Tủ Sách Cao Đài - Hòa Hảo

NGƯƠN THẦN VÀ THỨC THẦN - Phần 2

Đăng lúc: 00:20 AM 31/05/2018 0   995

Cùng Chủ Đề

HỘI LONG HOA - phần một
TRIẾT LÝ VỀ HỘI LONG HOA QUA CÁC TÔN GIÁOTIẾT 1: HỘI LONG HOA LÀ...
HỘI LONG HOA - phần hai
C. HỘI LONG HOA     ...
HỘI LONG HOA - phần ba - Hết
V. PHẬT GIÁO HÒA...

TIỀN ĐỊNH

Đạo ngôn:

Nhất ẩm, nhất trác giai do tiền định!!!

Thánh Ngôn:

Tức quá! Chẳng biết tỏ cùng ai!

Hiền đức mà sao chịu khổ hoài!!!

Lão nói tỏ tường cho đó hiểu,

Cũng là VAY TRẢ: Luật xưa nay!!!

\

Quí Cao hữu!

Một hớp nước, một miếng ăn cũng do Tiền Định!!! Có đúng như vậy không??? Tiền định là gì?

Theo định nghĩa mà mọi người thường hiểu thì Tiền định là số phận đã được định trước, không thể thay đổi, không thể tránh được!!! Nếu hiểu theo nghĩa này thì chúng ta đừng lo gì hết, cứ buông trôi để cho Tiền định xoay chuyển!!! Thật là một điều sai lầm to lớn!!! Không thể buông trôi được!!! Không thể "Cũng liều nhám mắt đưa chân" được!!! Chúng ta phải tận nhơn lực mới tri được thiên mệnh!!! Phải tự mình gieo giống tốt, mới được hưởng quả tốt. Gieo giống nào sẽ được hưởng quả nấy. Gieo đậu được đậu. Trồng mía được mía, làm thiện gặp lành, làm ác gặp dữ!!! Nhân nào Quả nấy! Không bao giờ sai trật!!! Lưới trời lồng lộng mà một mảy lông cũng không lọt!!! Như vậy, thì Tiền định phải được hiểu như thế nào?

Câu Đạo ngôn ở trên phải được sửa lại như sau đây mới rõ nghĩa và không có tạo ra sự hiểu lầm: "Nhứt ẩm, nhứt trác giai do NHÂN DUYÊN tiền định!!!". Mọi kết quả, mọi hậu quả đều có nguyên nhân của nó trước đó!!! Không có cái gì, điều gì mà tự nhiên có được!!! Nguyên nhân trước đó và duyên cảnh trước đó tạo ra cái Quả hiện tiền hôm nay cho chúng ta!!! Cái nhân duyên đã tiền định cho chúng ta!!! Vậy Tiền định phải hiểu theo nghĩa Luật Nhân Quả mới đúng!!! Hiểu theo nghĩa này thì chúng ta mới tích cực làm tốt cái nhân duyên để được hưởng cái Quả tốt do chính "cái tận nhân lực" của chúng ta!!!

Luật Nhân Quả là Thiên Cơ, là cái Máy Trời, là cái Lưới Trời bao trùm và chi phối cả Vũ Trụ!!!

Hiểu theo nghĩa của Luật Nhân Quả thì Tiền định tức là Nhân duyên định!!! Nói khác đi thì số mệnh của mỗi người không phải là cái Định mệnh cứng ngắt!!! Mà số mệnh của chúng ta vẫn có thể được thay đổi cho tốt hơn do các hành tàng thánh thiện của chúng ta!

Luật Nhân Quả cho biết làm ác phải gặp ác, hành thiện phải được hưởng thiện. Vậy mà tại sao lại có người than:

Tức quá! Chẳng biết tỏ cùng ai!

Hiền đức mà sao chịu khổ hoài!!!

Vậy thì Luật Nhân Quả tức là Máy trời bị trục trặc chăng? Thưa không phải thế, tại vì "Hiền đức mà bị khổ hoài" cũng có lý do của nó, cũng có nhân duyên của nó! Cho nên Đức Lý mới có dạy:

Lão nói tỏ tường cho đó hiểu,

Cũng là VAY TRẢ: Luật xưa nay!!!

Tóm lại, hễ có vay là phải trả! Nhân nào Quả nấy không sai! Hễ có tiền duyên thì phải có hậu quả!!! Cho nên, nếu chúng ta muốn sửa đổi số mệnh cho được tốt đẹp hơn thì chúng ta cần phải tu Tâm và hành thiện tạo phước!!!

Do đó, chúng ta cần phải luôn luôn nhớ câu:

"Đức năng thắng số"

 Tâm kệ:

Hễ sanh sự thì sự liền sanh!!!

Tại mình vời nên nó mới theo mình!!!

Cho nên:

Tạo bể dâu thì dâu bể đến liền!

Tạo ra nghiệp chướng thì có liền oan khiên!!!

 

THIÊN CƠ

Thánh Ngôn:

Thiên cơ đã lộ lúc khai Trời!

Kêu khách phân trần đã hụt hơi!

Cứ mãi vinh hoa cùng lợi lộc!

Chẳng lo cái chết đến gần nơi!!!

Thánh Ngôn:

Lại có lắm kẻ đáng thương hại tự phụ rằng họ hiểu thấu cả lẽ mầu nhiệm của Đấng Tạo Hóa. Nhưng Thầy không bao giờ cho một kẻ nào dưới cõi trần này tiết lậu Thiên Cơ cả!!! Muốn đến Thầy thì phải cầu nguyện, Thầy không bao giờ cảm ứng đối với những cầu nguyện chơn thành!!!

\

Quí Cao hữu!

Trong bài "Huỳnh Đình Kinh" chúng ta có nói đến Thiên Thơ, còn trong bài này chúng ta xin cùng Quí bạn tìm hiểu hai chữ Thiên Cơ.

Thiên Cơ: Trong Đạo Cao Đài có "Đại Ngọc Cơ" để Đức Thượng Đế giáng điển xuống qua Đại Ngọc Cơ mà khai mở Đạo Trời và dạy đạo. Về hữu hình thì tạm gọi là Cây "Đại Ngọc Cơ" đó chính là Thiên Cơ vậy! Nội dung Đại Ngọc Cơ giáng dạy được sưu tập thành quyển Thánh Ngôn thì quyển Thánh Ngôn đó được gọi là Thiên Thơ vậy!!! Thánh Ngôn cũng được gọi là Thiên Cơ đã lộ!!!

Lúc khai Trời: Hiểu theo nghĩa gần và cụ thể thì lúc khai Trời là lúc khai mở Đạo Trời tức là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, gọi tắt là Đạo Cao Đài. Đó là lúc vào năm Giáp Dần 1926.

Đạo Trời khai mở để kêu gọi chúng sanh phải biết sợ cái chết đã gần kề mà lo tu đức sửa mình hầu trở về chỗ Thái Bình Cực Lạc là quê xưa cảnh cũ của mình. Nhưng phần đông chúng sanh không ai nghe thấy lời kêu gọi đó cả vì cứ mê mãi vinh hoa cùng lợi lộc mà thôi!!!

Thiên Cơ mà Đức Thượng Đế để lộ trong quyển Thánh Ngôn thì chúng ta có quyền tìm hiểu học hỏi. Còn Thiên Cơ mầu nhiệm bí mật mà Đức Thượng Đế chưa lộ thì chúng ta không dám bàn đến. Hơn nữa, chúng ta có biết đâu mà bàn!!!

Hai chữ Thiên Cơ còn có thêm một nghĩa khác nữa: Thiên Cơ là Máy Trời, là Luật Nhân Quả, là Lưới Trời lồng lộng mà một mảy lông cũng khó lọt!!!

ĐỨC NHƯ LAI

Kinh Pháp Hoa:

Vào nhà Như Lai

Mặc áo Như Lai

Ngồi Tòa Như Lai

Đạo Ngôn:

Kinh điển lưu truyền tám vạn tư!

Học hành không thiếu cũng không dư!

Đến nay tính lại đà quên hết!

Chỉ nhớ trong đầu một chữ NHƯ!!!

\

Quí Cao hữu!

Trước hết chúng ta tìm hiểu hai chữ Như Lai.

NHƯ: Đi ra. Cái gì rời khỏi bản thân của mình mà ra đi gọi là Như. Thí dụ cái đồng hồ của ta đang đeo mà bị rơi mất đi thì đó gọi là Như.

LAI: Đến. Cái gì đến với bản thân mình thì gọi là Lai. Thí dụ khách vãng lai là khách đến địa phương của mình đang ở. Một thí dụ khác nữa là vô tình ta bị một người lạ mặt đánh một bạt tay (vì có sự hiểu lầm) thì đó cũng gọi là Lai.

Tóm lại, việc gì đến với ta thì gọi là Lai, còn việc gì rời khỏi ta mà đi thì gọi là Như! Việc đến (Lai) cũng như việc đi (Như) thì có khi là việc vui, việc may hoặc có khi việc buồn, việc rủi!

Bây giờ chúng ta hiểu đoạn Kinh Pháp Hoa đã nói ở trên.

Vào Nhà Như Lai: Hiểu theo nghĩa đen thì vào nhà Như Lai là qui y Tam bảo xin làm Phật tử, còn theo nghĩa bóng thì vào nhà Như Lai là hiểu được rõ nghĩa của hai chữ Như Lai đã nói ở trên!!!

Mặc áo Như Lai: Hiểu theo nghĩa đen thì mặc áo Như Lai là người Phật Tử thực hành theo lời dạy của Phật ở trong các Kinh Thượng Thừa Phật Giáo. Còn hiểu theo nghĩa bóng thì mặc áo Như Lai là thực hành cái Tâm không động trong mọi hoàn cảnh vui buồn may rủi! Tâm Như Lai là Tâm bình tĩnh, tự nhiên và chấp nhận vui vẻ tất cả!!!

Dù có cái gì rời khỏi Ta (Như) hoặc dù có cái gì xảy ra đến cho Ta (Lai) thì Tâm ta vẫn giữ được bình thường, vẫn luôn luôn được an lạc tự tại! Thực hành hai chữ Như Lai theo nghĩa này thì thật là khó!!! Thực hành như vậy gọi là mặc áo Như Lai!!! Mặc áo Như Lai rất khó, cho nên khi chúng ta cởi áo Như Lai ra, rồi lại mặc áo Như Lai vào!!! Điều đó có nghĩa là có lúc chúng ta giữ được Tâm bình thường, an lạc, rồi có lúc chúng ta mất bình tĩnh, sân si nổi lên đùng đùng!!!

Ngồi Tòa Như Lai: Hiểu theo nghĩa đen thì Ngồi Tòa Như Lai là người Phật Tử thực hành lời dạy của Phật đạt đến được Phật Quả rồi lúc đó người Phật Tử xứng đáng ngồi Tòa Như Lai! Còn hiểu theo nghĩa bóng thì Ngồi Tòa Như Lai ám chỉ người tu lúc nào cũng mặc áo Như Lai (tức là Tâm lúc nào cũng bình thường, an lạc) không bao giờ cởi áo Như Lai ra (tức là không bao giờ mất bình tĩnh trước mọi hoàn cảnh) thì người tu rất xứng đáng ngồi Tòa Như Lai! Nói rõ hơn nữa là người đó đã thành Phật!!!

Chơn Như: người tu nào đã được ngồi Tòa Như Lai thì gọi là người đó đã được Chơn Như Lai (bất cứ lúc nào cũng được bình tĩnh, an lạc và tự tại). Chơn Như Lai gọi ngắn gọn hơn thì gọi là Chơn Như, hoặc ngắn gọn hơn nữa thì gọi là NHƯ!!!

Chỉ nhớ trong đầu một chữ Như là có ý đó!

THỂ PHÁP VÀ BÍ PHÁP

Thánh Ngôn:

Nếu các con đợi đến buổi chung qui, hồn lìa khỏi xác mới thấy cơ mầu nhiệm đặng thì chừng ấy đã muộn rồi!!!

Thánh Ngôn:

Đã thấy ven mây lộ bóng dương,

Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường.

Đạo Cao phó có tay cao độ,

Gần gũi sau ra vạn dặm trường!!!

Thánh Ngôn:

Các con cứ nói Đạo cho mỗi kẻ nghe hay không tùy ý!!! Thầy nói các con nghe: Nếu kẻ nào biết hiểu Thánh Ngôn của Thầy nơi miệng các con mà tỉnh ngộ thì số hằng sống của nó vốn còn! Còn chẳng vậy thì thôi, cứ để cho chúng nó theo Tà quái!!! Đạo là quí! Của quí chẳng bán nài!!! Các con đừng thối chí!!!

\

Quí Cao hữu!

Chúng ta hãy đi ngay vào định nghĩa.

Thể pháp: Là hình tướng!

Bí pháp: Là ý nghĩa dạy Đạo của cái hình tướng đó!!! Thật là đơn giản và dễ hiểu, không cầu kỳ xa hoa!!!

* Thí dụ 1:

Thể pháp: Cái áo dài trắng!

Bí Pháp: Cái áo dài trắng dạy chúng ta ăn ở cho trong sạch và tinh khiết!!!

* Thí dụ 2:

Thể pháp: Con rắn 7 đầu trong Tòa Thánh.

Bí Pháp: Dạy cho chúng ta biết thất tình độc hại như rắn vậy. Chính thất tình đã làm cho chúng ta phải vương mang nghiệp chướng, sanh tử, luân hồi!!!

* Thí dụ 3:

Thể pháp: Vườn Ngạn Uyển.

Bí Pháp: Ám chỉ cái xác và cái Tâm của người tu cũng như là một vườn ngạn uyển vậy!!! Nghĩa là chăm sóc thể xác và cái Tâm phải cẩn thận tỉ mĩ y như chăm sóc một vườn ngạn uyển vậy!!! Phải nhổ bỏ hết cỏ dại là Tam độc tham sân si và thất tình lục dục...!!! Phải trồng kỳ hoa và dị thảo vào, như Tâm Kinh, Tâm kệ...!!!

Không được thả vào Vườn Ngạn Uyển gà vịt, heo chó, trâu bò...!!! Phải tưới nước và bón phân thuộc loại thật tốt là ẩm thực tinh khiết và tư tưởng tinh khiết...!!!

Tóm lại, Thể pháp và Bí pháp đi đôi với nhau như hình với bóng, như âm với dương, không thể tách rời nhau được!!! Trong Tòa Thánh Tây Ninh có rất nhiều hình tướng tức là có rất nhiều bí pháp!!! Tòa Thánh là Bạch Ngọc Kinh, tức là Kinh Vô Tự, chỉ có hình tướng (thể pháp) để dạy Đạo (bí pháp) chớ không có chữ!!! Tòa Thánh cũng tượng trưng là Thánh Thể Đức Chí Tôn.

"Nhập Thánh Thể dò đường cựu vị,

Noi Chơn Truyền khử quỉ trừ ma!!!"

Quí Cao hữu!

Khi chúng ta thấy được bí pháp rồi thì cứ y theo bí pháp mà tu, thể pháp không còn cần thiết nữa!!! Thể pháp là phương tiện giúp cho chúng ta thấy được Đạo lý mà tu! Đạo lý đó chính là Bí pháp vậy!!!

Thể pháp ví như chiếc xuồng đưa chúng ta qua sông. Bí pháp ví như Bờ Chánh Giác mà chúng ta phải bước lên để đi đến nơi giải thoát! Khi đã lên được bờ rồi thì chiếc xuồng tức là thể pháp không còn cần thiết nữa!!! Điều đó không có nghĩa là chúng ta phải đập bỏ chiếc xuồng... Cứ để nguyên chiếc thuyền đó (tức là để nguyên nguyên thể pháp) cho những người khác qua sông chớ!!!

BẤT BÌNH

Thánh Ngôn:

Nếu các con không lo tự lập ở cõi thế này thì Thầy cũng không thể bồng ẵm các con mà đỡ lên cho đặng! Thầy vì công lý mà khai Đạo cho các con, cũng là một hạnh phúc lớn cho các con rồi! Nếu Thầy còn đưa tay bồng ẵm nữa thì các con sẽ chẳng còn chịu khó nhọc vì Đạo!!!

Thầy lại nói rằng: Ngày nào các con còn trông thấy một điều bất bình ở đời này thì Đạo chưa thành vậy!!!

\

Quí Cao hữu!

Một điều chắc chắn là không một ai sống ở trên cõi đời này mà tránh khỏi được sự bất bình! Ai ai cũng có bất bình!!! Nhưng tùy theo trình độ của mỗi người mà sự bất bình ở trong Tâm được thể hiện ra ngoài bằng những cử chỉ hành động khác nhau, có người thì chửi thề, có người thì quơ tay múa chân, có người thì la lớn lên, có người thì cắn răng lặng thinh đè nén sự bất bình, có người thì mĩm cười để phủ lấp sự bất bình...

Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu 3 vấn đề sau đây:

+ Thế nào gọi là bất bình!

+ Nguyên nhân gây ra bất bình.

+ Làm sao hết bất bình?

1- Thế nào gọi là bất bình:

Hiểu theo nghĩa thông thường thì bất bình là nổi giận lên có những cử chỉ hành động thiếu sáng suốt!!!

Còn hiểu theo nghĩa đặc biệt thì bất có nghĩa là không, bình có nghĩa là bình thường. Như vậy thì bất bình có nghĩa là không bình thường!!! Thí dụ: Vui quá mức cũng gọi là bất bình! (cái vui không bình thường). Có người quá vui mà chết vì đứt mạch máu não!

Như vậy, bất bình không phải chỉ dành riêng cho sự giận hờn mà bất bình cũng chỉ cho sự vui vẻ quá trớn nữa!!!

Tóm lại, cái gì quá mức mất bình thường mà chúng ta gọi là bất bình!!! Thái quá hay bất cập đều không phải là Đạo, cho nên mới có câu: Bình thường Tâm là Đạo!!!

Do đó, chúng ta cứ sống bình thường là: Vui cứ vui, buồn cứ buồn nhưng đừng để nọc buồn vui len vào Chơn Tánh!!! Nói rõ hơn là đừng để buồn vui quá mức!!! Cái gì quá mức, thái quá cũng đều hư hại vì nó sẽ làm cho mê mờ óc sáng suốt!!!

2- Nguyên nhân gây ra bất bình:

Sau đây là một số nguyên nhân gây ra sự bất bình:

- Mong cầu mà không được như ý.

- Bị người khinh rẻ, chế nhạo.

- Vật chất quá thiếu thốn.

- Bị người vu oan.

- Thân xác mệt mỏi, bệnh hoạn.

- Bị người làm phiền não.

- Si mê thú vui trần gian.

3- Làm sao hết bất bình:

Nguyên nhân quan trọng nhất gây ra sự bất bình là tại vì Tâm của chúng ta còn quá nhiều si mê và ham muốn!!! Do đó, chúng ta cần phải dạy Tâm của chúng ta đừng si mê và ham muốn nữa!!! Mà muốn được như vậy thì chúng ta cần phải giác ngộ mấy điều sau đây:

Giác ngộ lẽ vô thường: Vạn hữu tướng đều phải vô thường! Cái gì hữu hình là hữu hoại!!! Có đó rồi mất đó!!! Vạn vật đều vô thường huyễn hóa, không thường, còn thì chúng ta si mê ham muốn để làm cái gì cho sanh ra phiền não bất bình!!!

Giác ngộ Biển Trần Khổ: Dù khéo biện luận cho mấy thì Đời vẫn là một trường tranh đấu đầy khổ lụy đau thương!!! Biển trần khổ vơi vơi trời nước là như vậy!!! Hơn nữa,

"May là đâu, còn rủi là đâu?

Chẳng qua chỉ là Biển Khổ bắt cầu sông Mê!!!

Giác ngộ Đời chỉ là giấc mộng: Sau đây là một số Kinh kệ diễn tả Đời chỉ là giấc mộng.

? Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn!

Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai!

Giải thi lánh chốn đọa đày!!!

Chơn Linh trong sạch ra ngoài Càn Khôn!!!

? Đời chỉ là giấc mộng!

Rốt cuộc cũng hoàn không!!!

Mau mau từ bỏ hết!!!

Mới nhẹ nhàng khi chết!!!

? Không chừng lát nữa chết!

Sẽ phải từ bỏ hết!!!

Mới thấy được vô thường!

Thì đã gặp Diêm Vương!!!

Tóm lại, nếu chúng ta muốn không có bất bình thì chúng ta phải chấm dứt si mê và ham muốn!!! Mà muốn chấm dứt được si mê và ham muốn thì chúng ta phải giác ngộ và phát triển mãi mãi các điều giác ngộ sau đây:

+ Thấy được vạn pháp đều vô thường huyễn hóa!

+ Thấy được cuộc đời là Biển trần khổ!

+ Thấy được cuộc đời chỉ là giấc mộng!!!

Quí Cao hữu!

Trong Thánh Ngôn, Thầy có dạy: Ngày nào các con còn trông thấy một điều bất bình ở đời này thì Đạo chưa thành vậy!!! Ý chỉ của Đại Từ Phụ dạy chúng ta rằng: Mặc dù ở trên cõi đời này có đầy rẫy những điều trái tai gai mắt mà Tâm của chúng ta không còn bất bình nữa thì chúng ta thành Đạo vậy!!! Đạo thành ở trong Tâm của chúng ta, chớ không phả ở bên ngoài đâu!!!

Do đó, muốn thành Đạo thì chúng ta cần phải tu Tâm, phải luyện Tâm. Tu luyện làm sao cho Tâm hết bất bình đối với ngoại cảnh, dù đó là nghịch cảnh hay thuận cảnh!!! Đến lúc này, chúng ta mới có quyền nói: Bình thường Tâm là Đạo vậy!!!

LỘ BÌNH DƯƠNG

Thánh Ngôn:

Ai vạy tà nấy có phần riêng, cứ giữ nẻo thẳng đường ngay mà bước đến thang thiêng liêng chờ ngày hội hiệp cùng Thầy!!!

Thánh Ngôn:

Đạo tuy cao song nên biết sức quỉ cũng chẳng hèn!!! Nếu không biết lo ngăn ngừa dằn lửa nóng trong Tâm thì bị lửa tam muội của Quỉ Vương đốt cháy!!!

\

Quí Cao hữu!

Nhứt Âm Nhứt Dương chi vị Đạo! Một Âm và một Dương dung hòa nhau mà thành Đạo!!! Tại sao có Lộ Bình Dương mà không có Lộ Bình Âm?

Âm có bản chất tụ lại. Dương có bản chất tản ra, bốc lên. Ở đây chữ Dương ám chỉ sức nóng giận của con người. Người tu cần nhất là phải biết dằn lửa nóng (Dương) trong Tâm, đó gọi là Bình Dương!!! Hay nói ngược lại, Bình Dương là dằn lửa nóng trong Tâm!!! Nếu không Bình Dương được thì sẽ bị lửa tam muội của Quỉ Vương đốt cháy!!! Kiếm củi ba năm, đốt cháy chỉ trong một giờ!!! Bình Dương là một việc quan trọng và ưu tiên một đối với người tu hành cho nên Lộ Bình Dương được đặt ngay trước mặt Tòa Thánh cho mọi người nhìn thấy mà biết lo ngăn ngừa dằn lửa nóng trong Tâm. Lộ Bình Dương nhắc nhở người tu đừng có nóng giận, đừng có bất bình nữa!!!

Tại sao không có Lộ Bình Âm? Âm có bản chất hạ xuống, tụ lại. Âm đầu có bản chất bốc lên cho nên không cần phải Bình Âm. Còn Dương thì cần phải bình xuống cho ngang hàng với Âm, như vậy Âm Dương mới trung hòa nhau được. Cho nên kế Lộ Bình Dương là Trung Hòa Lộ!!! Có Bình Dương mới có Trung Hòa!!! Nếu không Bình Dương thì Âm Dương so le quá xa thì làm sao Trung hòa được!!! Đến đây có một vấn đề mà các tín đồ Cao Đài chia làm "hai phe" có quan điểm trái ngược nhau, mâu thuẫn nhau!!!

Đó là vấn đề sơ đồ tu hành của người Cao Đài. Một bên thì cho rằng người tu phải bắt đầu từ Tòa Thánh đi ra, trước hết là Lộ Bình Dương rồi Lộ Trung Hòa, rồi Trí Giác Cung, Giải Khổ Kiều, Trí Huệ Cung, Đoạn Trần Kiều rồi Ao Thất Bửu, Trường Lưu rồi tới Thiên Thọ Lộ là xong việc tu hành.

Còn "phe" bên kia thì đi ngược lại, nghĩa là bắt đầu từ Thiên Thọ Lộ... cho đến Tòa Thánh là Bạch Ngọc Kinh thì xong việc tu hành!!! Phe nào cũng có lập luận riêng của mình và cố chấp vào lập luận đó!!! Ở đây, chúng tôi chỉ bàn đến sơ đồ từ Tòa Thánh đi ra tới Thiên Thọ Lộ mà thôi, vì sơ đồ này hợp lý hơn.

* Tại sao bắt đầu từ Tòa Thánh:

Tại vì Tòa Thánh chính là Bạch Ngọc Kinh. Mà Bạch Ngọc Kinh chính là Quyển Kinh vô tự, là quyển "Bí kíp võ lâm" chứa đầy bí pháp trong đó!!! (xin xem bài Bạch Ngọc Kinh). Trong Kinh Giải Oan có chứng minh điều đó:

"Nhập Thánh Thể dò đường cựu vị,

Noi Chơn Truyền khử Quỉ trừ Ma!!!"

Do đó, người tu Cao Đài phải bắt đầu từ Tòa Thánh là quyển kinh dạy bí pháp tu hành thì rất là hợp lý!!! Từ Tòa Thánh đi ra tới Lộ Bình Dương.

Lộ Bình Dương: Lộ Bình Dương đã nói rõ ở trên. Có Bình Dương thì Âm Dương mới trung hòa nhau được!

Lộ Trung Hòa: Âm Dương có trung hòa nhau thì chúng ta mới có sự sáng suốt, mới có Trí Giác!!!

Trí Giác Cung: Chúng ta có Trí Giác, có sự sáng suốt thì chúng ta mới giải khổ được!

Giải Khổ Kiều: Khi chúng ta giải khổ được rồi thì Tâm chúng ta được Thanh Tịnh. Thanh Tịnh lâu ngày thì Tâm chúng ta sẽ phát huệ, sẽ có Bát Nhã!!!

Trí Huệ Cung: Khi chúng ta có trí huệ, có Bát Nhã thì chúng ta mới cầm Gươm Huệ mà chặt tiêu oan trái. Chặt tiêu oan trái gọi là Đoạn Trần!!!

Đoạn Trần Kiều: Khi đoạn trần được rồi thì chúng ta thảnh thơi an lạc mà hòa mình vào Đạo. Điều này bên Phật Giáo gọi là Nhập lưu!!! Nhập lưu liên tục, không gián đoạn thì Cao Đài Giác gọi là Trường Lưu!!!

Trường Lưu: Hòa mình vào Đạo liên tục, không gián đoạn gọi là Trường Lưu. Hay nói rõ hơn, Trường Lưu chính là đạt Đạo vậy!!!

Thiên Thọ Lộ: Tu hành đạt đến Trường Lưu tức là đạt Đạo. Đạt Đạo thì sống thọ bằng Trời là lẽ đương nhiên. Hay nói khác hơn là chúng ta đã được hội hiệp cùng Thầy vậy!!!

Quí Cao hữu!

Sơ đồ tu thì như vậy. Tuy nhiên khi chúng ta đã đạt được trí huệ bát nhã rồi thì chúng ta đừng vội đoạn trần mà nên quay trở lại nhập vào cuộc sống để cứu vớt chúng sanh đang còn lặn hụp trong Biển Trần Khổ!!! Đại Từ Phụ có dạy:

"Bát Nhã khuyên con trở mái chèo!

Gìn lòng thương lấy chúng sanh eo!!!"

Trong Kinh Giải Oan cũng có dạy:

"Huệ quang chiếu thấu chánh tà!!!

Chèo thuyền Bát Nhã, Ngân Hà độ sanh!!!"

Trong Kinh Cầu Tổ Phụ cũng có dạy:

"Nương thuyền Bát Nhã cho an,

Dìu chừng con cháu vào đàng nghĩa nhân"

Trong Thánh Ngôn cũng có dạy:

"Cầm Gươm Huệ chặt tiêu oan trái!

Độ dẫn quần sanh diệt quả nhân!!!"

Tóm lại, đối với người tu Đạo Cao Đài thì việc đầu tiên là phải lo đắp con Lộ Bình Dương cho được bằng phẳng để đi, tức là lo dằn lửa nóng trong Tâm, sau đó mới mong đạt được Trí huệ Bát Nhã mà lo lập công quả!

"Đa thi huệ trạch! Vô lượng độ nhân!!!"

ĐÓNG ĐỊA NGỤC! 
MỞ TẦNG THIÊN!

Kinh Giải Oan:

Khối trái chủ nhẫn lo vay trả!

Mới gây nên nhân quả nợ đời!

Rảnh mình đâu đặng thảnh thơi,

Thiên Cung lỡ lối, chơi vơi cõi trần!!!

May đặng gặp Hồng Ân chan rưới,

Giải trái oan sạch tội tiền khiên.

Đóng Địa Ngục, mở tầng Thiên,

Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây Phương!!!

Kinh Khai Cửu:

          Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi,

Quên trần ai mong mỏi Động Đào!

Ngó chi khổ hải sóng xao,

Đoạn tình yểm dục đặng vào Cõi Thiên!!!

Đạo Thi:

Địa Ngục A Tỳ đã trải qua!

Bây giờ Thiên Cảnh phải là nhà.

Phi thường Huệ Kiếm luôn cầm lấy,

Vào cửa không môn, đón Phật Đà!!!

\

Quí Cao hữu!

Loài người đã tốn rất nhiều giấy mực để nói về thiên đàng và địa ngục!!! Bây giờ chúng tôi lại tốn thêm giấy mực nữa để nói về Địa Ngục và Thiên Đàng!!!

Địa Ngục và Thiên Đàng có thật hay không? Có ở đâu? Cụ thể hay mơ hồ? Phải nói làm sao cho thật rõ ràng cụ thể để cho chúng sanh biết ớn Địa Ngục mà lo hướng Tâm về Thiên Đàng!!!

Khoa học thực nghiệm hiện đại đã cho chúng ta biết trong không gian bao la chỉ có các định tinh, các ngôi sao, các thái dương hệ, các ngân hà, các quasar... Khoa học không có nói đến chỗ nào là Địa Ngục hay chỗ nào là Thiên Đàng cả!!!

Quí Cao hữu!

Trong Kinh Cầu Siêu có câu: "Miền âm cảnh Ngục môn khai giải". Trước hết chúng ta phải hiểu "Miền âm cảnh" là gì? Ở đâu? Vì đó là ngục môn mà chúng ta cần phải khai giải! Chúng ta phải đi tham quan Miền âm cảnh để biết được ngục môn mà lo tránh xa chớ!!! Nếu không biết ngục môn ở đâu thì coi chừng chúng ta lủi đầu vào Cửa Địa Ngục mà không hay biết gì cả!!! Cứ đọa mãi ta bà, biết bao giờ thoát ra!!!

Miền âm cảnh: Người xưa hiểu Miền âm cảnh ở dưới lòng đất âm u, là cảnh dành cho các người đã chết!!! Đây là một quan niệm sai lầm vì dưới lòng đất chỉ có đất, đá và nước, sâu xuống nữa thì tới Hỏa quyển là ruột của quả đất mà thôi!!! Như vậy chúng ta nên hiểu Miền âm cảnh ở đâu?

Âm: Là vật chất, là hình hài, là hữu hình hữu tướng!!! (Dương tán thành khí, Âm tụ lại thành hình). Thí dụ: cái nhà, chiếc xe, viên ngọc... gọi chung lại đều thuộc là Âm. Cái gì có thể thấy được, rờ được, hữu hình, hữu tướng đều thuộc Âm cả, gọi chung là Âm Chất!!!

Cảnh: Là không gian, là nơi chốn,,,

Âm Cảnh: Là một cảnh không gian trong đó có chứa các âm chất!!!

Như vậy thì âm cảnh ở ngay trước mắt chúng ta đang sống đây!!! Cái thế giới mà trong đó có đủ thứ vật chất, nào là xe hơi nhà lầu, nào là tiền bạc ngọc ngà châu báu, nào là sắc tài tửu khí... Cái thế giới đó gọi là Âm Cảnh!

Ngục môn: Là cái cửa đi vào Địa ngục! Là cái cửa đi vào Miền âm cảnh!!! Cái cửa đó chính là lòng ham muốn vật chất của chúng ta!!! Gọi tắt là vật dục!!!

Đóng Địa Ngục: Chúng ta đã thấy được cái cửa của Địa Ngục rồi chúng ta cứ từ từ đóng cửa Địa Ngục lại là xong ngay!!! Nói như vậy có nghĩa là chúng ta dẹp bớt lòng ham muốn vật chất lại, dẹp cho đến lúc chúng ta không còn một chút ham muốn nào nữa thì lúc đó cánh cửa Địa Ngục đã được khép kín hoàn toàn! Nhơn dục tận tịnh thì Thiên lý lưu hành mà!!!

Quí Cao hữu!

Nếu nói Thế giới ta bà này là Miền âm cảnh, là cõi Địa Ngục thì cả nhơn loại trong đó có chúng ta đều đang ở trong Địa Ngục hết ráo!!! Đúng vậy!!! Đúng vậy!!! Tất cả chúng ta không trừ một người nào cả đều đang ở trong Địa Ngục, đều đang ở trong Miền âm cảnh!!! Vì lý do đó mà chúng ta cần phải TU để biến Địa Ngục thành Thiên Đàng, biến Miền âm cảnh thành Ngọc Hư Cung!!! Địa Ngục hay Thiên Đàng, Miền âm cảnh hay Ngọc Hư Cung cũng đều ở ngay tại Thế giới ta bà này!!! Như vậy thì tại sao cũng cùng ở trên thế giới ta ba này mà có người coi nó là Thiên Đàng, lại có người coi nó là Địa Ngục??? Có sự mâu thuẫn chăng?

Quí Cao hữu!

Chúng ta đã biết "Vạn pháp do Tâm" tạo, cho nên tâm tức Phật mà Tâm cũng tức Địa Ngục nữa! Do đó, tùy theo cái Tâm của mỗi người mà cái cảnh biến thành Thiên Đàng hay Địa Ngục vậy!!! (xin xem bài Cảnh và Tâm). Cũng vì lý do đó mà vấn đề tu Tâm, luyện Tâm phải được đặt lên hàng đầu và ưu tiên một!!! (xin xem bài Huỳnh Đình Kinh và nhiều bài khác có liên quan).

Mở tầng thiên: Ở đây, chữ Thiên có nghĩa là cái Tâm, là Bộ Não, là Chơn Thần của chúng ta. Mở Tầng Thiên là tu Tâm, là tu tập mở mang trí huệ, là khai mở Tâm.

Tóm lại muốn được giải thoát thì người tu phải tự chính mình Đóng Cửa Địa Ngục và Mở Tầng Thiên chớ không có ai làm dùm cho mình!!!

Đóng Cửa Địa Ngục là dẹp bớt lòng ham muốn vật dục lại! Mở Tầng Thiên là tu Tâm, tu Trí Huệ, tu Thiên Đạo! Hai việc đó bổ túc cho nhau. Hễ mở được Tầng Thiên thì cửa Địa Ngục từ từ bị đóng kín. Ngược lại cũng vậy!!!

TẬN THẾ

Thi của Bát Nương hỏi Đức Hộ Pháp:

Dám hỏi Đại Huynh rõ Máy Trời!

Chừng nào ba lửa cháy ba nơi!

Năm sông đua chảy, năm sông cạn,

Bảy núi bổ tan, bảy núi dời.

Tận thế Long Hoa sao chẳng thấy!

Tại Trời ngột khí có hay thôi!

Rồng bay ngựa chạy cho ai cỡi,

Đất dậy chừng bao đổi xác Trời!

Thi của Đức Hộ Pháp đáp lại:

Hành tàng hư thiệt tại Cha trời,

Dông Mậu Dương hồ hỏa khắp nơi.

Châu ngũ khí hòa Tâm ác diệt,

Thất sơn náo động, Tứ sơn dời.

Thế tan, Xuân kỷ, Long Hoa trổ!

Thưởng phạt tận cùng Thánh Đức thôi.

Long Mã bạn đường Tiên trạng kỵ,

Cù phi hải sụp Lý thay Trời!

\

Quí Cao hữu!

Thông thường, mấy "ông già" hay bàn luận về ngày tận thế. Mấy "ổng" tưởng tượng vào một năm nào đó, chẳng hạn vào năm 2000 thì cả nhân loại và thế giới này sẽ bị tiêu diệt hết!!! Nói như vậy thật là tiêu cực và không có trách nhiệm!!! Mấy đứa nhỏ nghe được lại sanh ra chán đời, không chịu học hành, hơn nữa lại còn có thể quậy phá nữa vì chúng nó nghĩ rằng đàng nào cũng bị tiêu diệt!!! Thật là tai hại!!! Như vậy thì chúng ta hiểu hai chữ tận thế ra sao? Và Long Hoa Hội có nghĩa như thế nào?

Nghĩa thứ nhứt của Tận Thế: Tận Thế là tiêu diệt những kẻ phàm phu thế tục, tiêu diệt những kẻ ác độc nặng trược.

Dĩ nhiên là chừa lại những con người thánh đức thiện lành mà dự đại hội Long Hoa chớ! Hiểu theo nghĩa này thì giúp cho mấy đứa nhỏ ráng tu Tâm dưỡng tánh, tu đức sửa mình cho trở thành con người thánh thiện hầu được dự hội Long Hoa.

Nghĩa thứ nhì của Tân Thế: Tận Thế là tiêu diệt cái phàm Tâm, cái dục vọng của mỗi loại người. Tận Thế có nghĩa là nhơn dục tận tịnh!!! Ở đây, việc Tận Thế nằm bên trong thân Tâm của người tu, chớ không phải thế giới bên ngoài!!!

Quí Cao hữu!

Để hiểu rõ thêm, chúng ta cần tìm hiểu một câu trong Thánh Ngôn sau đây:

Càn Khôn càng náo nhiệt, ngày tận diệt lại gần kề: Càn Khôn ở đây không phải là cái Càn Khôn Vũ Trụ, mà là cái Càn Khôn Tiểu Vũ Trụ, hay nói rõ hơn Càn Khôn là cái thể xác của mỗi người (Đầu là Càn, Bụng là Khôn). Cái thể xác càng náo nhiệt có nghĩa là "Chơi xã láng" thì cái thể xác phải bị hao mòn đi đến tiêu diệt thôi!!! Chơi xã láng thì "Sáng về sớm" (bị chết, bị tiêu dệt) là lẽ đương nhiên!!! Cho nên Thánh Ngôn mới có dạy: Càn Khôn càng náo nhiệt thì ngày tận diệt phải gần kề là lẽ đương nhiên.

Bây giờ chúng ta cần tìm hiểu thêm một câu thi của Đức Hộ Pháp: Thế tan, Xuân kỷ, Long Hoa trổ!!!

Long Hoa trổ: Long là rồng tượng trưng cho cái Tâm. Hoa là tinh hoa. Long Hoa trổ là cái Tâm của chúng ta được khai mở trí huệ. Tu làm sao cho cái Tâm đạt được Trí huệ, đạt được Bát Nhã thì gọi là Long Hoa trổ!!!

Muốn cho cái Tâm đạt được Trí huệ Bát Nhã thì cần phải có đủ hai điều kiện căn bản:

1- Thế Tan: Đấy là điều kiện thứ nhứt. Thế tan ám chỉ cái phàm Tâm thế tục của chúng ta không còn nữa, có nghĩa là Nhơn dục được tịnh tận!!! Khi nhơn dục tịnh tận thì Thiên Lý lưu hành thôi!!! Cho nên, ở đây, Thế tan không có nghĩa là thế giới bị tiêu diệt hoặc là nhân loại bị tiêu diệt!!!

2- Xuân kỷ: Đây là điều kiện thứ hai. Xuân là mùa xuân, ám chỉ cái sức khoẻ, cái sức mạnh của chúng ta. Kỷ là bản thể, là thể xác. Xuân kỷ là cái thể xác được mạnh khỏe, có đầy đủ Tam Bửu Ngũ Hành là tám món báu ở trong cái túi Bát Bửu Nang.

Tóm lại, muốn tu Tâm cho đạt đến Trí huệ Bát Nhã (Long Hoa trổ) thì phải có đủ hai điều kiện căn bản là Nhơn dục phải tịnh tận (Thế tan) và phải có đủ Tam Bửu Ngũ Hành (Xuân kỷ)!!! Người tu đạt được Long Hoa trổ rồi thì mới có "Vé đại biểu" mà tham dự "Long Hoa đại hội!". Do đó, chúng ta không nên trông ngóng "Long Hoa đại hội" mà chỉ nên tu tạo được hai điều kiện cho "Long Hoa trổ" mà thôi!!! Tâm của chúng ta chưa được khai mở Trí huệ (chưa trổ Long Hoa) mà cứ trông ngóng mong mỏi "Long Hoa đại hội" là một điều mê tín!!!

Tổng tóm lại, cái nghĩa chánh nhứt của hai chữ Tận Thế là nhơn dục tịnh tận!!!

 

THÁNH BẤT KHẢ TRI

Kinh Tiên Giáo:

Tiên Thiên khí hóa

Thái Thượng Đạo Quân

Thánh bất khả tri

Công bất khả nghị

\

Quí Cao hữu!

Chữ Thánh ở đây ám chỉ cái Thánh Chất của Đức Thái Thượng, tức là cái Trí huệ Bát Nhã của Đức Thái Thượng bao la rộng khắp, chúng ta là người phàm mắt thịt không thể biết được đâu, chính chúng ta bất khả tri, chớ không phải là ông Thánh bất khả tri đâu!!! Cũng như vậy, cái công đức của Ngài to lớn bao la, chúng ta cũng không thể luận bàn được!!! Tóm lại, chính chúng ta bất khả tri cái Thánh Chất Trí huệ của Đức Thái Thượng và bất khả nghị Công đức của Ngài!

Cũng với ý nghĩa này, chữ Thánh được dùng trong các danh từ sau đây:

Tòa Thánh: Tòa nhà để tu tập Thánh Chất (Trí huệ).

Thánh Chất: Cái Thất để tu tập Thánh Chất (Trí huệ).

Tóm lại, chữ Thánh ở đây có nghĩa là Thánh Chất, là Tinh thần Trí huệ, chớ không có nghĩa là ông Thánh!!!

 

CHẤP CHỈ VONG NGUYỆT

Thánh Ngôn:

Nâu sồng nhuộm áo pha màu khổ!

Tránh mối oan khiên, chớ buộc mình!!!

...

Chiều thu nguyệt xế!

Non nhạn ngày thâu!!!

Lẩn thẩn tháng ngày qua mau, buổi xuân ngoảnh lại đà xa lắc!!! Nếu chẳng bền vững theo nẻo chánh mà thoát lối sông Mê thì căn quả trả vay vay trả chẳng biết ngày nào tiêu tận đặng!!!

\

Quí Cao hữu!

Hễ tu thì đừng chấp! Hễ chấp thì còn vướng và còn nghiệp chướng luân hồi!!! Đức Phật Thích Ca đi thuyết pháp gặp nhiều chúng sanh sống cao ngạo mạn chỉ trích Ngài và đả phá Ngài nên Ngài mới có dạy rằng: Ta là ngón tay chỉ TRĂNG, các ngươi hãy ngó Trăng chớ có ngó ngón tay của ta không phải là Trăng!!! Lúc đó, chúng sanh chỉ lo ngó ngón tay, dừng ở ngón tay và vướng mãi ngón tay, mãi lo phê bình đánh giá ngón tay mà quên ngó Trăng!!!

Chúng sanh bây giờ cũng không khác, cũng vẫn chấp CHỈ mà vong NGUYỆT!!!

Chấp Chỉ: Vướng chấp ngón tay!

Vong Nguyệt: Bỏ quên trăng!

Ngón tay là phương tiện, là người thuyết pháp giảng chơn lý. Còn Trăng chính là chơn lý Tâm của chúng sanh là hay nhìn và phê bình người thuyết pháp mà không chịu nghe coi người ta thuyết cái gì, có đúng hay không!!!

Do đó, chúng tôi yêu cầu Quí Cao hữu đừng tìm hiểu Tác giả của những bài viết này là ai, chỉ cần đọc và tìm Chơn lý trong những bài viết đó mà thôi!!!

Nói thật với Quí Cao hữu, ngón tay của ai cũng dơ cả, cho nên chúng ta chỉ nên nghe lời thuyết pháp mà đừng nhìn người thuyết pháp!!!

Sau đây là một vài ví dụ về Chấp Chỉ Vong Nguyệt:

Thí dụ 1: Thể pháp là sắc tướng, là phương tiện để diễn giải bí pháp. Tu là tu theo bí pháp được để ẩn giấu trong thể pháp. Nếu ta cứ ôm mãi thể pháp mà không chịu tìm hiểu bí pháp để tu thì đó gọi là Chấp Chỉ Vong Nguyệt!

Thí dụ bạn mê cái áo dài trắng nên bạn tung tiền ra mua vải trắng loại nhập cảng để may cái áo dài! Bạn tin rằng cái áo dài trắng là cái áo giáp che chở cho bạn! Nói thật, bạn có may cả chục cái áo dài trắng loại đắt tiền nhất, chúng cũng không thể bảo vệ hay che chở cho bạn được đâu!!! Nếu bạn không biết tu theo bí pháp của cái áo dài trắng! Mặc cái áo dài trắng và hành theo bí pháp của nó thì lúc đó cái áo dài trắng mới trở thành cái áo giáp che chở cho bạn!!! Sau đây là bí pháp của cái áo dài trắng:

+ Giữ Tâm cho trong sạch, không nhiễm trần.

+ Giữ Tâm cho thanh tịnh, không tạo nghiệp chướng.

+ Tu Tâm cho được sáng suốt trí huệ.

Mê mặc cái áo dài trắng mà quên tu theo cái bí pháp của nó thì đó gọi là Chấp Chỉ Vong Nguyệt!!!

Thí dụ 2: Đại Từ Phụ có dạy: Muốn được đắc giải thoát thì cần phải có đủ hai điều kiện là Công Quả lẫn Công Phu!!!

Công quả: Độ SANH (Sự nghiệp dành cho sanh chúng).

Công phu: Tu TÂM (Trí huệ Bát Nhã)

Phần đông các Cao Đạo hữu chỉ mê lập Công quả mà quên hẳn Công phu. Bạn có Công quả cho thật nhiều (tạo nhiều Âm chất) mà Tâm vẫn còn mê muội (không tạo Thánh chất) thì làm sao mà được giải thoát!!! Nắm cây Huệ Kiếm Gươm Thần mới dứt tan được sự thế nợ trần từ đây chớ!!! Nếu bạn chỉ lo tạo âm chất (Công quả) thì sau này chỉ được hưởng phước mà thôi, chớ không thoát được vòng luân hồi vì thiếu phần thánh chất (Công phu tu Tâm)!!! Mê Công quả Âm chất mà quên Công phu Thánh chất thì đó gọi là Chấp Chỉ Vong Nguyệt vậy!!!

Thí dụ 3: Bạn được cho một chiếc xe Dream mới để đi về Thành phố. Bạn thấy chiếc xe đẹp quá, bạn mê, bạn ngắm nghía, bạn lau chùi, bạn mân mê, bạn giữ kỹ, bạn sợ nó hư rồi sau cùng bạn quên hẳn việc về Thành phố là mục đích chánh của bạn! Bạn mê chấp phương tiện mà quên đi cái mục đích chánh của mình thì đó gọi là Chấp Chỉ Vong Nguyệt!!!

Tóm lại, người tu hành phải biết phân biệt giữa phương tiện và mục đích để đừng kẹt ở Phương tiện!!!

CỬU HUYỀN THẤT TỔ

Kinh Cầu Tổ Phụ:

Âm Dương đôi nẻo như nhau,

Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ trì!

Kinh Khai Cửu:

Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ,

Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân!!!

\

Quí Cao hữu!

Bài viết này rất "Khó đọc" và khó chấp nhận đối với phần đông Quí Cao hữu, cho nên chúng tôi xin Quí Cao hữu hãy bình tĩnh, khách quan và "Giải trừ kiến thức" trước khi đọc bài này, để thấy được "Mặt trăng" mới!!!

Thờ Cửu Huyền Thất Tổ là thờ Tổ Tiên, Ông Bà, cho nên bài viết này được dựa theo quan điểm âm dương của Ông Bà, chớ không dựa theo quan điểm âm dương của Kinh Dịch!!!

Dựa theo quan điểm Nam thất, Nữ cửu của Tổ Tiên để lại thì chúng ta có thể hiểu nghĩa của Cửu Huyền Thất Tổ và của Âm Dương như sau:

* Số 7 (Thất) tượng trưng cho Dương (Nam), tượng trưng cho tinh thần, cho linh hồn, cho cõi vô hình. Số 7 ở đây không nói về số lượng, mà chỉ tượng trưng cho cõi Dương, cõi vô hình. Cho nên chúng ta có thể hiểu: Thất Tổ là bao gồm hết những người đã chết (Phần Âm là thể xác đã bị tiêu diệt, chỉ còn phần Dương là linh hồn)  trong mỗi Tông đường, không phân biệt tuổi tác hay cấp bậc lớn nhỏ gì hết!!!

* Số 9 (Cửu) tượng trưng cho Âm (Nữ), tượng trưng cho thể xác, tượng trưng cho hữu hình, hữu tướng!!! Số 9 ở đây cũng không phải nói về số lượng mà chỉ tượng trưng cõi hữu hình, tức là cõi của những người còn sống. Cho nên, chúng ta có thể hiểu: Cửu Huyền là bao gồm hết những người còn sống trong mỗi Tông đường, không phân biệt tuổi tác, cấp bậc lớn nhỏ. Chẳng hạn, ông nội của mình hiện đang còn sống dù đã 120 tuổi thì cũng thuộc về Cửu Huyền, chớ không cho là Thất Tổ được!!!

Tóm lại, Cửu Huyền Thất Tổ không nói về số lượng mà chỉ tượng trưng cho Âm Dương. Cửu Huyền (những người còn sống) thuộc Âm và Thất Tổ (những người chết) thuộc Dương. Thờ Cửu Huyền Thất Tổ chính là thờ Âm Dương lý vậy!!! Chúng ta đã thờ Thái Cực (Đức Chí Tôn) và ở đây thờ thêm Âm Dương (Tổ Tiên) thì cũng là một điều rất hợp lý vậy!!! Sau đây là sơ đồ của hai câu Kinh chứng minh điều nói trên:

  

Hai câu Kinh trên có ý nghĩa như sau: Cõi Âm cũng như cõi Dương hoặc là: Cõi người sống cũng như cõi người chết, hoặc là: Cửu Huyền cũng như Thất Tổ, hoặc là: Người còn sống cũng như người đã chết đều phải giữ câu thọ trì như nhau!!!

Sau đây cũng là hai câu Kinh chứng minh Cửu Huyền là những người còn sống:

"Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ,

Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân!!!"

Chỉ những người còn sống mới có than khóc, mới có đổ lụy thì Cửu Huyền chính là những người còn sống!!! Chớ Thất Tổ không thể đổ lụy được!!!

Khi chúng ta chết mà ông nội của chúng ta còn sống thì Ông ta cũng đổ lụy vì thương chúng ta. Do đó, ông nội của chúng ta cũng thuộc về Cửu Huyền chớ không thuộc về Thất Tổ được, dù ông ta nay đã 120 tuổi!!!

Quí Cao hữu!

Nói về Tổ Tiên của chúng ta thì đâu phải chỉ có 7 ông mà thôi, mà có hằng hà sa số chư Tổ cho đến ông Tổ xa xưa nhất là Đức Thượng Đế!!! Do đó nếu chúng ta hiểu hai chữ Thất Tổ nói về số lượng thì không ổn rồi!!! (Vì đâu phải chỉ có 7 ông Tổ mà thôi!!!).

Đến đây, sẽ có một số Cao Đạo hữu đặt câu hỏi sau đây để chất vấn!!! Nếu nói Cửu Huyền là những người còn sống thì sao lại để trên bàn thờ rồi thắp nhang mỗi bữa!!!???

Quí Cao hữu!

Để hai chữ Cửu Huyền trên bàn thờ thắp nhang mỗi ngày thì cũng đúng lý thôi!

Lý do thứ nhứt: Vì hai chữ Cửu Huyền tượng trưng cho lẽ Âm của Đạo, cho nên thờ Cửu Huyền là thờ lẽ Âm cho đối xứng với lẽ Dương (Thất Tổ) thì mới đúng với câu: Nhứt Âm, nhứt Dương chi vị Đạo chớ!!!

Lý do thứ hai: Chúng ta thắp nhang trước bàn thờ mỗi ngày để làm gì??? Khói nhang là hơi độc CO2 thì Tổ Tiên Ông Bà đâu hưởng nhang khói làm chi!!! Nếu chúng ta cứ dâng lên khói độc CO2 cho Tổ Tiên thì chúng ta là những người bất hiếu đấy!!! Như vậy thì thắp nhang mỗi ngày có mục đích gì?

Mục đích thờ Cửu Huyền Thất Tổ:

Mỗi lần thắp nhang trước bàn thờ, chúng ta cần nhớ hai mục đích sau đây thì việc thắp nhang mới có ý nghĩa:

1- Tưởng nhớ và noi theo gương tốt của những người quá vãng trong tông đường (Thất Tổ).

2- Lo bảo dưỡng những người còn sống, đặc biệt đối với những người không có sức lao động như trẻ nhỏ hoặc ông bà cha mẹ già yếu!!! (Cửu Huyền).

Thấy rõ hai mục đích nói trên thì chúng ta mới hiểu: Sở dĩ để hai chữ Cửu Huyền trên bàn thờ là để nhắc nhở chúng ta nhớ lo bảo dưỡng những người còn sống!!! Chỉ lo cúng kiến người chết, mà lại bỏ đói người sống là một điều không phải Đạo!!!

Do đó, khi chúng ta đi Cúng Thời Đức Chí Tôn, Phật Mẫu, các Đấng thiêng liêng (đây là Thất Tổ lớn) thì chúng ta nhớ lo bảo dưỡng tất cả chúng sanh (đây là Cửu Huyền lớn) thì việc đi cúng thời mỗi bữa mới có ý nghĩa của nó. Cũng như khi chúng ta thờ cúng ông bà tổ tiên thì chúng ta phải nhớ lo bảo dưỡng con cháu vậy!!!

Đức Chí Tôn, Phật Mẫu ............... là Thất Tổ lớn!!!

Tổ Tiên, Ông Bà............................ là Thất Tổ nhỏ!!!

Tất cả chúng sanh.......................... là Cửu Huyền lớn!!!

Con cháu trong nhà....................... là Cửu Huyền nhỏ!!!

Tóm lại, khi chúng ta thờ cúng Thất Tổ thì phải nhớ lo cho Cửu Huyền, mới là đúng Đạo!!!

Quí Cao hữu cũng đã biết câu: "Nhứt nhơn thành Đạo, Cửu Huyền thăng!!!". Một người trong Tông đường, dĩ nhiên là còn sống, tu hành được thành Đạo thì những người còn sống chung quanh của Tông đường (tức là Cửu Huyền) nhất định được ảnh hưởng mà có sự tiến hóa!!! Sao không nói Thất Tổ thăng mà chỉ nói Cửu Huyền thăng??? Quí Cao hữu nên suy nghiệm chỗ này!!!

Tổng tóm lại,

Âm Dương đôi nẻo như nhau!

Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ trì!!!

CÂU THỌ TRÌ

Thương yêu là Công quả!

Thanh tịnh là Công phu!

Công nào cũng được cả!

Miễn lòng mình hỉ xã!!!

AO THẤT BỬU

Kinh Tiểu Tường:

Ao Thất Bửu gội mình sạch tục,

Ngôi liên đài quả phúc Dà Lam.

Vạn Linh trổi tiếng mừng thầm,

Thiên thơ Phật tạo độ phàm giải căn!

\

Quí Cao hữu!

Trước khi giới thiệu Ao Thất Bửu cho Quí Cao hữu tắm rửa gội mình, chúng ta cũng nên tìm hiểu bốn câu Kinh nêu trên.

Ao Thất Bửu là một cái ao có 7 món báu để chúng ta tắm gội cho sạch hết phàm tâm. Nhờ tắm gội ở Ao Thất Bửu mà chúng ta tạo được cái Liên đài, nói khác hơn là nhờ tắm gội Ao Thất Bửu mà chúng ta tạo được cái Tâm Tòa Sen tức cái Tâm Phật, cái Tâm Như Lai!!! Ao Thất Bửu quí báu như vậy nên Vạn linh vui mừng trong dạ khi có cái Ao Thất Bửu để tắm gội!!!

Nhưng Ao Thất Bửu nghĩa bóng là gì và do ai tạo ra?

Quí Cao hữu!

Ao Thất Bửu không phải là cái ao hữu hình có chứa nước để tắm gội như chúng ta thường thấy.

Ở đây, theo nghĩa bóng, Ao Thất Bửu là Tâm Kinh, là Kinh dạy Tâm, là Thiên Thơ!!! (xin xem bài Thiên Thơ và bài Tắm Thánh đã viết ở trước).

Quí Cao hữu!

Muốn tạo được Liên đài thì chúng ta phải tắm gội thường xuyên và nhiệt thành!!!

Hai chữ Dà lam nghĩa đen là Chùa Phật, nghĩa bóng là Công phu khổ hạnh!!! Có Công phu khổ hạnh tức là có Dà lam thì chúng ta mới tạo được Liên đài mà Liên đài chính là cái Quả phúc của chúng ta!!! (Cái kết quả đầy phúc đức).

Quí Cao hữu!

Chúng tôi sẽ giới thiệu cho Quí Cao hữu Ao Thất Bửu đầy đủ 7 món báu, còn việc chịu công phu khổ hạnh để tắm gội thường xuyên hay không là do chính Quí Cao hữu muốn cùng chẳng muốn mà thôi!!!

"Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn" và "Giờ giờ cần phủi sạch, chớ để vướng trần ai" là kim chỉ nam của các người tu!!! Đốn ngộ nhưng phải tiệm tu!!! Tiệm tu chính là thường xuyên tắm gội Ao Thất Bửu!!! (Tức là Tắm Thánh). Sau đây là Ao Thất Bửu.

Bửu thứ nhứt:

Tất cả đều là ơn!

Không một chút oán hờn!

Luôn luôn Ta tự tại!

Chẳng điều gì quái ngại!!!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.

Bửu thứ hai:

Thương yêu là Công quả!

Thanh tịnh là Công phu!

Công nào cũng được cả!

Miễn lòng mình hỉ xã!!!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.

Bửu thứ ba:

Trùng trùng duyên khởi y như mộng!!!

Hết mộng rồi thôi, chẳng có gì!!!

Cho nên:

Đối với ta, tất cả đều vô nghĩa!!!

Chẳng có điều chi làm cho ta động Tâm!!!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.

Bửu thứ tư:

Thân này chẳng phải Ta!

Vạn pháp cõi ta bà!

Đều vô thường, huyễn hóa!

Ta xem thường tất cả!!!

Thoát trần ta bước siêu nhiên!

Tâm không dính Cảnh là Tiên trên Đời!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.

Bửu thứ năm:

Không bất bình thế sự!

Không bàn chuyện thị phi!

Không động tâm ưa ghét!

Trang nghiêm thanh tịnh!

An lạc thái bình!!!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.

Bửu thứ sáu:

Thấy CÓ thì bị ràng buộc!

Thấy KHÔNG thì được giải thoát!!!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.

Bửu thứ bảy:

Trụ nguyên Tánh, hồn linh nhàn lạc!

Cõi Đào Nguyên cỡi hạc thừa long!!!

Lánh xa trược chất bụi hồng!

Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.

Quí Cao hữu!

Sau đây là cách Tắm Ao Thất Bửu theo các tiêu chuẩn sau:

1- Mỗi lần tắm một bữa và tắm liên tục (Chánh niệm luôn hiện tiền) trong một thời gian dài ngắn tùy theo tâm thức của mỗi con người, một tuần hai tuần chẳng hạn.

2- Phải hiểu rõ nghĩa của mỗi bài tâm Kinh để khi ý niệm tới đâu thì Tâm tin tưởng tới đó!!! Niệm tới đâu thì chúng ta tin tưởng tuyệt đối là Tâm của chúng ta phải đạt được y như nội dung của bài Kinh vậy!!! Đức tin là trên hết!!! Vì Đức tin là căn bản của tu Tâm!!! (xem bài Thành Tín).

3- Sau mỗi lần tắm gội, chúng ta nhớ niệm Danh Thầy để hộ trì cho chúng ta đạt được nội dung của bài Tâm Kinh, để giúp cho chúng ta có đức tin càng thêm vững chắc!!! Đức tin càng vững mạnh thì kết quả càng to lớn!!!

Quí Cao hữu!

Tóm lại, Ao Thất Bửu là Tâm Kinh, là Thiên Thơ!!! Trong Thiên Thơ có 7 bài Tâm Kinh để dạy Tâm của chúng ta. Chính Quí Cao hữu cũng có thể dựa vào Kinh Kệ mà tự mình đào một Ao Thất Bửu cho thích hợp với Tâm thức của mình!!!

Ý kiến bạn đọc (0)

Ảnh Đẹp

Có Sắc Không Hương

Một ngày kia, nữ hoàng Shaba gởi đến vua Solomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu.Đó...