Tủ Sách Cao Đài - Hòa Hảo

NGƯƠN THẦN VÀ THỨC THẦN - Phần 1

Đăng lúc: 00:19 AM 31/05/2018 0   668

Cùng Chủ Đề

HỘI LONG HOA - phần một
TRIẾT LÝ VỀ HỘI LONG HOA QUA CÁC TÔN GIÁOTIẾT 1: HỘI LONG HOA LÀ...
HỘI LONG HOA - phần hai
C. HỘI LONG HOA     ...
HỘI LONG HOA - phần ba - Hết
V. PHẬT GIÁO HÒA...

NGƯƠN THẦN VÀ THỨC THẦN

NGƯƠN THẦN VÀ THỨC THẦN

Thánh Ngôn:

Than ôi! Đã bước chân vào đường Đạo hạnh mà chẳng để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn thì phận sự làm môn đệ như thế có ích chi cho nền Thánh Giáo đâu?

\

Ngươn Thần: Chính là Chơn Linh, là Điểm Linh Quang, là Đệ Tam Thể, là Bổn Lai Diện Mục của mỗi người! (xem bài Kho tàng bí tạng Như Lai).

Ngươn Thần là cái Thần nguyên chất, Linh diệu, trí huệ, viên giác tròn đầy. Ngươn Thần tự nó siêu tuyệt, đầy đủ, khỏi cần tu sửa!!! Nó chính là Chơn Sư riêng của mỗi người. Ngươn Thần (Lương Tâm) có nhiệm vụ dạy dỗ Thức Thần (Phàm Tâm, đệ nhị thể) và phải chịu trách nhiệm theo dõi, kèm sát luôn luôn cái Thức Thần!!! Cho nên, cái Thức Thần (Tâm) nếu còn mê muội, động loạn, đọa lạc, trầm luân thì cái Ngươn Thần lại phải kèm sát dạy dỗ luôn luôn cho đến chừng nào cái Thức Thần đạt được Thánh Thiện mới thôi!!! Lúc đó, cái Thức Thần mới đủ điều kiện hiệp nhứt được với Ngươn Thần, mà ta thường gọi là đắc Đạo!!! Ngươn Thần của mọi người đều bình đẳng, của Phật cũng như của chúng sanh, vì Ngươn Thần chính là Nguyên Tánh, là Phật Tánh của mỗi người.

Thức Thần: Là Chơn Thần, là đệ nhị thể, là cái Tâm!!! Cái chữ Tâm mà mọi người thường dùng để nói, đó chính là Thức Thần vậy!!! Cái Thức Thần này cần phải được tu sửa, rèn luyện tu tập sao cho ngày càng sáng suốt, trí huệ đạt đến Thanh tịnh Thánh đức để được hiệp nhứt với Ngươn Thần! Đạt được như vậy, thì cái Thức Thần mới tránh khỏi vòng luân hồi sanh tử, mới được giải thoát!!!

Ngươn Thần phải dạy dỗ Thức Thần cho đến đạt được Giác Ngộ để biết theo Chánh bỏ Tà, theo Thanh bỏ Trược, theo Thiện bỏ Ác, theo Tịnh bỏ Động!!! Nếu cái Thức Thần còn phân biệt Chánh Tà, Thiện Ác thì nó còn ở trong vòng nhị nguyên!!! Dạy cái Thức Thần biết bỏ Chánh, bỏ Ác theo Thiện thì Thức Thần vượt qua được Nhị Nguyên nhưng còn chấp nhất nguyên!!! Cho nên Ngươn Thần phải dạy tiếp tục thêm nữa cái Thức Thần cho đạt được vô nguyên thì mới thật sự giải thoát, mới thật sự nhập lưu!!!

"Cung trí giác trụ tinh thần!

Hườn hư mầu nhiệm thoát trần đăng Tiên!!!"

Hườn hư mầu nhiệm = Nhập lưu Niết Bàn = Vô nguyên!!!

THẦN CHÚ

Thánh Ngôn:

Gần nơi Tiên Cảnh, phải xa phàm!

Cái kiếp trần này trẻ chớ ham!

Một miếng đỉnh chung trăm giọt thảm,

Phải toan lui gót tránh vòng tham!!!

Thánh ngôn:

Trở chơn ít kẻ lo đi ngược!

Bước đọa xem qua dấu dập dìu!!!

\

Thông thường thì Thần Chú không được dịch ra ngoại ngữ mà phải viết và nhất là đọc thì phải y theo nguyên ngữ, dù đó là Phạn ngữ hoặc là loại cổ ngữ nào đó!!! Điều đó có phải là tuyệt đối không? Thần Chú có thể được dịch ra ngoại ngữ không? Trước khi giải quyết hai câu hỏi này, chúng ta nên tìm hiểu cho rõ nghĩa hai chữ Thần Chú cái đã!!!

Thần Chú có 2 loại:

* Thần Chú loại thứ nhứt:

Chú: một câu văn, một lời nói, chẳng hạn, chú thích có nghĩa là giải thích một câu văn...

Thần: Thần Linh, có tên riêng.

Thần Chú: Là một lời nói sai khiến tên riêng của một vị Thần Linh nào đó để thi hành một công việc nào đó!!! Loại Thần Chú này không thể dịch ra ngoại ngữ nào khác được vì là tên riêng của một vị thần thì làm sao dịch được! Phải đọc trúng tên của vị Thần Linh đó thì ông ta mới phục dịch cho người đọc Thần Chú. Loại Thần Chú này thật là nguy hiểm, chúng ta không nên sử dụng, vì chúng ta phải có đầy đủ "Công lực" mới sai khiến thần linh. Đến một lúc nào đó, cái Thần Linh đó sẽ quật ngược lại chúng ta nếu chúng ta hết "Công lực"!!!

* Thần Chú loại thứ hai:

Chú: Là một câu, một lời nói.

Thần: Là Chơn Thần, là cái Tâm của chúng ta.

Thần Chú: là một lời nói, một câu Kinh để dạy cái Tâm của chúng ta. Theo nghĩa này thì Thần Chú cũng được gọi là Tâm Chú, Tâm Kinh.

Thí dụ:

Thấy CÓ thì bị ràng buộc!!!

Thấy KHÔNG liền được giải thoát!!!

Hai câu thí dụ đó có ý dạy cái Tâm của chúng ta nên được gọi là Tâm Chú, là Tâm Kinh, là Thần Chú!!!

Như vậy, Thần Chú theo nghĩa này (loại thứ hai) thì có rất nhiều, mặc sức chúng ta sử dụng để tu tập để dạy Tâm, để tu Tâm, để tu trí huệ, để tu Thiên Đạo!!!

Tóm lại, loại Thần Chú sai khiến Thần Linh thi hành theo ý muốn của chúng ta thì nên tránh xa. Còn Thần Chú có mục đích dạy Tâm thì chúng ta sử dụng càng nhiều chừng nào, càng tốt chừng nấy!!!

VÃNG SANH THẦN CHÚ

Kinh Hạ Huyệt

Nhờ Hậu Thổ xương tàn gìn giữ!

Nghĩa Chí Tôn tha thứ tiền khiên!

Đưa tay vịn phép diệu huyền!

Ngọc Hư lập vị, Cửu tuyền lánh chơn!!!

\

Vãng Sanh Thần Chú là Tâm chú, là Tâm kinh, tức là một loại Chú để dạy Tâm của một người vừa chết! Đại Từ Phụ khai mở Đạo Trời để độ rỗi chúng ta thật là kỹ!!! Khi chúng ta còn sống khỏe mạnh thì có nhiều bài Kinh dạy Tâm cho chúng ta. Khi chúng ta ăn cơm thì có Kinh tụng trước và sau khi ăn cơm để dạy Tâm của chúng ta. Khi chúng ta đi ngủ hoặc sau khi thức, cũng có những bài Kinh dạy Tâm của chúng ta nữa. Khi chúng ta vào trường học cũng có Kinh dạy Tâm cho chúng ta. Có đủ loại Kinh để luôn luôn dạy Tâm cho chúng ta. Đó là nói lúc chúng ta còn sống mạnh, sống khỏe!!! Còn lúc chúng ta hấp hối sắp chết thì cũng có Kinh dạy Tâm cho chúng ta nữa!!! Đức Thượng Đế có lòng Đại Từ Bi đến nỗi, biết người hấp hối sắp chết không thể tự mình đọc Kinh được, cho nên mới cho các em đồng nhi đọc cho người hấp hối nghe để tỉnh Tâm sửa mình!!! Đó là bài Kinh Cầu Hồn khi hấp hối!!! Nếu như chết rồi thì cũng có bài Kinh khi đã chết rồi, kế đó là Kinh Tẩn Liệm, là Kinh Cầu Siêu, Kinh đưa Linh Cửu, Kinh hạ huyệt và Vãng Sanh Thần Chú!!!

Tất cả các bài Kinh nói trên kể cả bài Vãng Sanh Thần Chú cũng đều có một mục đích duy nhất là dạy bảo và nhắc nhở cái Tâm của chúng ta từ lúc còn sống mạnh khỏe, lúc bịnh, lúc hấp hối kể cả lúc đã chết rồi!!! Điều này chứng minh cho chúng ta thấy rằng vấn đề dạy Tâm, tu Tâm, tu Trí huệ tức là tu Thiên Đạo là một vấn đề thật là quan trọng và rất khẩn thiết!!!

Chúng ta trở lại vấn đề Vãng Sanh Thần Chú.

* Vãng Sanh: Chấm dứt sự sống, tức là chết!!! (Thí dụ: Vãng hát là xong tuồng hát, là hát xong rồi).

* Thần Chú: Là bài Kinh dạy Tâm của chúng ta.

* Vãng Sanh Thần Chú: Là bài Kinh dạy Tâm chúng ta khi chúng ta mới vừa hết sự sống (vãng sanh = chết).

Bài Vãng Sanh Thần Chú toàn bằng chữ Phạn A đi đa bà dạ... thì làm sao chúng ta hiểu được!!! Cho nên, chúng ta có thể tạm mượn một số câu Kinh khác để làm bài Vãng Sanh Thần Chú cho riêng chúng ta.

Chẳng hạn:

"Nắm cây Huệ Kiếm Gươm Thần!!!

Dứt tan thế sự nợ trần từ đây!!!"

Hoặc là:

Phi thường Huệ Kiếm mau cầm lấy!!!

Vào cửa không môn, đón Phật Đà!!!

NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT

Phật Truyện:

Hồi lúc Đức Thích Ca còn tu luyện theo một cách quá khổ hạnh thì Đức Phật Nhiên Đăng hiện ra cầm cây đàn thì dây đàn bị đứt!!! Nhơn đó Phật Nhiên Đăng mới dạy Thích Ca bài học: "Đừng tu quá khắc khổ, nếu không thì cũng như dây đàn bị căng quá mà bị đứt vậy!!!" Nhờ đó mà Thích Ca tỉnh ngộ, bỏ lối tu khổ hạnh mà tu theo con đường Trung Đạo!!!

Kinh Thích Giáo:

Huệ Đăng bất diệt!!!

Chiếu Tam Thập Lục Thiên chi quang minh!!!

\

Quí Cao hữu!

Nhiên Đăng Cổ Phật là Thầy riêng, là Chơn Sư riêng của Đức Thích Ca. Thích Ca tu học được Thầy của mình theo dõi, hộ trì và dạy bảo!!! Còn chúng ta có được một Chơn Sư riêng ngang tầm cỡ như Phật Nhiên Đăng không? Chúng ta hãy tìm hiểu Nhiên Đăng Cổ Phật là ai? Chúng ta có thể gặp được Ngài không?

Nhiên Đăng Cổ PhậtĐăng: là cây đèn sáng (Hải đăng, Huệ đăng), Nhiên: là tự nhiên có. Nhiên Đăng là ngọn đèn sáng có sẵn tự nhiên. Cổ Phật: là thật xưa không biết tự lúc nào.

Nhiên Đăng Cổ Phật: Là ngọn đèn sáng có sẵn tự nhiên từ lúc xa xưa lắm rồi, không phải mới tạo ra!!! Nói rõ hơn, Nhiên Đăng Cổ Phật chính là cái Điểm Linh Quang, là Phật Tánh, là Bổn Lai Diện Mục đã có sẵn từ xưa của chính mình, không phải bây giờ mới có hoặc do tu tập mới có!!!

Như vậy, mỗi người chúng ta ai cũng có Nhiên Đăng Cổ Phật cả!!! Nhiên Đăng Cổ Phật (Phật Tánh, Chơn Linh...) thì bình đẳng nhau, của chúng ta cũng y như của Đức Thích Ca vậy!!! Như vậy thì có rất nhiều Nhiên Đăng Cổ Phật, không riêng gì Đức Thích Ca mới có!!!

Trong Kinh Tứ Thời có 4 bài Kinh đặc biệt chỉ rõ nguồn gốc cúng tam thể của chúng ta.

1- Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế: Bài Kinh này nói về Đức Thượng Đế, tức là ám chỉ "Khối Đại Linh Quang".

2- Kinh Thích Giáo Nhiên Đăng Cổ Phật: Bài Kinh này nói về "Điểm Tiểu Linh Quang" (Chơn Linh, Bổn Tánh...) do Khối Đại Linh Quang chiết ra mà có, Điểm Tiểu Linh Quang này chính là Đệ Tam Thể của chúng ta.

3- Kinh Tiên Giáo Thái Thượng: Bài Kinh này nói về Chơn Thần là Đệ Nhị Thể của chúng ta (Thái Thượng là Thần Khí, là Âm Dương, tượng trưng Chơn Thần)

4- Kinh Nho Giáo Khổng Thánh: Nói về thể xác là Đệ Nhứt Thể của chúng ta.

Tổng tóm lại, Nhiên Đăng Cổ Phật chính là Điểm Lương Tâm, là một vị Đại Sư chân chính nhất của mỗi người.

NƠI NÀO LÀ PHƯỚC ĐỊA

Kinh Cầu Siêu

Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết!

Giảm hình phạt bớt đường ly tiết!

Xá Linh Quang tiêu diệt tiền khiên.

Đặng nhẹ nhàng thẳng đến cung Tiên,

Nơi Phước địa ở yên tu luyện!!!

\

Quí Cao hữu!

Trong một buổi lễ cầu siêu, có một Cao Đạo hữu đột ngột đặt ra câu hỏi: Cung Tiên ở đâu? Nơi phước địa chỗ nào? Chúng ta cũng cần phải biết để đến đó mà ở yên tu luyện chớ!!!

Chúng tôi thử trả lài vài nơi tạm gọi là Phước địa, chẳng hạn như ở tại các chùa Phật, tại các Thánh Thất Cao Đài, tại các Tịnh Thất, kể cả tại Tòa Thánh Tây Ninh nữa, nhưng tất cả chỗ đó không làm ông thỏa mãn với lý do đơn giản là: Theo ông thì những chỗ vừa kể ở trên hiện giờ Phật thì rất ít mà ma cỏ lại xâm nhập quá nhiều, ông không thể tin được những chỗ đó là Phước địa!!!

Như vậy thì theo ý của Quí Cao hữu, Cung Tiên ở đâu? Nơi Phước địa chỗ nào?

Quí Cao hữu!

Như Quí bạn đã biết: Vạn Pháp do tâm tạo. Tâm sanh thì chủng chủng sanh ma!! Tâm diệt thì chủng chủng ma diệt!!! Thiên Thai chẳng phải ở trần này. Chẳng phải trên trời, chẳng phải trên mây! Thiên Thai chỉ có ở trong Tâm của chúng ta mà thôi! Tâm tức Thiên Thai, ngoài Tâm không có Thiên Thai!!! (xem bài Thiên Thai). Như vậy thì Cung Tiên cũng không có ở ngoài Tâm!!! Nơi Phước Địa cũng không có ở ngoài Tâm nữa!!! Tóm, lại, Tâm tức là Phật, tức Thiên Thai, Tâm tức Cung Tiên, Tâm tức Phước địa!!!

Câu Kinh "Nơi Phước địa ở yên tu luyện" có ý dạy rằng: Chúng ta hãy quay vào bên trong cái Tâm của chúng ta mà tu luyện và phải nhớ là ở yên trong đó chớ có bung ra ngoài chạy theo sắc tướng nữa!!! Dĩ nhiên chúng ta phải ở trong cái Chơn Tâm, cái Phật Tánh, cái Chơn Linh, cái Bổn Lại Diện Mục... Các nơi đó mới đúng là Cung Tiên, là nơi Phước địa, mà cũng là cái Tịnh Thất riêng của chúng ta nữa!!! (xem bài Khi tàng bí tạng Như Lai).

Bài Kinh Phụ Tế chứng minh điều trên:

Trụ nguyên Tánh, hồn linh nhàn lạc!!!

Cõi Đào Nguyên cỡi hạc thừa long!!!

Lánh xa trược chất bụi hồng!

Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung!!!

Trụ Nguyên Tánh: Ở trong Tịnh Thất riêng của mình, ở trong Bổn Lai Diện Mục của mình, ở trong Chơn Tâm của mình, ở trong Nơi Phước Địa của mình thì mình sẽ được nhàn lạc như ở cõi Đào Nguyên vậy, mặc sức chúng ta cỡi hạc thừa long mà thong dong sớm tối như đang ở Cung Tiên vậy!!!

Tổng tóm lại, Cung Tiên hay là Nơi Phước Địa là cái Nguyên Tánh (Phật Tánh, Bổn Tánh), là cái Bổn Lai Diện Mục, là cái tịnh thất riêng của mình mặc sức chúng ta vào ở yên trong đó tu luyện!!!

Tuy nhiên, muốn cho cái Tâm (Chơn Thần) của mình trụ vào nơi Phước Địa, nhập vào cái Tịnh Thất... thì không phải là một điều dễ dàng, nếu không muốn nói là quá khó khăn!!! Do đó vấn đề dạy Tâm, tu Tâm tức là tu Trí huệ, tu Thiên Đạo là một công phu cần thiết nhất và quan trọng mà tất cả chúng ta đều cần phải quan tâm đến!!!

Đến đây, chúng tôi cũng có thể giới thiệu cho Quí bạn một nơi Phước Địa cụ thể rõ ràng ở bên ngoài cái Tâm!!! (Hãy bình tĩnh, không có mâu thuẫn đâu). Đó là cuốn Kinh Cúng Thiên Đạo và Thế Đạo! Quí bạn hãy ở yên trong cuốn Kinh đó mà tu luyện y theo lời Kinh dạy cho đến lúc thành Đạo mới thôi!!! Khi thành Đạo rồi thì Quí bạn mới nhận thấy rằng: Bất cứ chỗ nào, nơi nào cũng đều là Thiên Thai, là cõi Đào Nguyên, là nơi Phước Địa cả!!!

XÃ PHÚ CẦU BẦN

Thánh Ngôn:

Đừng quá so đo việc phú bần!

Bần mà thanh tịnh mới nên thân!

Thân trau khổ hạnh, thần đừng nệ!

Nệ khó mong chi thoát kiếp trần!

\

Quí Cao hữu!

Chúng ta phải nhìn nhận một sự thật là: Một người quá nghèo đói thì thật khó tu hành hay nói đúng hơn là không thể nào tu hành được, nhất là vào cái thời Hạ ngươn mạt pháp này!!!

Nghèo đói thì sức khoẻ không có, Tam Bửu bị hao mòn, tự lo cho chính mình còn không được thì còn nói gì đến việc lập công quả vị tha cho xã hội!!! Nghèo đói thì khó tu! Đó là một thực tế!!! Vì suốt ngày chỉ lo chạy gạo, lo nạn áo cơm thì đâu còn sức khoẻ để lo công phu, cũng như đâu có thì giờ để lo Công quả được!!!

Thế mà, tại sao lại có câu khuyên chúng ta hãy xã PHÚ cầu BẦN!!! Lời khuyên này có mâu thuẫn với thực tế phủ phàng không?

Ngày xưa Đức Thích Ca cũng phải bỏ lối tu khổ hạnh (cũng như nghèo đói thì làm gì còn tinh khí sức khoẻ để mà hoàn tinh bổ não chớ!!!) mà theo lối tu Trung Đạo!!! Mà bây giờ lại khuyên chúng ta hãy xã PHÚ cầu BẦN thì thật là khó nghĩ quá!!!

Quí Cao hữu!

Câu xã phú cầu bần không có mâu thuẫn với thực tế cũng như không khó nghĩ lắm đâu!!! Lời khuyên này rất đúng vì người tu nào cũng cần phải biết xã phú cầu bần!!!

Tuy nhiên, chúng ta xã phú cầu bần theo một ý nghĩa mới, một ý nghĩa bóng bẩy cao xa!!!

PHÚ: Là giàu sang nhưng phải hiểu theo nghĩa bóng: Phú là rườm rà, là phức tạp, là nhiều tạp niệm, là nhiều dục vọng!!!

BẦN: Là nghèo khổ nhưng phải hiểu theo nghĩa bóng: Bần là đơn giản, là nhất Tâm, là Vô Tâm, là tự tại!!!

Như vậy, theo cái nghĩa bóng thì người tu hành cần phải từ bỏ những cái tạp niệm, những cái rườm rà phức tạp, những cái dục vọng quá nhiều của mình (XÃ PHÚ) để chọn lấy cái đơn giản, cái giản dị, cái nào ít bận tâm phiền não nhất! (CẦU BẦN).

Tóm lại, muốn tu hành thì chúng ta phải ráng đừng có nghèo vì nghèo thì khó Công phu cũng như khó lập công quả lắm!!! Cho nên, chúng ta phải biết sống giản dị những cũng phải biết quí trọng lao động!!! Và chúng ta hãy luôn luôn cảnh giác:

"Giác Ngộ mà thiếu gạo!

Thì coi chừng mất Đạo!!!"

NHÀN ÂM ĐẠO TRƯỞNG

Nhàn Âm Đạo Trưởng giáng cơ:

Chư Đạo hữu biết trước, muốn rèn lòng đạo đức phải khởi nơi đâu cho chắc bước đường chăng?

Đạo đức cần trau nơi TÂM là chỗ chẳng ai thấy được. Rèn trau cho thuần Tâm, mỹ Tánh, rồi mới tu lần đến bề ngoài, trọn vẹn hết cả ngoài trong thì chừng ấy thân hình tâm trí chắc khư, nào ai chuyển lai cho được!!!... Chuộng hữu hình mà quên các điều huyền bí chơn truyền thì cũng như có xác không hồn!!! Than ôi! Có thể hình xương thịt mà chơn hồn phưởng phất nơi xa thì cái thân vô dụng ấy trơ trơ như khối đá dựa đường, như khúc cây bên trủng!!! Có cây đèn dầu mà thiếu hơi lửa nhen lên thì cũng phải mờ mịt thâm u, trông chi soi sáng!!!

Ấy vậy nên biết mà răn mình, cái TÂM là vật người không thấy được, khá giồi trau nó trước!!!

\

Chúng ta hãy cùng nhau đến xin diện kiến Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng để cầu Ngài chỉ giáo cho chúng ta.

Âm: Là âm chất, là hình hài, là thể xác của chúng ta. Cái gì thấy được rờ được, có hình tướng đều thuộc Âm. (Âm tụ thành hình, Dương tán thành khí)

Nhàn: Là an nhàn, là không quá khổ hạnh!

Đạo: Là tinh thần, là Trí huệ, là cái Tâm!

Trưởng: Là phát triển, là tăng trưởng, là tiến hóa!

Nhàn Âm: Là cái thể xác của chúng ta không nên theo lối tu quá khổ hạnh (hành xác) cũng như Đức Thích Ca phải bỏ lối tu khổ hạnh mà theo đường tu Trung Đạo vậy!!!

Đạo Trưởng: Nhờ tu theo lối Trung Đạo (Nhàn Âm) mà cái Tâm (Đạo) của chúng ta mới tăng trưởng, mới phát triển, hay nói khác đi là cái Tâm của chúng ta mới được sáng suốt, mới có trí huệ, mà trí huệ chính là hơi lửa nhen lên cho cây đèn dầu!!!

Tóm lại, muốn cho cái Tâm được sáng suốt, được trí huệ (Đạo Trưởng) thì chúng ta không hành xác thái quá (Nhàn Âm)!!! Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta cứ tà tà ở không mà ăn!!! Cũng như bài trước, chúng ta nên sống giản dị (Nhàn Âm) nhưng cũng phải biết quí trọng sự lao động!!! (Để lo nuôi dưỡng bản thân chớ!!!).

 

THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ

Kinh Niệm Hương:

Đạo gốc bởi lòng THÀNH TÍN hiệp!

Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra.

Mùi hương lư ngọc bay xa,

Kính thành cầu nguyện TIÊN GIA chứng lòng!!!

\

Chúng ta hãy cùng nhau đến xin diện kiến Đức Thái Thượng Đạo Tổ để cầu Ngài chỉ giáo!

Thái: Phái Thái, màu vàng = Thần = Dương.

Thượng: Phái Thượng, màu xanh = Khí = Âm.

Thái Thượng: Tượng trưng thần khí, Âm Dương!!!

Tổ: Là nguồn gốc, là căn bản, là căn cội.

Đạo Tổ: Là nguồn gốc của Đạo!!!

Đức Thái Thượng dạy cho chúng ta biết rằng: Nguồn gốc của Đạo chính là Âm Dương, là thần khí, là Thái Thượng, là Thành Tín... Chúng dung hòa hiệp nhứt lại thành MỘT, thì đó là Đạo!!! Nhất Âm, nhất Dương chư vi Đạo mà!!! Đạo chính là Thái Cực mà trong đó có lưỡng nghi (Âm Dương)!!! Đạo chính là Một, là Nhất Nguyên mà trong đó có Nhị Nguyên!!! Không thể hủy bỏ lưỡng nghi mà đòi còn Thái Cực được!!!

Nguồn gốc của Đạo là Thần Khí, là Âm Dương thì còn nghe được!!! Còn nói nguồn gốc của Đạo là Thành Tín thì Quí bạn chắc còn nghi ngờ!!! Bạn khỏi nghi ngờ vì câu Kinh đã chứng minh điều đó.

Đạo gốc bởi lòng THÀNH TÍN hiệp!!! Tuy nhiên chúng ta cũng cần giải phẩu hai chữ Thành Tín để chúng ta hiểu được rõ ràng hơn.

THÀNH: Là lòng nhiệt thành, là lòng hưng phấn của mình, là cái hạ quyết tâm của chính mình!!! Phàm làm bất cứ việc gì kể cả Đời lẫn Đạo mà không có lòng nhiệt thành hăng hái, không có quyết tâm thì công việc không thể thành công được!!!

Do đó, THÀNH là một yếu tố quan trọng để thành công, nhất là trong việc tu Tâm!!! Muốn có lòng nhiệt thành hăng hái thì phải có sức khoẻ, phải có khí lực mạnh mẽ!!!

Do đó, chữ THÀNH biến thành đồng nghĩa với khí lực vậy. Hay nói cách khác đi THÀNH chính là Khí vậy!!!

TÍN: Là đức tin, là tin tưởng! Nói đến đức tin thì phần đông hiểu là tin tưởng có Đấng Tạo Hóa, là tin tưởng có Chư Thần Thánh Tiên Phật ... Nhưng ở đây chữ TÍN có thêm một ý nghĩa riêng là tin tưởng vào sự thành công trong việc làm của chính mình!!! Nhất định phải thành công!!! Đó là đức tin (chữ TÍN) hiểu theo nghĩa cụ thể và thực tế!!! Phàm làm bất cự việc gì mà mình luôn luôn tin tưởng nhất định sẽ thành công thì trước sau gì mình cũng phải đạt được thành công!!! Do đó TÍN, tức là đức tin, cũng là một yếu tố rất quan trọng để thành công trên đường Đời cũng như trên đường Đạo vậy!!!

TÍN là đức tin nên thuộc về lãnh vực của ý chí, của Tinh Thần. Do đó, chữ TÍN biến thành đồng nghĩa với thần lực. Hay nói khác đi, TÍN chính là THẦN vậy!!!

Nói tóm lại THÀNH và TÍN là hai yếu tố thành công thật là quan trọng!!! Nếu chúng ta cộng hưởng, hòa hiệp nhau (Thành Tín hiệp) thì sự thành công là một điều thật chắc chắn vậy!!!

Nói riêng trên đường Đạo, nhất là trên con đường tu Tâm, tu trí huệ, tu Thiên Đạo thì TÍN chính là THẦN (thần lực) và THÀNH chính là KHÍ (khí lực). Hay nói khác đi thì TÍN THÀNH chính là THẦN KHÍ mà Thần Khí (Thái Thượng) là Âm Dương, là nguồn gốc của Đạo Tu Tâm vậy!!! (Đạo Tổ). Cho nên nó mới có một câu Kinh đầu tiên trước hết của mỗi thời cúng mà bất cứ tín đồ Cao Đài nào cũng thuộc lòng hết!!! (Thuộc lòng là một việc, còn hiểu nghĩa lại là một việc khác!!!). Đó là câu Kinh Niệm Hương:

ĐẠO GỐC bởi lòng THÀNH TÍN hiệp!!!

PHẬT TỔ

Kinh Cầu Siêu:

Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ,

A Di Đà Phật độ chúng dân.

Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,

Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc!!!

\

Chúng ta hãy cùng nhau đến xin diện kiến Đức Phật Tổ để cầu Ngài chỉ giáo bốn câu Kinh Cầu Siêu nói trên.

Đầu: Là Bộ Não, là Chơn Thần, là cái Tâm!

Vọng bái: Là hướng về chỗ nào! Ở đây là nói hướng về Tây Phương.

Tây Phương: Nghĩa đen là Phương Tây là phương Mặt Trời lặn!!! Nghĩa bóng Tây Phương là cõi Tịnh, là chỗ không có các việc động loạn!!!

Phật: Nghĩa đen là Ông Phật, nghĩa bóng Phật là trí huệ, là Chánh Giác, là Huệ Quang...

Tổ: Là căn cội, là nguồn gốc...

Phật Tổ: Là nguồn gốc sinh ra trí huệ Bát Nhã, là căn cội của sự sáng suốt. Ở đây Phật Tổ không phải là Ông Tổ của các vị Phật đâu!!!

Như vậy thì Đức "Phật Tổ" dạy chúng ta như sau: "Muốn có sự sáng suốt, muốn có trí huệ Bát Nhã, muốn có Huệ Quang thì cái Tâm chúng ta phải hướng về Cõi Tịnh, hướng về Nơi Phước Địa, Tâm lúc nào cũng nghĩ đến những điều Thánh Thiện, Thanh Tịnh, Tinh Khiết!!! Làm được như vậy thì đó chính là căn cội sinh ra Trí Huệ!!!

A Di Đà Phật: Người Tàu dịch là Vô Lượng Quang Phật!!! Vô Lượng Quang Phật là vô số ánh sáng tức là ám chỉ cái Trí Huệ Bát Nhã!!! Nói rõ hơn, A Di Đà Phật là tượng trưng cho Trí Huệ Bát Nhã!!! Trí Huệ Bát Nhã chính là A Di Đà Phật!!!

Khi chúng ta "Đầu vọng bái Tây Phương" thì chúng ta sẽ đạt được Trí Huệ Bát Nhã (thành Vô Lượng Quang Phật, thành A Di Đà Phật).

Lúc này chúng ta mới có quyền đi độ rỗi các chúng dân!!! (vì chúng ta đã có được Vô Lượng Quang tức là có Trí Huệ Bát Nhã). Nếu chúng ta còn u tối ngu muội (tức là chưa đạt Trí Huệ) mà háo danh đi độ người thì coi chừng kẻ mù mắt dắt người đui đi lọt xuống hố hết trọi!!!

Đức Phật Tổ cũng dạy chúng ta muốn vớt lê thứ khổ trần đọa lạc thì chúng ta phải lân mẫn, phải ân cần trong Công quả: "Phổ độ và Tế độ".

Nhất là chúng ta cần phải lân mẫn, ân cần hơn hết trong công quả Tế độ, tức là cứu đói, cứu bịnh, cứu khổ, cứu nạn cho chúng dân!!!

ĐỨC HỘ PHÁP

Thánh Ngôn:

Sanh tiền cụ pháp, vô công trác!!!

Tử hậu cùng đồ, uổng lộ diên!!!

Thánh Ngôn:

Ngày nay, Đạo đã khai tức là Tà khởi!!! Vậy thì các con phải hết lòng, hết sức mà tự gìn giữ lấy mình!!!... Thầy cho yêu quái được quyền lấy danh Thầy mà cám dỗ!!! Các con chớ buồn vì Thiên Cơ phải vậy!!! Thi nhiều đậu ít là lẽ hằng!!! Các con liệu phương thế mà nâng đỡ Đức tin của môn đệ cao lên hàng ngày! Đó là công quả đầu hết!!!

\

Quí Cao hữu!

Trong bài này, chúng ta không có ý đề cập đến cá nhân Đức Ngài Phạm Công T. mà chỉ muốn tìm hiểu ý nghĩa của hai chữ Hộ Pháp và nhiệm vụ của một vị Hộ Pháp trong tôn giáo, đặc biệt là trong Đạo Cao Đài.

Pháp: (xin xem bài Đắc Đạo) là phương tiện hữu hình hoặc vô hình.

Hộ: Là hộ trì, là giám hộ, là giúp đỡ.

Hộ Pháp: Là một phương tiện hộ trì, bảo vệ và giúp đỡ chúng ta. Một thí dụ về Hộ pháp hữu hình: Một ông già đi đêm có cầm theo một cây gậy để đánh đuổi các con chó khỏi bị chúng cắn, thì cây gậy đó được gọi là Hộ pháp cho ông già! Một thí dụ về Hộ pháp vô hình: Một Đấng thiêng liêng nào đó theo hộ trì giúp đỡ chúng ta tu hành thì vị đó được gọi là Hộ pháp cho chúng ta!!!

Trong Đạo Cao Đài có một Vị hộ trì gìn giữ các Tín đồ của Đạo tu hành, đó là Đức Phạm Hộ Pháp!!! Ngoài Đức Phạm Hộ Pháp là một Vị thường trực hộ trì, chúng ta cũng được các Đấng thiêng liêng khác theo giúp đỡ chúng ta tu hành chẳng hạn như Đức Quan Âm, Đức Quan Thánh... kể cả Vị Thần Hoàng Bổn Cảnh cũng được Sắc Chỉ của Đức Thượng Đế ra lịnh phải hộ trì bảo vệ tất cả các Cao Đạo hữu nữa!!!

Như vậy thì chúng ta cứ tin tưởng mà lo tu hành chân chính, đừng sợ không có người hộ trì!!! Chỉ sợ các Cao Đạo hữu không có quyết tâm tu hành, không có lòng nhiệt thành muốn tu giải thoát!!! Chư thần Hộ Pháp nói chung, Đức Phạm Hộ Pháp nói riêng, chỉ hộ trì giúp đỡ cho các đạo hữu có lòng thành tín, quyết tâm chân chính tu hành, chớ các Ngài không có hộ trì cho những kẻ phản Thầy, phản Đạo, Phạm Ngũ Giới Cấm Tứ Đại Điều Qui mà không chịu ăn năn sám hối!!! Các Ngài sẵn sàng "thanh toán" các loài ma quái đến quậy phá người tu hành chân chính. Tuy nhiên, các Ngải chỉ bảo vệ bên ngoài thân Tâm của chúng ta mà thôi!!! Còn các loài ma ở trong thân Tâm của chúng ta thì tự chúng ta tìm cách "thanh toán" lấy, chớ các Ngài không có quyền can thiệp vào bên trong cái nhà riêng của chúng ta!!! Như vậy thì làm sao đây? Các loài Ma ở bên trong thân Tâm lại dữ dằn hơn hẳn các loài Ma ở bên ngoài!!! Nếu các loài Ma bên trong rủ rê, mời mọc các loài Ma ở bên ngoài vào nhập bọn thì các Ngài Hộ Pháp cũng không thể can thiệp được, vì đó chính là ý muốn của người tu hành không chân chính!!! Do đó, các loài ma bên trong thân Tâm chính là Thập Tam Ma!!! (Thất tình + Lục dục) Thập Tam Ma thật đáng sợ vì chúng làm chủ động, làm chủ các loài Ma!!!

Quí Cao hữu!

Ở bên ngoài thân Tâm thì có các Ngài Hộ Pháp hộ trì chúng ta. Còn ở bên trong thì lấy ai hộ trì chúng ta? Lấy cái gì làm Hộ Pháp để chủ trị Thập Tam Ma đây?

Quí Cao Đạo hữu muốn chủ trị được Thập Tam Ma ở trong cái nhà riêng của mình thì chỉ có một cách duy nhất là rèn luyện được một cây Huệ Kiếm. Cây Huệ Kiếm này chính là Hộ Pháp riêng của mỗi người tu chúng ta!!! Cây Huệ Kiếm này còn được gọi là Cây Gươm Thần, là Cây Kim Tiên, là Chiếc Roi Thần, là Cây Giáng Ma Xử, là Gươm Huệ... Sau đây là một số câu Kinh để chứng minh:

? Nắm cây Huệ Kiếm Gươm Thần!

Dứt tan sự thế nợ trần từ đây!!!

? Dâng lên Huệ Kiếm xin cầm!

Chặt lìa trái chủ, đặng tầm Ngôi Thiên!!!

? Cầm Gươm Huệ chặt tiêu oan trái!

Độ dẫn quần sanh diệt quả nhân!!!

? Trừ Quái khí, Roi thần chớp nhoáng!

Bộ Lôi Công giải tán trược quang!!!

* Làm sao tạo được Cây Huệ Kiếm: Phải có công phu dày dặn và một thời gian lâu dài mới tạo được Cây Huệ Kiếm. Quí Cao hữu nên đọc lại kỹ các bài đã viết sau đây thì sẽ thấy được cách rèn Huệ Kiếm:

+ Năng chiếu Diệu Quang.

+ Chánh Niệm hiện tiền.

Thái Cực Đăng.

Tắm Thánh.

+ Huỳnh Đình Kinh

Thuyền Bát Nhã

+ Xâu chuỗi Bồ Đề

Định Vị Pháp

Lục độ

+ Giác ngộ

Nơi nào là Phước địa

Thần Chú

Thái Thượng Đạo Tổ

Phật Tổ...

* Người mới tu làm sao có Cây Huệ Kiếm:

Phải công phu một thời gian dài mới có Cây Huệ Kiếm. Vậy trong thời gian dài đó thì lấy cái gì làm Huệ Kiếm, lấy cái gì làm Hộ Pháp?

Dĩ nhiên, người mới tu làm gì có Huệ Kiếm liền ngay được!!! Cho nên, người mới tu phải mượn Cây Huệ Kiếm của người khác mà dùng. Mượn của ai? Đó là mượn Cây Huệ Kiếm của Đại Từ Phụ!!! Cây Huệ Kiếm của Đại Từ Phụ rất là siêu tuyệt, có thể trị Ma bên trong lẫn Ma bên ngoài!!! Đó là câu Thần Chú của Thầy:

NAM MÔ: CAO ĐÀI TIÊN ÔNG, ĐẠI BỒ TÁT, MAHATÁT.

Tuy nhiên, muốn cho Câu Chú của Thầy, tức là Cây Huệ Kiếm đạt được hiệu quả tối đa thì người niệm chú (để trị ma) phải có Bộ Lôi Công (xem bài Tâm tức Phật) nghĩa là phải có 2 điều kiện:

1. Đức tin vào Câu Chú phải tuyệt đối không một chút xíu nghi ngờ (chữ Tín).

2. Phải có một ý chí thật vững mạnh (chữ Thành) hạ quyết tâm trừ Ma!!!

Câu Chú của Thầy là Cây Phi Thường Huệ Kiếm mà chúng ta luôn luôn "Cầm trong tay" để tự cảnh giác đối với các loài Ma!!!

Phi thường Huệ Kiếm luôn cầm lấy!

Vào cửa không môn, đón Phật Đà!!!

Quí Cao hữu!

Tóm lại, bên ngoài thân Tâm người tu hành thì có Đức Hộ Pháp hộ trì bảo vệ; còn bên trong thân Tâm thì có cây Kim Tiên (tức Cây Huệ Kiếm) hộ trì chúng ta. Người mới tu thì mượn câu Chú của Thầy làm cây Kim Tiên.

Tuy nhiên, nếu người tu không có tự lực mà chỉ ỷ lại vào Đức Hộ Pháp và câu Chú của Thầy thì không được đâu!!! Tha lực chỉ hộ trì giúp đỡ cho người tu có tự lục công phu mà thôi!!! Do đó, chúng ta phải chí thành công phu thì mói mong nhận được sự hộ trì giúp đỡ của các tha lực!!!

Ý kiến bạn đọc (0)

Ảnh Đẹp

Có Sắc Không Hương

Một ngày kia, nữ hoàng Shaba gởi đến vua Solomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu.Đó...