thị Sanh.
Tóm tắt Tiểu-sử:
Thế danh: Tên Bà là Lâm-Ngọc-Thanh.
Thánh-danh: HƯƠNG THANH hoặc Lâm Hương Thanh. Nơi sanh: Làng Trung-Tín, quận Vũng-Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Thuở nhỏ Bà qui y theo Đạo Phật với Thầy là Hoà Thượng Như-Nhãn, trụ trì tại chùa Giác-Hải, Phú Lâm (Chợ-lớn)
*Phần Đời: Một bậc giàu có của cải nhứt bấy giờ.
*Phần Đạo: Tuyệt phẩm là Đầu-sư Nữ-phái.
Bà được ông Phạm-Tấn-Đãi (Sau là Khai Đạo –Thời-quân Hiệp-Thiên-Đài) vâng lịnh Đức Chí-Tôn đến độ Ông Nguyễn-Ngọc-Thơ và Bà Lâm-Ngọc-Thanh vào Đạo Cao-Đài.
- Bà Nhập môn vào nền Đại-Đạo ngày mùng 5-6 Bính-Dần (Mardi, 15 Juillet 1926).
Khi đến với Đạo, Bà giàu lòng Bác-ái, dâng hiến một phần lớn sự nghiệp vĩ-đại của Bà cho Đại-Đạo làm phương tiện hoằng-hoá đạo-mầu của Đức Chí-Tôn, biến Phật-tự thành Thánh-Thất tại Vũng-Liêm.
- Bà phát kinh, biếu Đạo-phục cho những người mới Nhập môn cầu Đạo.
- Hiến tài sản để tu bổ ngôi chùa Từ-Lâm-Tự, Gò kén Tây ninh để làm nơi Khai Đạo trong ba tháng trường. Ngôi Chùa Gò kén này vốn của Hoà Thượng Như Nhãn. Ông Bà cũng đã đóng góp nhiều của cải để làm chùa này.
- Bà thọ phong đầu tiên là đêm 14 rạng ngày rằm tháng 10 năm Bính-Dần (dl 18 Novembre 1926) là ngày Đại Lễ Khai Đạo tại Thánh-Thất tạm Từ-Lâm-Tự. Bà Lâm-Ngọc-Thanh thọ Thiên Ân Nữ Giáo Sư, Thánh danh là Lâm Hương-Thanh.
- Đức Chí Tôn thăng phẩm Bà lên Nữ Phối Sư ngày 14 tháng giêng năm Đinh Mão (dl 15 Février 1927) - Bà Lâm Hương Thanh được thăng phẩm tiếp là Nữ Chánh Phối Sư, Chưởng quản Hội-Thánh Nữ phái. Ngày mùng 9-3 Kỷ-Tỵ (dl 16 Avril 1929)
- Bà qui Tiên vào ngày mùng 8 tháng 4 năm Đinh Sửu (dl 17-5-1937) đúng vào Lễ Thánh đản của Đức Phật Thích Ca, tại quê nhà ở Vũng Liêm, hưởng thọ 63 tuổi.
- Tuy Bà đã qui TIÊN ngày 8-4 Đinh-Sửu nhưng đến ngày 25-4 Đinh-Sửu (dl 3 Juin 1937) Bà mới được Đức Chí Tôn ân tứ thăng lên phẩm Đầu Sư. Tức là Nữ Đầu Sư hàng truy phong.
Ban đầu: Bà Lâm Ngọc Thanh là vợ của ông Huyện Huỳnh Ngọc Xây, nên Bà thường được người ta gọi là Bà Huyện Xây, là một nghiệp chủ rất giàu có tại Vũng Liêm. Ông và Bà có một người con gái tên là Huỳnh thị Hồ.
Sau nầy Ông Huyện Xây chết, Bà gá nghĩa với Ông Huyện Hàm Nguyễn Ngọc Thơ, một nghiệp chủ ở Tân Định Sài gòn. Hai Ông Bà đều hâm mộ Phật giáo nên đều qui y theo Phật giáo, thọ giáo với Hòa Thượng Như Nhãn, trụ trì Chùa Giác Hải ở Phú Lâm, Chợ lớn.
Hai ông Bà đã đóng góp công quả rất lớn trong việc mua đất cất Toà Thánh và nhiều dinh thự. Hơn nữa Bà là người rất giàu lòng đạo đức nên bất cứ khoản tiền nào thiếu thì Ông Bà sẵn sàng, từ ngôi Từ Lâm Tự đến Toà Thánh, đâu đâu cũng có bàn tay của Bà, xứng đáng là người Chị lớn cầm đầu Nữ phái Cao-Đài ngàn năm.
2- Ngọc Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt
Nguơn linh Ngài là Dương Tiễn
Là một trong Thất Thánh, đời Phong Thần. Dương Tiễn rất tài giỏi, có nhiều mưu lạ và có nhiều phép biến hóa không lường. Trước khi khởi sự Chinh Đông, đánh Ngũ quan, diệt vua Trụ, Dương Tiễn lạy thầy là Ngọc Đảnh Chơn Nhơn, hỏi việc chinh chiến sắp tới thế nào. Ngọc Đảnh Chơn Nhơn đáp:
- Ngươi khác với người ta xa lắm.
Nói rồi ngâm rằng:
Tập luyện huyền công, ai sánh kịp,
Tung hoành thế giới, bực nào hơn.
Dương Tiễn nhờ có Thất thập nhị Huyền công (72 phép biến hóa), nên đã giúp Tử Nha rất đắc lực, tạo nhiều kỳ công.
Ngài Lê văn Lịch là hậu thân của Dương Tiễn:
Ngài Lê văn Lịch được Chí-Tôn ban phẩm Đầu Sư phái Ngọc là Ngọc Lịch Nguyệt.
Hiệu là Thạch Ẩn Tử, sanh ngày mùng 1 tháng 9 năm Canh Dần (dl 14-10-1890) tại làng Long An, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thân sinh của Ngài là Cụ Lê văn Tiểng, tu theo Đạo Minh Sư đến bực Thái Lão Sư, hiệu Lê Đạo Long, là người sáng lập ngôi chùa Vĩnh Nguyên Tự ở Cần Giuộc. Cụ Tiểng tu đắc đạo, sau khi qui Thiên đắc quả Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn.
Cụ có lời di chúc:
"Lập Vĩnh Nguyên Tự để sau nầy có Thập nhị Khai Thiên đến mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”.
Khi hai Ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang rút khỏi Tòa Thánh Tây Ninh để về Bến Tre lập Ban Chỉnh Đạo, thì Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt cũng rời Tòa Thánh, trở về về Vĩnh Nguyên Tự tu hành.
Năm 1943, trong công cuộc nhà cầm quyền Pháp khủng bố Đạo Cao Đài, Ngài bị họ bắt đày đi Côn Đảo, đến năm 1945, Ngài mới được trả tự do trở về.
Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt bị sát hại trong cuộc chiến chống Pháp xâm lược của phong trào Việt Minh, Ngài qui thiên tại Chợ Lớn ngày 2-9-Đinh Hợi (dl 15-10-1947) thọ 58 tuổi. Mộ của Ngài đặt tại phần đất phía sau Vĩnh Nguyên Tự, gần mộ của thân phụ Ngài là Cụ Lê văn Tiểng.
3- Ngài Thái Ðầu Sư Thái Nương Tinh
Nguơn linh là Văn Thù Bồ Tát đời Phong Thần
Đức Chí Tôn giáng cơ tiết lộ cho biết, nguơn linh của Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh là Từ Hàng Bồ Tát, còn của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh là Long Nữ, đồ đệ của Đức Quan Âm Bồ Tát. Ngài Đầu Sư Thái Nương Tinh là Văn Thù Bồ Tát. Thầy dạy:
“… Thầy chẳng nói ra căn cội của Nương e con giận. Vậy Thầy cũng nói luôn thể để anh em nhìn nhau, thương yêu nhau. Nó là Văn Thù Bồ Tát tái thế, nghe à ! Nó lập ngôi vị cho con, nó đi một đường với con mà hành Đạo cho tới ngày hai con đến đắc quả đặng trở về cùng Thầy.
Ngày 12-12 Bính-Dần (15-01-1927) (ĐS. II. 177)
Thầy giáng dạy rằng:
“Nương, Thầy dặn con, con chẳng hề nghe đến, Thầy muốn bỏ, song vì cựu vị nên chẳng đành. Từ đây phải lo Đạo nghe! Thầy phong cho con chức Thái-Đầu Sư, phải hành-Đạo và hiệp sức phổ-độ phái Thái, Thái-Minh Tinh bị Lý Thái Bạch cách chức”.
Đức Lý dạy:
“Nương phải sắm Thiên-phục như Thơ Thanh vậy nghe!” (13-12 Bính-Dần).
Đức Thượng-Đế cũng xác nhận về ba vị Tướng soái của Thầy bên cơ-quan Cửu-Trùng Đài rằng:
“Thầy đến đây đặng cho hội-hiệp sum-vầy BA NGÔI cho đoàn-tụ đó, bớ mấy con! Nghĩa là Ngọc Thanh, Thái-Thanh và Thượng-Thanh đã đủ mặt ngày nay rồi, thì phải lo thi-hành bổn-phận cho chóng.
“Bởi ngày giờ đã muộn, ráng mà làm bia cho đời sau noi dấu đến bảy chục muôn năm đó con! Chớ chẳng phải là cuộc nhỏ mọn đâu con, phải ráng mà đồng công cọng sự mới đặng, trong thì Thầy giúp sức, ngoài thì BA CON phụ lực mới thành-công.”
Chú thích:
Nương: là tên của Ngài Đầu Sư Thái Nương Tinh. Đây là ba ngôi đặc biệt của ba vị Đầu sư buổi ban đầu mới có chữ: NHỰT, NGUYỆT, TINH là Tam bửu của Trời, nay Thầy đến ban cho trong cơ quan Cửu Trùng Đài này là các vị: Thái Đầu sư Thái Nương Tinh, Thượng Đầu sư Thượng Trung Nhựt, Ngọc Đầu sư Ngọc Lịch Nguyệt. Ngài Nương là Chơn linh của Đức Quan Âm Bồ Tát; tức là của Đức Từ Hàng Bồ Tát biến sanh. Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh có chơn linh cùng với Quan Âm Bồ Tát, tức là cùng có một gốc là Chơn linh của Đức Từ Hàng Bồ Tát.
Ba phẩm Đầu sư kế tiếp lấy chữ THANH làm Tịch Đạo cho Nam phái, các Ngài phải lấy Thánh danh là: Thái Đầu-sư Thái Thơ Thanh, Ngọc Đầu-sư Ngọc Trang Thanh, Thượng Đầu sư Thượng Tương Thanh (buổi đầu các Ngài chỉ là “Quyền Đầu sư”. Từ đó hai Ngài Tương và Trang hợp với Ngài Thơ lập “Quyền Thống Nhứt”.
Hai vị cùng là TỪ HÀNG ĐẠO NHƠN như:
nguơn linh của Ngài Hiến Pháp là Từ Hàng Đạo Nhơn. Ngày 3-7 Đinh-Mão (31-7-1927) may được Quỉ Cốc Đại Tiên giáng đàn (Trang 60)
Ở đây Ngài Thái Thơ Thanh cũng là Từ Hàng Đạo Nhơn, theo như lời Đức Chí-Tôn cho biết. Hỏi vì sao hai người cùng một nguơn linh ? Đây không phải là lạ vì Đức Chí-Tôn có cho biết một nguơn linh cao trọng có thể chiết chơn linh xuống trần cùng một lúc mà hai ba người cùng làm nhiệm vụ cứu đời.
4- Thái Ðầu Sư Thái Thơ Thanh
Nguơn linh Ngài là Từ Hàng Ðạo Nhơn
Tức là Quan Âm Bồ Tát. Tầm nguyên thì Phật Từ Hàng tu đắc Đạo ở Phổ Đà Sơn, “Phổ Đà Sơn giải qủa Từ Hàng” cũng là Quan Âm Bồ Tát.
Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh, thế danh là Nguyễn Ngọc Thơ, tên thật là Nguyễn văn Tơ, sanh năm 1873 tại quận Bãi Xàu tỉnh Sóc Trăng, sau lên Sài gòn lập nghiệp ở Tân Định. Thân sinh là Ông Nguyễn Hưng Học, cháu ruột của Trung Quân Nguyễn văn Thiền, vốn dòng trâm anh thế phiệt, Trung hưng công thần
Ngài Nguyễn Ngọc Thơ có chấp nối duyên vợ chồng với Bà Lâm ngọc Thanh ở Vũng Liêm, tục gọi là Bà Huyện Xây (Lâm Ngọc Thanh). Hai Ông Bà đều được Đức Chí Tôn độ theo Đạo. Về sau bà Lâm Ngọc Thanh đắc phong Nữ Đầu Sư, Thánh danh là Lâm Hương Thanh.
Ngày 2-7-Bính Dần (dl 9-8-1926), Đức Chí Tôn phong Ngài Thơ làm Phối Sư phái Thái, cầm quyền Thái Chánh Phối Sư, Thánh danh là Thái Thơ Thanh.
Ngày 17-2-Quí Dậu (dl 12-3-1933), Ngài Thái Thơ Thanh được thăng lên Quyền Thái Đầu Sư.
Cả hai nhà nghiệp chủ này vừa giàu sản nghiệp lại
vừa giàu đạo đức nên đã góp một công quả rất lớn trong buổi đầu như mua đất hiến làm Toà Thánh và các cơ sở…
Bài Thánh Ngôn Ðức Chí Tôn dạy Ngài Ðầu Sư
Thái Nương Tinh. Ðức Chí Tôn nói:“Thiên cơ Thầy đã thố lộ nơi Thơ, rán xem đó mà liệu trong lúc sau nầy”.
Ngày 08-12-Bính Dần (dl 11-1-1927) Ðức Chí Tôn giáng dạy Ngài Thái Thơ Thanh như sau:
ÐS. II. 177: "Thơ, con đừng lo lắng về Chơn thần
con lắm vậy nghe...Nhiều phen Thầy nghe con vái, nhưng mà ngày giờ chưa đến nên Thầy chưa nói. Ngày nay Thầy tỏ thiệt cho con hiểu. Con là một chơn linh cùng Quan Âm Bồ Tát. Con đã hiểu rồi, vậy từ đây phải biết mình trân trọng mà trau giồi tánh hạnh nghe.
Thầy chẳng nói căn cội của Nương e con giận. Vậy Thầy cũng nói luôn để cho anh em nhìn nhau, thương yêu nhau. Nó là Văn Thù Bồ Tát tái thế, nghe à! Nó lập ngôi vị cho con, nó đi một đường với con mà hành Đạo cho tới ngày hai con đến đắc quả đặng trở về cùng Thầy.
Lâm Thị Ái Nữ! như lời Thầy nói thì hai con phải thương yêu nhau hơn nữa, hầu sau khỏi thẹn với nhau, nghe con !”
5 -Ngài Nguyễn Ngọc Tương
Quyền Đầu sư Thượng Tương Thanh
Ðức Quyền Giáo Tông giáng cơ tiết lộ cho biết: Ngài Nguyễn Ngọc Tương là chơn linh của Ngô Tôn Quyền tái kiếp.
Ông Nguyễn Ngọc Tương sanh ngày 26-5-Tân Tỵ (dl 22-6-1881) tại làng An Hội, tỉnh Bến Tre, thuở nhỏ học tại Collège Mỹ Tho, rồi lên Sài Gòn học ở Lycée Chasseloup Laubat, đậu bằng Thành Chung năm 1902, xin làm Thơ ký phòng Thượng Thơ. Làm nơi đây được 1 năm thì xin về làm Thơ ký nơi Tòa Bố tỉnh Bến Tre suốt 17 năm liền.
Năm 1919, thi đậu ngạch Tri Huyện, được bổ làm Chủ Quận Châu Thành Cần Thơ, rồi Chủ Quận Hòn Chông (Hà Tiên), rồi đến năm 1924 thì đổi về làm Chủ Quận Cần Giuộc, qua năm 1927 đổi ra làm Chủ Quận Xuyên Mộc (Bà Rịa).
Ông nhập môn theo Ðạo Cao-Ðài vào tháng 2 năm Bính-Dần (1926), thọ phong Thượng Chánh Phối Sư ngày 17-5-Bính Dần (dl 26-6-1926). Năm 1930, thăng lên Quyền Ðầu Sư.
Ðầu năm 1934, ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, rút về làng An Hội lập Ban Chỉnh Ðạo và sau đó biến thành Chi phái Bến Tre.
Ngày 8-1-Ất Hợi (dl 11-2-1935), Ðại Hội Vạn Linh phái Bến Tre bầu ông Tương làm Giáo Tông phái Bến Tre.
Ngày 7-4-Ất Hợi (dl 9-5-1935) cử hành Lễ Ðăng điện cho Ngài Tương lên ngôi Giáo Tông ở Thánh Thất An Hội Bến Tre và từ đó Thánh Thất An Hội được gọi là Tòa Thánh Bến Tre.
Từ năm 1942 đến 1951, ông Tương thường nhập tịnh trong Tịnh Thất riêng, lúc đó ông thường tự xưng là Lý Giáo Tông.(Xem “Chi phái Cao-Đài” cùng Soạn giả)
6- Ngài Lê Bá Trang
Quyền Ngọc Đầu sư Ngọc Trang Thanh
Ðức Quyền Giáo Tông giáng cơ tiết lộ cho biết: Ngài Lê Bá Trang là chơn linh Quan Vân Trường thời Tam Quốc tái kiếp. Người phản Đạo là hai Ông Tương Trang. Cả hai tách rời Toà-Thánh ngày 5-3-1934 (Giáp Tuất)
Khi ông Trang qui ngày 30-5 Bính-Tý (dl 17-7-1936) ông Tương mất đi người cộng sự đắc lực, nên tuyên-bố rằng:
“Chi phái lập thành do Cơ Bút bình thường dẫn dắt, nay Chi phái đã hết phận sự thì Cơ Bút bình thường không còn hiệu lực. Chương trình hiệp nhứt gốc Đạo về Tổ Đình Tây-ninh phải lo…”
Khi đưa xác Ông Trang về Thánh Địa do Chi phái nài xin. Ông Tương thừa dịp đưa đám táng ông Trang, ông mặc áo mão Giáo-Tông tự phong, bị Đức Hộ Pháp ra lịnh: “Nếu Ông Tương muốn Liên Đài ông Trang vào Nội-ô để an táng phải mặc đồ thường phục, bằng không thì chẳng được vào Toà-Thánh hành Lễ Đức Chí Tôn”.
Tội phản loạn của ông Trang bị Đức Hộ-Pháp đánh Ma-Xử vào Liên đài ba cái mà linh hồn ông bị đoạ vào Lạc-Hồn-Trì nằm mê suốt ba tháng trường do Thánh giáo Đức Quyền Giáo-Tông giáng dạy. Sau ba tháng tỉnh hồn rồi trốn chạy nhập vào xác một người, rồi chạy vào Hộ Pháp-Đường để cầu xin Đức Hộ-pháp xá tội. Nhưng khi gặp Phật, hồn ông Trang nói không nên lời chỉ ú-ớ, bị Đức Ngài đánh cho một tát tay chạy mất dạng.
Đức Quyền Giáo-Tông yêu cầu: “Nhờ Hộ pháp gặp bắt giữ giùm chờ Ngài đến độ dẫn kẻo tội nghiệp”.
Còn Ông Tương tuy chưa chết nhưng Thánh giáo của Đức Quyền Giáo-Tông nói:“Rồi đây Nguyễn Ngọc Tương cũng phải chịu hình phạt như thế. Vì ông Tương là chánh phạm dụ dỗ một số người bỏ Chánh Đạo chạy theo để lập Chi-phái mà Bát-Đạo Nghị Định của Đức Lý ghép vào Tả Đạo Bàn-Môn”.
Tại sao dám nói hai vị Chức sắc này là
phản Đạo?
Đây chỉ lập lại lời nói của Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh. Ông Lê-Thế Vĩnh gởi Chức-sắc và bổn Đạo nói về ông Lê-Bá-Trang vào năm Đạo thứ tám (Đệ Bát niên) tại Toà-Thánh Tây-Ninh, ngày 29 tháng 8 năm Quí Dậu (le 10 Novembre 1933). Nguyên văn như sau:
Kính gởi cùng Chư Chức sắc Thiên-phong Nam Nữ và Chư Đạo-Hữu Nam Nữ lưỡng phái,
Kính cùng chư Hiền huynh và chư Hiền Tỷ.
Ngày 12 Septembre 1933, Đạo-hữu Lê Bá-Trang là Cựu Quyền Đầu-Sư Cửu-Trùng Đài bị ngưng quyền.
Ngày 26 Juillet 1933, có ra Châu-tri số 146 nói là can dự đến Tệ Đệ và toàn nền Chánh-trị Đạo.
Tệ Đệ chỉ buồn cười cũng bỏ qua cho Người biết xét mình mà ăn-năn tự hối, dè đâu ngày 20 Septembre 1933, Người lại ra thêm một tờ Châu-tri số 147 cố ý nhục mạ Đức Quyền Giáo-Tông và nhiều vị Chức-sắc đương hành Đạo.
Tệ Đệ vẫn điềm nhiên xem coi trong trí lực thường tình của Người sau này được nảy nở được nhiều chi đặc biệt nữa.
Thật vậy cách vài hôm sau, quả có kẻ phụ sự của Người đến Giáo-Tông-đường giựt máy đánh chữ và vu vạ, rồi thì càng ngày càng lộng, nào là nhóm ngày nhóm đêm, nào là xúi giục kiện thưa, nào là hăm doạ bỏ tù Đạo hữu, nào là kỳ cho một tháng nữa là đuổi hết cả Quyền Giáo Tông và Hộ-Pháp ra khỏi Thánh-Địa, nào là hiêu hiêu tự đắc khoe rằng: Chấp ba ngựa cũng thắng…
Đầu-sư gì mà luật Đạo không thông, trách-nhiệm không biết, thậm chí kinh Cúng Tứ Thời cũng không thuộc, Tu-hành gì mà còn giả dối, còn mưu-mô, còn quyền quyền thế thế.
Than ôi! Nếu Tệ Đệ không có phận-sự đặc biệt trong Hội-Thánh, thì Tệ Đệ đã thối bước lâu rồi, để cho họ tự quyền diệt Đạo.
… Cả bằng cớ Tệ Đệ đều nắm sẵn nơi tay đặng đợi ngày giải kẻ phạm ra Toà Tam giáo, sẽ cho toàn Đạo biết rõ rằng: “Hai Đạo-Hữu Lê-Bá-Trang và Nguyễn Ngọc Tương là người phản Đạo”.
Tệ Đệ xin chư Đạo-Hữu cứ giữ phận-sự tu-hành, đừng lầm nghe mà sau này ăn-năn rất muộn.
Tệ Đệ vì phận-sự quyết xin Đức Hộ-Pháp giữ
nghiêm pháp luật và từ đây ngày nào còn Đức Hộ-Pháp và Tệ Đệ thì bọn Tà Thần đừng mong gì đến cửa Đạo mà dụng Tà quyền để áp bức và hăm doạ đạo-hữu…”
7- Ngài Thái Chánh Phối Sư Thái Ca Thanh
Nguơn linh Ngài là Độc giác Thanh Ngưu
Tức là con trâu của Ðức Lão Tử cưỡi.
Năm 1931 Ngài Phối Sư Thái Ca Thanh rút khỏi Toà Thánh Tây ninh về Mỹ Tho lập Minh Chơn Lý trong cơ Ðạo phân chia Chi phái. Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang hợp tác với Minh Chơn Lý, sau đó thấy ông Ca và ông Phùng sửa đổi hết cách thờ phượng, nên Ngài rút khỏi Minh Chơn Lý, xuống Bạc Liêu hợp tác với ông Cao Triều Phát mở phái Minh Chơn Ðạo năm 1935.
Nguyên căn của Phối Sư Thái Ca Thanh là Ðộc Giác Thanh Ngưu của Ðức Lão Tử giáng phàm. Truyền Trạng Phạm Văn Ngọ là Từ Giáp cùng giáng phàm với. Thanh Ngưu ở với Ðức Lão Tử lâu năm nên có nhiều phép biến hóa huyền diệu (truyện Ðông Du Bát Tiên).
Khi Đức Hộ-Pháp đến Ngọc-Hư-Cung lãnh lịnh xuống trần lập Đạo Cao-Đài có gặp Đức Thái Thượng Đạo-Tổ, Ngài cho biết:“Hiền hữu sẽ bị Thanh Ngưu xuống thế khảo Hiền-hữu, nhưng không sao, Lão sẽ cho Từ-Giáp xuống thế theo gìn-giữ nó”.
Nguyên do: Đức Hộ pháp đến Cung Đẩu Suất từ giã Đức Lý-Lão-Quân. Ngay lúc mà Đức Hộ-Pháp mặc khôi giáp rực rỡ đến trình diện trước Ngọc Hư Cung. Thanh ngưu của Đức Lão Tử kinh hoảng giựt mình chạy làm đứt dây sứt lỗ mũi, chạy bay xuống thế đầu kiếp làm Nguyễn văn Ca, với ý định để trả thù Hộ-Pháp sau này, gọi là báo thù “Sứt lỗ mũi trâu”.
Đốc Phủ Ca, sau lập Chi phái Minh Chơn Lý chống đối Toà-Thánh Tây-ninh dữ-dội. Cuối cùng đi đến cuồng tín không còn thờ Thiên-Nhãn và danh hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ nữa.
Từ-Giáp giữ Thanh Ngưu, khi đầu kiếp xuống trần để giữ ông Ca là Truyền Trạng Phạm-văn-Ngọ.
Sau đó, Đức Hộ-Pháp cho Ông Ngọ liên hiệp Chi phái của ông Ca để kềm giữ. Ông Ca chỉ sợ và nghe lời khuyên nhủ của ông Truyền Trạng Ngọ mà thôi. Vì thế mỗi sự việc đều có nguyên-nhân của nó. Dấu tích của ông Ca hiển hiện rõ như: lỗ mũi có thẹo, nơi ngực có chòm lông, đụng đâu bạ đó, cũng như trâu thường vung sừng đụng trán đối phương.
Cuộc Ân oán đối với Đốc Phủ Ca:
Lúc đầu ông Đốc Phủ Ca làm Quận Trưởng Châu Đốc. Ông vâng lịnh Thực dân Pháp ruồng bố các nhóm Cách Mạng chống Pháp đang lập căn cứ trong Thất Sơn, giết chết ông Cử Ða và bắt học trò của Cử Ða là Bảy Do giao cho Pháp xử tử. Chơn linh Ông Bảy Do là Phật Thầy Tây-An. Linh hồn Ông Bảy Do lên kiện nơi Ngọc Hư Cung. Ngọc Hư Cung cho phép ông Bảy Do báo oán và giao phận sự giục loạn trong nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn để trục ngoại các thành phần phản đạo, rửa ráy hàng ngũ Chức sắc cho trong sạch.
Theo luật báo oán, Ngọc-Hư-Cung cho phép ông Bảy Do báo thù ông Ca về tội sát nhơn, báo cho Ông Ca tu không được, bị khảo cho đến chết.
Lúc đương quyền thì ông Quận-trưởng nhiều uy quyền, ai cũng sợ ông Ca, riêng ông Ngọ đối xử với ông bằng tình bạn-bè thân mật vẫn gọi ông Ca bằng tiếng “mày, tao”. Ông Ngọ nói gì ông Ca cũng nghe cả (đó là người nài đối với con trâu nên cả nễ nhau từ tiền kiếp đến giờ là vậy).
Khi Ông Ca chết Chi-phái này tan rã, vì không còn dấu vết gì của Cao-Đài Toà-Thánh Tây-Ninh nữa, ông Ca là người phản Đạo thứ nhứt.
Ngày 21-7-1934, tại Phạm Nghiệp, Ðức Hộ Pháp cùng Ngài Cao Tiếp Ðạo phò loan, ông Bảy Do nhập cơ:
BẢY DO
“Kính chào chư vị Ðại Ðức và chư Ðạo hữu,
- Xin cho biết phẩm vị.
- Thần. Thầy của Bần tăng mắc chuyển cơ đặng giáo hóa TRANG, TƯƠNG, nên đến không đặng, mới sai Bần tăng thưa lại cùng chư quí vị.
Thưa Ðức Hộ Pháp, Bần tăng lấy làm bất nguyện vì buổi nọ Ngọc Hư Cung ban lịnh cho trừ diệt Phủ CA đặng báo oán. Bần tăng đã dụ nó vào Cấm Sơn và định đưa luôn vào ngục thất đặng sát hại, nào dè có lịnh Chí Tôn mật chỉ không cho sát mạng. Sau Bần tăng muốn nhập thể nó làm cho nó điên cuồng rồi bắt nó tự ải, nào dè Chí Tôn lại binh vực cấm ngăn thêm nữa, chỉ cho hành bịnh mà thôi. Nay nó bị điêu tàn cơ giả Ðạo nên mangbịnh
thất tình, tưởng khi Bần tăng cũng còn phương tẩy hận.
Ngài nín nẩm lóng tin thì hiểu rõ hành tàng mọi lẽ. Còn hai người TRANG, TƯƠNG thì Ngọc Hư Cung cho khảo. Thần đặng phép thử, khử tà trừ trược đủ ba năm khảo án, rồi dạy dỗ cho nó trung tâm, rồi cho trở lại Hội Thánh.
- Không. Cười! Hạng Thiên Thánh mà vào phẩm Ðầu Sư sao đặng. Bần tăng tưởng khi Ngài hiểu điều ấy chán chường, chẳng cần để luận. Họ chỉ lãnh Hàm phong là may mắn lắm đó.” (sưu tập của Quang Minh)
E- Phần ngoại lệ:
1-Trạng-Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm là chơn linh của Quan Âm Bồ Tát
Ngài đứng đầu trong Tam Thánh, ký Hoà-ước với Đức Chí-Tôn. Ngài là Sư Phó của Bạch-Vân Động.
Nay, Tam Thánh đại diện cho nhân loại, vâng lịnh Đức Chí-Tôn ký Hoà ước với Đức Chí-Tôn thực hiện cho được hai điều: BÁC ÁI – CÔNG BÌNH. Ba vị Thánh là:
1. Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.
2. Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ.
3. Đức Tôn Trung Sơn.
Là đại diện của Hội-Thánh Ngoại-Giáo, các Ngài là những Thiên mạng truyền giáo Ngoại quốc (Missionnaires étrangers) cho nên tượng ảnh để ở Hiệp Thiên-Đài, day mặt ra ngoài cho thiên hạ đều thấy mà hưởng ứng theo tiếng gọi Thiêng liêng của các Ngài..
Ba vị Thánh là:
1-Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ: Ngài giáng trần ở Việt-Nam là Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm (1491-1585).
2-Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn: Ngài giáng trần tại nước Pháp là Đại văn hào Victor Hugo (1802-1885).
3-Đức Trung Sơn Chơn nhơn: Ngài giáng trần ở Trung Hoa là nhà Cách mạng Tôn Dật Tiên, tức là Tôn Văn (1866-1925)
Ba vị Thánh kể trên.là Người của Bạch Vân Động.
BẠCH VÂN ĐỘNG là gì?
Đức Hộ Pháp giải thích về Bạch Vân Động: “Xưa nay người ta vẫn coi Nguyệt cầu (Mặt Trăng) là nơi dừng chân của những vị Thánh, Thần, trước khi xuống trần giới (Địa cầu) đầu thai. Các vị đó phải ở lại Nguyệt cầu ít lâu để liên lạc với Địa cầu, để quen lần với đời sống ở thế gian nầy.
Từ cổ, Thần thoại đã mệnh danh Nguyệt cầu là Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung). Cơ giáng ở Âu Châu, mệnh danh là LOGE BLANCHE (Bạch Động). Giáo chủ của Bạch Vân Động là Bạch-Vân Hòa-Thượng, miêu duệ của Từ-Hàng Đạo-Nhơn, dòng dõi Đức Phật Quan-Âm. Bạch Vân Hòa Thượng đã hai lần giáng trần ở Pháp và một lần ở Việt-Nam.
- Một lần là Hồng Y Giáo Chủ Richelieu.
- Một lần là Quận Công La Roche Foucault.
- Ở Việt-Nam, Ngài giáng trần là Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức gọi Trạng Trình”.
“Chính Trạng-Trình là chơn-linh của Quan Âm Bồ Tát cầm quyền điều-khiển cả thời-gian mới hiểu rõ”.
2-Ông Cao Quỳnh Tuân nguơn linh là Xuất Bộ
Tinh Quân ở Thượng giới
Ông Cao Quỳnh Tuân là thân phụ của các Ngài Cao Quỳnh Diêu (Bảo Văn Pháp Quân Hiệp Thiên Đài) và Cao Quỳnh Cư (Thượng Phẩm Hiệp Thiên Đài).
Cơ Phổ Độ ngày nay, chính ông là người đến trước tiên trong việc Xây bàn. Ông cũng là người vén màn bí mật để làm niềm tin cho ba vị tiền khai Đại-Đạo là ba ông Cư, Tắc, Sang (sau là Thượng phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh) qua bài thi Tự thuật.
Ông Cao Quỳnh Tuân làm Cai Tổng Hàm Ninh Thượng và mất lúc Ông Diêu được 14 tuổi.
Ngày mùng 6-8 Bính-Dần (dl 12-9-1926) Ðức Chí Tôn giáng dạy riêng Ngài Cao Quỳnh Diêu (hiệu Mỹ Ngọc) sau đó cho Xuất Bộ Tinh Quân Cao Quỳnh Tuân, thân phụ của Ông Diêu và ông Cư giáng cơ dạy tiếp.
Phò loan: Cao Hoài Sang – Cao Quỳnh Diêu.
THẦY (Đức Chí-Tôn)
“Mừng mấy con: Mỹ Ngọc! Từ đây việc nhà con an ổn, dầu điều chi nhớ để ý rằng có Thầy bên con.
Ðặng một việc chi chớ vội mừng, thất một việc chi chớ vội buồn, vì sự buồn vui và sự buồn tủi thường pha lẫn kế cận nhau, còn sự gì phải đến cho con, ấy là tại nó phải vậy, chớ cượng cầu mà nghịch Thánh ý Thầy. Hãy xem dò theo đây mà day trở trong bước đường Ðạo:
THI
Mối Ðạo từ đây ráng vẹn gìn,
Tu là khổ hạnh khá đinh ninh.
Lòng thành một tấm Trời soi xét,
Gương rạng nghìn thu nguyệt chiếu minh.
Gai gốc lần đường công trước gắng,
Thảnh thơi có lúc buổi sau dành.
Vòng trần chìm nổi từ đây dứt,
Công quả tua bền độ chúng sinh.
Đức Chí-Tôn
Thầy sẽ cho Xuất Bộ Tinh Quân đến nhập cơ. Thăng
Tái cầu:
CAO QUỲNH TUÂN
Mừng mấy con và mấy cháu,
Diêu! Từ đây Thầy (1) lấy làm vui mà thấy con đặng để bước vào đường Thánh Đạo. Vậy hãy ráng tu hạnh hầu phục hồi cựu vị.
Thầy rất vui mà thấy Cư và con đã đem tấm nhiệt thành cứu độ nhơn sanh khỏi dòng khổ hải. Ấy cũng số phần rất may mắn của lịnh Ngọc-Hoàng đã định cho con và Cư, Tắc, Sang.
Vậy thầy có mấy lời thiết yếu cùng con sau đây:
Cựu vị ngày xưa đã có rồi,
Ðường về chớ bỏ há con ôi!
Công trình chớ nệ xây nền Ðạo,
Phước mỏng đâu hay bởi tứ Trời.
Ðức trước hưởng rồi tua trả đức,
Ngôi sau gìn ắt đặng an ngôi.
Từ đây son sắt vì sanh chúng,
Cảnh tịnh mai sau cũng đặng ngồi.
(Thầy là Cha: Cao Quỳnh Tuân)
Thầy đã an lòng cho con và Cư, còn ÐỨC, AN, THÂN, thì có lịnh Thượng Ðế định phần cho chúng nó. LƯỢNG từ đây phải ở nơi Lôi Âm Tự mà chầu Phật Như Lai và nghe lịnh, chừng có lịnh Thượng Ðế đòi sai trấn thì nó sẽ về cùng con đặng. Thầy kiếu mấy con
3-Ông Hữu Phan Quân Lê văn Thoại
là nguơn linh của Nhan Hồi.
Nhắc lại việc Đức Hộ-pháp giao sứ mệnh cho ông Lê văn Thoại cấm cờ Bến-Hải:
(Trích tài liệu của ông Thanh-Minh)
“Trước sự hiện diện của Ngài Hồ Bảo-Đạo và ông Lê-Văn-Thoại, Đức Hộ-pháp đưa ra giải pháp cần chọn người ra Bến hải cậm cờ trên cầu Hiền Lương. Đức Ngài vừa dứt lời thì hai ông đều tình nguyện ra đi:
- Ông Hồ Bảo-Đạo nói:
“Tôi đã già sống đến tuổi này cũng đã thoả mãn, nếu có chết cũng không còn luyến tiếc điều gì nữa, còn Thoại, em nó còn trẻ để nó sống hầu phục vụ nền Đạo có lợi hơn”.
Phần ông Thoại nói:
- “Tôi dốt nát ít oi, nếu có sống cũng không ích gì,
để Ngài Bảo-Đạo sống gần Thầy có lợi hơn. Như giao thiệp chính quyền hai miền hay đi Hội Nghị quốc tế, tôi làm sao mà làm tròn phận sự được”.
Cuối cùng Đức Hộ-Pháp nhận ông THOẠI và nói: “Nó có Thiên mạng cậm cờ Nhan Uyên ở Bến Hải”.
Chơn Linh nhập thể
Đức Hộ-pháp hành pháp: dạy 4 vị Chức sắc mỗi người đứng một góc, nắm tấm vải đỏ để trên đầu ông Thoại. Đức Ngài hành pháp kêu chơn linh của Nhan Hồi nhập vào xác Lê-văn-Thoại.
Ngài hỏi “Con có cảm giác gì không?”
Ông Thoại đáp: Thưa con có nghe nổ một tiếng lớn trên Nê-hườn-cung.
Như vậy là đắc pháp! Nói xong Đức Ngài rất vui vẻ vì đã có người dùng trong Giải pháp Hoà Bình Chung Sống mà Ngài chủ trương.
Sau có thêm ba vị nữa xin được tháp tùng làm sứ mệnh, tất cả là bốn vị: THOẠI, KỲ, ĐẠI, LỢI. Chuyến đi này rất nguy nan như Kinh Kha thích khách Tần-Thỉ Hoàng thuở nọ. Nhưng sau cùng nhờ Huyền diệu Thiêng liêng che chở nên mỗi người phải chịu 6 năm tù từ 1956-1962 chứ lẽ ra đã mất mạng cả rồi vì thời-kỳ này là thời kỳ gắt gao, chủ trương diệt Đạo Cao-Đài để đưa Công giáo lên hàng Quốc Đạo!
NHAN UYÊN KỲ:
Nhan-Uyên-Kỳ là cờ của Thầy Nhan Hồi tự là Nhan Uyên, học trò thứ nhứt của Đức Khổng Tử. Ông là người cần mẫn, thức khuya dậy sớm, học Kinh Thi, chuộng kinh Lễ, làm việc gì không lầm lỗi hai lần, nói điều gì không cẩu thả. Khổng Tử khen là người có nhân. Nhưng cuộc đời ông chỉ sống đến 31 tuổi thì mất. Sử ký của Tư Mã Thiên viết về Nhạn Hồi như sau:
“Trong 70 môn đồ, Trọng Ni chỉ khen riêng Nhan Hồi hiếu học, mà Nhan Hồi (Uyên) thường xác xơ, ăn hẩm hút mà cũng không được no, lại chết yểu. Trời kia báo đáp người thiện mà như vậy ư?”.
Thật ra thì cờ Nhan-Uyên không có, chỉ có trong lý thuyết mà thôi. Một hôm trước hàng Môn đệ, Đức Khổng Tử đưa ra một đề tài để thảo luận. Giả thiết rằng trong nước có loạn thì làm cách nào để trị loạn hay nhất?
Trong hàng Môn đệ người trả lời cách này, kẻ trả lời cách kia. Chỉ có Nhan Hồi là đưa ra ý kiến: làm một cây cờ trắng xông vào chốn ba quân, kêu gọi hai tiếng trách nhiệm chấm dứt đổ máu.
Ý kiến đó được Đức Khổng Tử cho là kế hay hơn cả. Kết luận câu chuyện của Đức Phạm Hộ Pháp nói với ông Trứ là:
“Mấy em nếu có chí can đảm đến Thái Bình dương sẽ gặp Thầy là buổi sau này kìa. Dầu cho Thượng Sanh chừng đó có can đảm đến đó sẽ gặp. Bằng chẳng vậy, cây cờ CỨU THẾ của Thượng Sanh về tay kẻ khác hay là qua sẽ đến giữa trận giặc toàn cầu thứ ba”.
Trong câu chuyện của Đức Hộ Pháp nói với ông
Đinh Công Trứ, cai trường Qui Thiện ngày 12-8-Đinh Hợi (1947) như sau:
“Nhan Hồi buổi nọ cố công thật hành lý-thuyết bình đẳng nhân loại, tránh nạn tương tàn tương sát nòi giống, nhưng rốt cuộc chưa làm được thì chết”.
Ngài nói tiếp:
“Em biết cây cờ trắng trương nó lên để làm gì? Biểu hiện ấy có phải để cứu nhân loài không? Chỉ một ngày kia, Thượng Sanh ra mặt đời là cây cờ Cứu Thế, còn Thượng Phẩm cây cờ Cứu Khổ. Qua đã thay cho Thượng Phẩm gầy dựng đào tạo. Thầy trò ta đã chung chịu cực khổ, từ khoảng rừng xanh ít người lai vãng. Mà buổi nọ Qua vắng mặt, em đi ngược Thánh ý của Qua”.
“Cây cờ trắng dùng để khi nước nhà nòi giống ta xô xát, cốt nhục tương tàn khốc liệt, vô phương cứu chữa, thì ngày ấy là giá trị của nó. Ngày giờ nào có kẻ thất thế, yếu cô, rách rưới, lang thang, đói cơm, khát nước, khổ não tâm hồn của nòi giống, không ai binh vực che chở. Chừng ấy nhiệm vụ trọng yếu của Thầy trò ta phải ra gánh vác. Đó là CƠ CỨU KHỔ thực hiện”.
Phong trào Hòa Bình Chung Sống do các ông THOẠI, KỲ, ĐẠI, LỢI tổ chức Ban Túc trực Bến Hải cắm cờ Nhan-Uyên tại đó kêu gọi hai miền Nam Bắc sớm thống nhất, bị chánh quyền Ngô Đình Diệm giải tán.
Cũng nên biết vào ngày 23-10-1961 Sĩ Tải Phạm Duy Nhung thừa Ủy-quyền của Đức Hộ Pháp họp báo tại nhà hàng Soái Kình Lâm (Sài gòn) công bố các bức thư gởi qua Mỹ, Anh, Pháp (trong Hội nghị Genève) có đoạn viết “Chúng tôi tin tưởng sự chân thành của qúi quốc với đại danh là liệt cường luôn luôn có ý chí giúp đỡ dân tộc chúng tôi mà không vụ lợi” ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt và tra tấn đến chết.
4-Thượng Phối Sư Thượng Vinh Thanh
Nguơn linh Francois Hugo đệ tử Bạch Vân Ðộng
Tiền kiếp ông Trần Quang Vinh là con của Ðức Victor Hugo -Nguyệt Tâm Chơn Nhơn. Chính Đức Victor Hugo Ngài có giáng Cơ nhìn con,là ông Trần Quang Vinh. Sau, ông Trần Quang Vinh đắc phong vào phẩm Phối sư phái Thượng là Thượng Vinh Thanh.
Ông Trần Quang Vinh đạo hiệu Hiển Trung là con của Đức Victor-Hugo hồi tiền kiếp
Ông Bà VICTOR-HUGO giáng Cơ nhìn Con:
Nguyên văn bài Cơ chữ Pháp: (Hiển Trung sao lục ra đây để lưu kỷ niệm. Đây bài của Đức Chưởng Đạo giáng đàn đêm 30-12-1931, lối 23 giờ, có đăng trong quyển lịch sử “Les Messages Spirites de la 3ème Amnistie de Dieu” trang 63)):
Saigon 30-12-1931, (23 h)
Chez le grand Dignitaire Thái Thơ Thanh à Tân định, Saigon.
Médiums: Hộ-pháp et Văn Pháp.
Présents à la séance: Le Pape Intérimaire Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, Chánh Phối-Sư Thái thơ Thanh, Gíao Hữu Thượng Vinh Thanh et quelques Dignitaires
Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
ou Victor Hugo
Bonjour mes grands frères,
Et la Mission Étrangère
Viens Hiển Trung mon enfant,
Voilà ton nom est maintenant grand,
Viens recevoir la bénédiction de ton père
La lignée des Hugo a le droit d’être fière
Tu as assez vu n’est-ce pas?
La France est vraiment grand Etat,
Oh! Ne te plains pas de son ingratitude,
Quoiqu’ Elle soit France, Elle garde cette habitude.
Tu lui as rendu un grand service,
Et, en religion , tu n’es que novice.
Pauvre garcon! Tu m’as fait tant souffrir au berceau,
Et tu me paies maintenant d’un renom des plus beaux
Ta mère a promis de venir
Avec moi, elle voudra te benir
Nous parlerons plus amplement au Saint-Siège.
Au revoir et à tantôt.
Bài dịch ra Việt văn:
Muốn cho chư đọc giả dễ hiểu, nên xin tạm dịch ra đây bằng Việt văn, điệu “Song thất lục bát” cũng cố gắng cho sát ý nghĩa, chư đọc giả nào rành hai thứ chữ Pháp Việt, xin bảo cho tác giả nếu có điều sơ thất, xin đa tạ.
Sai gòn, đêm 30-12-1931 (23 giờ) tại Biệt xá ông Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh ở Tân Định.
Phò loan: Hộ Pháp và Văn Pháp
Hầu đàn: Q.Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, Chánh P.S Thái thơ Thanh, G.H Thượng Vinh Thanh và vài C.S.
Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
hay Victor Hugo
Chào chư Đại Huynh và Hội Thánh Ngoại giáo.
HIỂN TRUNG con ! Lại đây Thầy dặn,
Tuổi tên con nay đặng chói loà,
Huệ ân con nhận nơi Cha,
Có quyền hãnh diện giòng Ta với đời.
Con đã thấy bao thời Pháp thuộc,
Được các nơi tôn bậc Đại cường,
Phiền chi con, kẻ vô ơn,
Mặc dù danh vọng cũng còn thói quen.
Ân lớn kia một phen con trả,
Khi mới vào lập quả đường tu,
Nuôi con CHA lắm công phu,
Giờ đây mừng trẻ đền bù vinh quang.
MẸ con hứa đến trần gian,
Cùng CHA thăm viếng ân ban con hiền.
Thăng
Trong hai câu cuối bài Thánh giáo trên Đức Chưởng Đạo báo cho hay rằng BÀ VICTOR HUGO, tức là MẸ kiếp trước của HIỂN TRUNG, hứa ban ơn cho con.
Lần lượt, ngày qua ngày, cho tới hơn một năm sau, mới có dịp cho Bà giáng tại Kiêm Biên đêm 16-02-1933, do Đức Hộ-Pháp và ông Cao Tiếp Đạo phò loan.
Sau đây là nguyên văn bài thi bằng Pháp văn. Tác giả cũng tạm dịch ra Việt Văn theo điệu “Song thất lục bát”.Có đăng trong quyển lịch sử “Les Messages Spirites de la 3ème Amnistie de Dieu” trang 73:
Phnom-Pênh, le 13 Février 1933 (22h)
(Chez Chánh Đức)
Médiums: Hộ-Pháp et Tiếp Đạo.
Présents à la séance: Giáo sư Thượng Bảy Thanh, Gíao-Sư Thượng Vinh Thanh, G.S. Thượng Chữ Thanh.
VICTOR HUGO
Bonjour mes frères et soeurs.
Charles et Francois, votre mère vient.
Madame VICTOR HUGO née Adèle FOUCHER
Debout mes enfants. Pleurs!
Je ne suis contrarier de ma vie
La volonté de votre père,
Surtout dans ses actes humanitaires
C’est toujours contre la tuerie
Qu’il a lutté.
Apres sa mort, il n’abandonne pas son projet,
Il vous envoie continuer ses oeuvres
Parmi ceux qui vous ont reniés.
Par ingratitude, ils accumulent les pires manoeuvres
Les calomnies et les iniquités.
Qu’a-t-il pu obtenir comme resultat?
Il a toutes les facultés de connaitre dans l’ Au-Delà
Non, il persiste malgré mes pleurs
A vous envoyer dans ce monde de terreur
Vacquerie lui aussi se reincarne;
Il se dit souvent que cette terre est son charme.
Il va être grand homme d’ Etat.
Il suit la trace de Léopold dans les Pays-Bas
Adèle ne veut plus souffrir,
Pour vous voir seulement, elle refuse de venir.
Elle dit que le souvenir est cuisant,
Elle ne veut revoir le monde des vivants.
Au revoir
Bài dịch ra Việt văn:
Victor Hugo phu nhân, nhũ danh Adèle FOUCHER
Này hai con bình thân nghe dạy!
Đổ luỵ thương MẸ phải đến đây,
Xét ra đời MẸ bao ngày,
Giữ tròn bổn phận đắng cay cùng chồng.
Ý CHA con MẸ không dám trái,
Bởi việc làm Nhơn ngãi của Người.
Đấu tranh chống giết muôn loài,
Về Tiên, người cũng chưa nguôi mộng lành.
Nên giao con sở hành tiếp tục,
Lắm những người xúi dục không nhìn,
Bày trò bạc nghĩa vô tình,
Mưu mô bất chánh để mình con cam.
MẸ hỏi thử có đem kết quả?
Cõi Thiêng liêng Người đã rõ thông,
MẸ dù than khóc cũng không,
Chí Người cương quyết gởi con xuống trần.
Vacquerie riêng phần tái kiếp,
Đến thế gian cho hiệp với lòng,
Đại Thần nó sẽ nên công,
Hoà Lan giúp nước theo giòng Léopold
Adèle sợ tâm hồn thêm khổ,
Nên không về hội ngộ cùng con,
Và rằng kỹ niệm xưa còn,
Đau thương lắm cảnh héo hon lòng người.
Nên không muốn thấy cõi đời,
Con người sống nữa để rồi khổ thân.
Thăng.
(Bài này có trong Huyền Diệu cơ Bút II, chưa in)
Ông là người lập ra Quân Đội Cao-Đài:
Nhắc lại: Mấy tháng cuối năm 1945 đến mấy tháng
đầu năm 1946 là giai đoạn nguy khốn nhứt của Đạo Cao Đài. Pháp tàn sát Đạo để trả thù đảo chánh. Còn Việt Minh tàn sát Đạo vì buộc tội theo phát xít Nhật. Một đàng giết mà có điều kiện dàn xếp, còn một đàng giết không có điều kiện giải quyết.
Sau khi được một số tín hữu ở Cà Mau giải thoát khỏi nhà giam Việt Minh, ông Trần Quang Vinh về Saigon ẩn náu được vài ngày thì bị Pháp bắt giam tại bót Catinat cùng một số Chức sắc. Trước tình cảnh bi đát đó, ông buộc lòng phải nhận lời của Pháp, dàn xếp với điều kiện phải kêu gọi hai Chi Đội 7 và 8 trở về thành lập Quân đội tự vệ Cao Đài thì Pháp sẽ cho Đạo được tự do tín ngưỡng.
Việc hiệp tác với Pháp buổi đó ngoài ý muốn của mọi người, nên anh em ở chiến khu còn dè dặt chưa quyết định dứt khoát vì không hợp nguyện vọng của họ. Nhưng dầu muốn hay không cũng phải gỡ rối cho Đạo lúc khó khăn. Anh em chỉ về hiệp tác một số ít, phần đông ở lại đề phòng mọi sự bất trắc có thể xảy ra, nếu người Pháp không thật tâm.
Thoả hiệp ký kết với Pháp ngày 9-6-1946
5- Bà Giáo Sư Trần Hương Phụng
nguơn linh Khổng Minh đời Tam Quốc TrungHoa
Bà Giáo Sư Trần Hương Phụng, tức Kim Phụng, Ðạo hiệu Ưng Quân, Chưởng Quản Nữ Phái Hội Thánh Ngoại Giáo, Thánh Thất Kiêm Biên Phnom-Pênh. Bà là bậc Nữ lưu có tài giỏi về thi thơ cũng làm cho Nam giới kính nễ. Bà đảm đang, nhiều trực tính nên cương quyết. Chồng Bà là người Pháp tên Batrya. Bà Hương Phụng cùng một thời với Bà Hương Thanh. Hai Bà có xướng hoạ thơ văn
Bà Hương Thanh xướng bài chữ “ĐẠO”:
ĐẠO nguyên một gốc nảy sanh ra
ĐẠO mở kỳ này ấy thứ ba
ĐẠO giáo rộng quyền do bút Thánh
ĐẠO căn vun đắp tự lòng ta
ĐẠO lo trổi bước lên đường Chánh
ĐẠO chớ lầm chơn tới nẻo tà
ĐẠO Lão, Đạo Nho và Đạo Phật
ĐẠO nguyên một gốc nảy sanh ra
Nữ Thi-sĩ Trần-Kim-Phụng cũng nổi tiếng trong cửa Đạo lúc bấy giờ. Bà thuộc Họ Đạo Kiêm Biên (Nam Vang). Hoạ nguyên vận bài thơ trên:
ĐẠO vẫn một nguồn bũa khắp ra
ĐẠO qui Tam giáo độ kỳ ba
ĐẠO mầu chống vững tinh thần nước.
ĐẠO pháp bao đồng thế giới ta
ĐẠO chỉ nhiệt tâm vì nghĩa vụ
ĐẠO do chơn lý khử gian tà,
ĐẠO tầm cội đức mà tu tỉnh
ĐẠO vẫn một nguồn bũa khắp ra
6- Ông Batrya
Nguơn linh là Mạnh Hoạch
Ông Batrya là chồng của Bà Trần Kim Phụng, một Nữ Chức sắc Chưởng quản Hội Thánh Ngoại giáo ở Kiêm Biên Tông Đạo (Nam vang). Tiền Kiếp Ông Batrya (ÐạoHữu người Pháp) ở vào đời Tam Quốc, bị Khổng Minh bắt 7 lần mới chịu phục. Nay tái kiếp làm chồng Bà Trần Kim
Phụng tức Khổng Minh, giúp Bà hành Đạo.
7- Ông Lò
Nguơn linh là Thổ Hành Tôn
Gọi là Ông Lò (không nhớ tên) thường quen gọi như thế. Người có mặt ngay từ buổi mới Khai Đạo, ở luôn trong Nội Ô Toà-Thánh. Người công quả rất lớn, chuyên lo nấu nước tại nhà lò Trai đường và hốt thuốc Nam cho công quả làm Ðền Thánh uống. Nguơn linh Người là Thổ Hành Tôn, đời Phong Thần, Hội Thánh có lần đem danh sách Người xin cầu phong, nhưng Ðức Lý Giáo Tông cho biết Người là một vị Tiên giáng trần đi chơi, không có tên trong Tam Kỳ Phổ Ðộ, nên không phong tước phẩm cho Ông Lò.
Đức Hộ-pháp chuẩn bị Trấn pháp
cầm nhành Dương và Cam lồ Thuỷ