Tủ Sách Cao Đài - Hòa Hảo

NGƯƠN THẦN VÀ THỨC THẦN - Phần 3

Đăng lúc: 00:22 AM 31/05/2018 0   1021

Cùng Chủ Đề

HỘI LONG HOA - phần một
TRIẾT LÝ VỀ HỘI LONG HOA QUA CÁC TÔN GIÁOTIẾT 1: HỘI LONG HOA LÀ...
HỘI LONG HOA - phần hai
C. HỘI LONG HOA     ...
HỘI LONG HOA - phần ba - Hết
V. PHẬT GIÁO HÒA...

CÔNG THAM THÁI CỰC

Kinh Cúng Tứ Thời:

Công tham Thái Cực,

Phá nhứt khiếu chi huyền quang!

Tánh hiệp vô vi.

Thống Tam Tài chi bí chỉ!

Đạo Đức Kinh:

Thiên đắc Nhứt dĩ thanh!

Địa đắc Nhứt dĩ vinh!

Thần đắc Nhứt dĩ Linh!

Vạn vật đắc Nhất dĩ sinh!

\

Quí Cao hữu!

Ngoài ý nghĩa của những người "Luyện Đạo" chúng ta có thể hiểu ý nghĩa của "Công tham Thái Cực" về phương diện tu Tâm như sau:

Thái Cực: Một đối tượng duy nhất, chẳng hạn, Thiên Nhãn là Thái Cực, một bài Tâm Kinh duy nhất là Thái Cực, một Chánh Niệm hiện tiền duy nhất là Thái Cực, một đầu cây nhang đang cháy là Thái Cực, huyệt ấn đường cũng là Thái Cực... Tóm lại, bất cứ một đối tượng duy nhất nào dù là đối tượng vật lý hay là tâm lý cũng trở thành là Thái Cực khi nào tâm thức của chúng ta tập trung hoàn toàn vào đối tượng đó.

Công tham: Công phu tập trung tâm thức vào một đối tượng duy nhất gọi là công tham (Thái Cực). Công tham Thái Cực lâu ngày thì sẽ có Trí huệ, sẽ có sự linh diệu, tức là sẽ khai mở được khiếu huyền quang!!!

Công tham Thái Cực: Còn gọi là Thần đắc Nhứt (Tâm thức tập trung vào một đối tượng duy nhất mà thôi).

Phá nhứt khiếu chi huyền quang: Còn gọi là dĩ Linh! (Sẽ có trí huệ, sẽ có sự linh diệu).

Tóm lại, khi Tâm thức của chúng ta tập trung hoàn toàn vào một đối tượng duy nhất thì đối tượng đó chính là Thái Cực. Cho nên Thái Cực có thể hiểu rộng ra là một Chánh Niệm hoặc là một bài Tâm Kinh, hoặc là một Thiên Nhãn, hoặc là một huyệt đạo... Do đó, Công tham Thái Cực cũng có thể hiểu rộng ra là Thần đắc Nhứt (dĩ Linh) hoặc là Chưởng Đào Tiên (thủ giải trường tồn) hoặc là Năng chiếu Diệu Quang (tiêu trừ nghiệt chướng) hoặc là Tắm Ao Thất Bửu (gội mình sạch tục)!!!

Công tham Thái Cực, phá nhứt khiếu chi huyền quang còn gọi là "THẦN ĐẮC NHỨT DĨ LINH"!!!

TU THIỀN

Kinh Dâng Hoa:

Từ Bi giá ngự rạng môn thiền!

Đệ tử mừng, nay hữu huệ duyên!

Kinh Dâng Rượu:

Thiên Ân Huệ chiếu giáng thiền minh,

Thành kỉnh trường xuân chước tửu quỳnh!

Thánh Ngôn:

Nhành dương nước rưới tan lòng tục!

Nguồn Thánh Đạo dìu lại cõi Tiên!

Phước gặp kỳ ba Trời Phổ độ!

Mau chơn ráng lướt tới rừng Thiền!!!

\

Quí Cao hữu!

Nghe nói tới tu thiền thì phần đông các Cao Đạo hữu đều phản đối, thậm chí có người còn chế nhạo các người tu thiền nữa! Họ có biết đâu Đạo Cao Đài, chính là Đạo Thiền!!! Họ cũng không biết là chính các vị Phật, các vị Bồ Tát, các vị Cổ Đức Thiền Sư, các vị Thánh đều nhờ tu thiền mà thành Đạo!!!

Quí Cao hữu!

Sở dĩ các Cao Đạo hữu đó chỉ trích phê bình Đạo thiền là vì họ nghĩ rằng Đạo Cao Đài còn trong Tịch Đạo Thanh Hương, chưa tới thời kỳ Tịch Đạo "Đạo Tâm"! Họ cho rằng chưa tới thời kỳ mà lo tu Tâm, tu Thiền, tu Thiên Đạo là sai!!! Họ còn khuyên chúng ta chỉ nên lo tu Nhơn đạo mà thôi, với lý do là vì "Đức tu Tiên đạo" mà "Nhơn đạo bất tu" thì "Tiên đạo viễn hỉ"!!! Họ còn bảo chúng ta chờ chừng nào có Chơn Sư mới được quyền tu thiền!!! Chúng ta đã có Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ là Đấng Chúa Tể của Càn Khôn Vũ Trụ mà chưa xứng đáng là Chơn Sư của chúng ta hay sao? Mà còn phải chờ đợi đòi hỏi một Chơn Sư nào nữa chớ!!!

Đợi chờ cho tới chừng nào mới chịu tu Thiền để được giải thoát? Đợi Tử thần đến rồi mới chịu tu hay đợi xuống tới Cửu Tuyền gặp Diêm Vương rồi mới chịu tu hay sao? Quí Cao Đạo hữu hãy luôn cảnh giác bằng bài kệ sau:

Không chừng lát nữa chết!

Sẽ phải từ bỏ hết!!!

Mới thấy được vô thường!!!

Thì đã gặp Diêm Vương!!!

Quí Cao hữu!

Để giúp cho Quí Cao hữu nói trên dẹp bỏ các thành kiến đối với Thiền, chúng ta cũng nên thảo luận các điểm chánh yếu của Đạo Thiền.

* Thiền là gì?

Thiền là Đạo! là Dịch! Cho nên Đạo Thiền không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ hạn hẹp của loài  người! Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tạm mượn ngôn ngữ mà diễn tả Thiền để chúng ta có thể hiểu được đại khái về Thiền!

Thiền là sự tập trung tư tưởng, là sự tập trung tinh thần!!! Thí dụ bạn đang uống trà thì bạn cứ chú Tâm duy nhất vào việc uống trà, không phân tâm vào việc nào khác, thì đó gọi là Thiền!!! Mà người Nhật gọi đó là Trà Đạo!!!

Hiểu theo nghĩa Thiền là sự tập trung thì làm bất cứ việc gì chúng ta cũng Thiền được cả!!! Thiền bất cứ lúc nào!!! Thiền bất cứ chỗ nào!!! Đi đứng hay nằm ngồi đều Thiền được cả!!!

" Đi cũng Thiền! Ngồi cũng Thiền!

Nói nín, động tịnh thảy an nhiên!!!"

Tóm lại, Thiền sẽ giúp chúng ta dễ thành công vì nhờ chúng ta tập trung hết tâm trí vào một công việc duy nhất!!!

Như vậy, Thiền là một điều rất tốt đẹp, cớ sao có một số Cao Đạo hữu lại chống đối Thiền, thậm chí còn chế nhạo nữa!!!

* Thiền là sự tập trung tư tưởng:

Tập trung tư tưởng gọi là THIỀN QUÁN. Quán là quán xét, là suy nghĩ, là tư duy, là tìm hiểu một vấn đề duy nhất mà thôi! Tư tưởng không bị phân chia, không bị phóng Tâm sang một vấn đề thứ nhì nào khác!!! Đó gọi là Thiền! Tập trung tư tưởng chưa được thì chưa thể gọi là Thiền! Mục đích của Thiền Quán là gì? Thiền Quán để Tâm được mở mang, được giác ngộ, được thấy chơn lý, được thấy bí pháp... Tức là nhờ Thiền Quán mà chúng ta được sáng suốt và được tiến dẫn đến trí huệ!!!

"Làm người phải rõ lý sâu!

Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh!"

Tu Thiền Quán rất tốt nhưng Quán mãi mà không có lúc nghỉ ngơi thì sẽ sanh ra loạn trí, điên cuồng, làm mất hết giá trị của pháp môn Thiền định!!!

"Chớ thái quá cũng đừng bất cập!

Phép tu hành luyện tập nhiều ngày!!!"

* Thiền là sự tập trung tinh thần:

Tập trung tinh thần gọi là THIỀN CHỈ. CHỈ là đình chỉ tất cả!!! Là nghỉ ngơi toàn diện!!! Là nới giãn tận cùng!!! Là buông xã triệt để!!! Là không quán xét, không tư duy suy nghĩ điều gì nữa hết!!! Là Vô Niệm!!! Thiền CHỈ là gom hết tinh thần vào một điểm duy nhất, đó gọi là "qui Nhứt bổn", gọi là "Chưởng Đào Tiên", gọi là "Chầu Chí Linh". Đến đây vấn đề Thiền CHỈ được chia ra 2 phần:

1- Tập trung tinh thần bên ngoài:

Nếu là tín đồ Cao Đài thì tập trung tinh thần vào một điểm duy nhất đó là Thiên Nhãn. Các Cao hữu cứ nhìn ngay Thiên Nhãn mà định thần của mình, lâu ngày sẽ thấy linh diệu! Đó gọi là "Thần đắc Nhứt dĩ Linh!!!". Đó gọi là "Công tham Thái Cực" sẽ phá được "Nhứt khiếu chi huyền quang"!!! Đó gọi là "Chưởng Đào Tiên" mà thủ giải trường tồn!!!

2- Tập trung tinh thần bên trong:

Tập trung tinh thần bên trong cơ thể là tập trung tinh thần vào một huyệt đạo duy nhất trong cơ thể, chẳng hạn huyệt Ấn dương hoặc huyệt Đan diễn (Rún)!!! Tập trung tinh thần vào huyệt đạo là một điều rất nguy hiểm!!! Tập trung thái hóa hoặc tập trung vào các"Huyệt nguy hiểm" thì dễ sanh ra "Tẩu hỏa nhập ma"!!! Điều này làm mất hết giá trị của Pháp môn thiền định!!! Do vậy, mà pháp môn thiền định bị nhiều người phản đối, bởi những kẻ hành THIỀN sai trái!!! Người hư chớ Đạo Thiền không hư!!!

Tu Thiền CHỈ sẽ đem đến cho Tâm chúng ta sự thanh tịnh! Rồi nhờ từ sự thanh tịnh này mà sanh ra được Trí huệ! (Thanh Tịnh Trí Phật). Tuy nhiên, nếu chúng ta tu CHỈ đến thái quá thì sẽ sanh ra hôn trầm mê muội, điều này cũng sẽ làm giảm uy tín của Pháp môn Thiền định!!!

Quí Cao hữu!

Tu QUÁN và tu CHỈ phải thay đổi nhau luôn, QUÁN đến lúc mệt thì sang qua CHỈ, CHỈ đến lúc tỉnh thì sang qua QUÁN.

Quán Chỉ rồi Chỉ Quán!!!

Quán sẽ được Trí huệ!!!

Chỉ sẽ được Thanh Tịnh!!!

Quí Cao hữu!

Ngoài 2 pháp môn Thiền QUÁN và Thiền CHỈ ra, Đạo Thiền còn pháp môn thứ ba là Thiền ĐỊNH. Thiền ĐỊNH bên Đạo Phật gọi là "Nhập ĐỊNH tam muội".

* Nhập ĐỊNH tam muội = Thiền ĐỊNH:

Nhập ĐỊNH tam muội (Thiền ĐỊNH) gọi là Chỉ Quán song tu, nghĩa là tu CHỈ và QUÁN một lượt!!! Điều này khó giải nghĩa, nhưng mượn thí dụ để nói thì dễ hơn: "Thí dụ bạn Niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật, trong khi niệm bạn có tư tưởng đến Đức Phật A Di Đà và có đặt đức tin vào Đức Phật A Di Đà thì đó gọi là bạn đang tu QUÁN (chỉ là việc Quán nhỏ thôi). Trong khi đó bạn cũng nhờ câu Nam Mô A Di Đà Phật mà Tâm bạn được đình chỉ lại một chỗ, không bị tạp niệm, không bị phóng Tâm! Đó gọi là bạn đang tu CHỈ! Cùng một câu Nam Mô A Di Đà Phật mà bạn có thể tu QUÁN đồng thời bạn cũng có thể tu CHỈ thì đó gọi là CHỈ QUÁN Song tu!!! Bạn niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật ((Chỉ Quán một lượt) cho đến lúc "Vô biệt Niệm" tức là không còn phân biệt đâu là câu Niệm, đâu là cái Tâm nữa, tức là được "Hườn hư" rồi thì đó gọi là Nhập ĐỊNH tam muội hay còn gọi là THIỀN Định!!!

Các Tín đồ Cao Đài cũng có thể nhập ĐỊNH tam muội bằng cách Niệm Danh Thầy cho đến lúc Vô biệt Niệm!!!

Tổng tóm lại, cả 3 pháp môn: QUÁN, CHỈ và ĐỊNH gọi chung lại một tên là THIỀN!!! Kết quả của THIỀN là ĐỊNH nên chúng ta thường gọi là Thiền – Định!!!

CÁCH TU TÂM

Thánh Ngôn:

Dò theo đường chánh chớ sai lầm!

Biết Đạo cần trau một chữ Tâm!

Tiên Phật nơi mình đâu phải khó!

Khó do chẳng trọn tấm chơn thành!

Thánh Ngôn:

Đắc Đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn mà thôi!!!

\

Quí Cao hữu!

Tu Tâm là dạy Tâm, là dạy dỗ Chơn Thần, là tu trí huệ, là tu Thiên Đạo, là làm sao cho Tâm đạt được: sáng suốt, giác ngộ, thanh tịnh, ý chí mạnh mẽ và đức tin vững chắc. Muốn đạt được các yêu cầu nói trên thì chúng ta lần lượt thực hành các cách tu sau đây:

1. Hiệp chúng đẳng Chư Phật, tạo định thiên thi.

2. Đóng cửa, tụng Huỳnh Đình.

3. Giữ gìn Chánh Niệm luôn luôn hiện tiền.

4. Luôn luôn Giác Ngộ và Kiến Tánh.

5. Năng Chiếu Diệu Quang.

6. Năng Tắm Thánh và tắm Ao Thất Bửu.

7. Lần chuỗi Bồ Đề.

8. Năng Quán đàn.

9. Đóng Địa Ngục, Mở Tầng Thiên.

10. Rèn Cây Huệ Kiếm.

11. Luyện Bộ Lôi Công.

12. Đắp Lộ Bình Dương.

13. Công tham Thái Cực: Thần đắc Nhứt.

14. Chưởng Đào Tiên.

15. Niệm Danh Thầy và Nhập Định Tam Muội.

16. Ngươn Thần Thường Trụ.

17. Tu Quán, tu Chỉ, tu Định.

Quí Cao hữu!

Tất cả 17 cách tu Tâm nói trên đều có rải rác trong các bài thuyết giảng của Bổn-Tánh Thánh-Chủ và Diệu-Không Thiền Sư. Do vậy, Quí Cao hữu nên đọc thật kỹ các bài thuyết giảng để tìm ra được các "Bí kíp" tu Tâm ẩn chứa trong đó!!!

Chúc Quí Cao hữu thành công!!!

Tâm kệ:

Hoàng hôn sắp tắt Mặt Trời!!!

Lại gặp mưa bão làm Đời hết vui!!!

Đệ Huynh ơi! Hỡi Đệ Huynh!!!

Sao còn mê đắm mùi trần!

Sao chưa thức tỉnh, Định thần giải căn

Đệ Huynh ơi! Hỡi Đệ Huynh!!!

SỰ THẤT BẠI CỦA THÁI TỬ

Đức Phật Thích Ca, hồi còn là Thái Tử, Ngài ra ngoại thành thấy cảnh đời Sanh, Lão, Bịnh, Tử nên Ngài quyết tâm rời bỏ Cung Vàng Điện Ngọc để đi tìm Chơn lý, tìm cách thoát khỏi Sanh, Lão, Bịnh, Tử. Nhưng Ngài đã thất bại vì không có ai có thể thoát khỏi Sanh, Lão, Bịnh, Tử được!!! Sanh, Lão, Bịnh, Tử cứ diễn tiến mãi không ngừng!!! Ví đó là Định luật của Vũ trụ, của Đức Thượng Đế!!!

Tuy nhiên, nhờ sự thất bại này mà Thái Tử mới thấy được một phương pháp giải thoát siêu tuyệt và truyền lại cho chúng ta đến ngày hôm nay. Đó là, thay vì nhìn các đối tượng bên ngoài (Sanh, Lão, Bịnh, Tử) thì sẽ sanh ra phiền não, sanh ra sự khổ, Ngài dạy chúng ta hãy nhìn vào bên trong Tâm và huấn luyện Tâm thay đổi quan điểm đối với Ngoại cảnh chung quanh. Ngài dạy chúng ta hãy luôn luôn giữ gìn cái Tâm cho được độc lập và tự do!!! Đó là cách giải thoát duy nhất!!! Sau đây là một truyện Cổ của Phật Giáo sẽ làm cho Quí Cao hữu thấy được Pháp Giải Thoát!!!

* Đất, Nước, Gió, Lửa chừng nào mới hết:

Một Đệ Tử hỏi Ông Thầy của mình: Thưa Thầy, tứ đại Đất, Nước, Gió, Lửa cho đến lúc nào mới hết? Ông Thầy suy nghĩ một hồi lâu mà chưa tìm ra được câu trả lời!!! Ông đành chịu thua và giới thiệu người đệ tử đến hỏi Sư Phụ của mình!!! Sư Phụ này cũng "Chào thua" và cũng giới thiệu người đệ tử đó đến hỏi Sư phụ của mình!!! Cứ như thế mà người đệ tử đem điều thắc mắc của mình đi hỏi từ Ông Sư Phụ này cho đến các Ông Sư Phụ khác mà vẫn không thỏa mãn được!!! Cuối cùng, một Ông Sư Phụ giới thiệu người đệ tử đến tham vấn Đức Phật Thích Ca và dặn kỹ rằng: Nếu Đức Phật giải đáp không thỏa mãn được thì ngươi đừng có đi tham vấn một ai nữa cho mất công!!! Người đệ tử bèn đến yết kiến Đức Phật và cũng đặt ra câu hỏi như trên.

Dễ quá con!!! Khi nào cái Tâm của con hết thì Đất, Nước, Gió, Lửa cũng chấm dứt ngay thôi!!!

Ngay sau câu trả lời của Đức Phật, người đệ tử đắc được Quả vị A la hán, một Quả vị không còn dục vọng trong Tâm nữa!!!

Quí Cao hữu!

Chỉ một câu trả lời đơn giản của Đức Phật thôi cũng đủ truyền lại cho hậu thế một cái chơn lý, một cái bí pháp giải thoát rồi!!! Khi nào cái Tâm của chúng ta hết (Không tạo tác nữa) thì vạn vật tiêu tan!!! Thật là giản dị!!! Không có lý nào khác nữa!!!

Quí Cao hữu!

Chúng tôi xin ghi lại đây các câu danh ngôn, Thánh ngôn và Đạo ngôn để giúp cho chúng ta trên đường tu tập giải thoát:

1. Vạn pháp do Tâm tạo!

2. Thiên đàng hay Địa ngục đều do Tâm!

3. Tâm tức Phật! Mà Tâm cũng tức Ma nữa!

4. Chứng được Vô Sanh Pháp thì Tây Phương trước mặt!

5. Phi mao tùng thử đắc! Tớ Phật giả do tha!

6. Cao thâm vạn sự tại Nhơn Tâm!

7. Đắc Đạo cùng chăng đều do Tâm của các con muốn cùng chẳng muốn mà thôi!!!

Quí Cao hữu!

Sau cùng, chúng ta đều thấy cái TÂM là Chánh Nhứt!!! Cho nên, vấn đề tu Tâm, tức là tu Trí huệ, tu Thiên Đạo phải là một vấn đề ưu tiên số một!!!

Đến đây, để chấm dứt bài này, chúng tôi xin gởi tặng Quí Cao hữu một câu "Thần chú" luyện Tâm để Quí Cao hữu tâm niệm hàng ngày:

Thấy CÓ thì bị ràng buộc!!!

Thấy KHÔNG liền được giải thoát!!!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông! Đại Bồ Tát! Mahatát!

CẤT NHÀ CÕI THIÊN

Kinh Phụ Tế:

Đã từng chịu khó khăn kiếp sống!

Định Tâm thần giải mộng Nam Kha.

Càn Khôn để bước ta bà,

Đoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên!

Kinh Khai Cửu:

Ngó chi khổ hải sóng xao!

Đoạn tình yểm dục đặng vào cõi thiên!

Thánh Ngôn:

Sắm nghiệp trần gian còn phải khó!

Huống là Nghi Trưởng tại Bồng sơn!!!

\

Quí Cao hữu!

Tạo được một căn nhà vừa ý ở cõi trần gian này là một sự khó khăn lắm nỗi!!! Bây giờ lại nói tạo một căn nhà cõi thiên nữa thì thật là quá sức tưởng tượng!!! Nhà trần gian dù khó khăn cách mấy, chúng ta cũng còn có hy vọng tạo được!!! Nhà cõi thiên thì cất ở đâu? Cất nhà trên mây chăng? Ơ trên nguyệt cầu chăng? Ở trên sao Mộc chăng? Ở trên phi thuyền Con Thoi chăng? Nhà Cõi Thiên cất bằng vật liệu gì? Cách xây nhà Cõi Thiên có giống như cách xây cất thường tình không?

Quí Cao Đạo hữu!

Ngặt một nỗi là người tu nào cũng cần phải cất được một nhà Cõi Thiên để mình ở, chớ không được ở đậu nhà của người khác!!! Người nào cất được một căn nhà Cõi Thiên hoàn chỉnh thì có thể nói người đó đã đạt được Cơ thoát tục rồi vậy!!! Cũng có thể nói người đó đã đạt được "Cân đẩu vân" của Tề Thiên Đại Thánh rồi vậy!!!

"Cỡi Kim Hẩu đến Tịch san,

Đẩu vân nương phép Niết Bàn đến xem!"

(Kinh Bát Cửu)

Khi Quí Cao hữu đạt được Phép Cân Đẩu Vân rồi thì việc đến Niết Bàn hóa ra dễ dàng!!! Nói nghe hấp dẫn quá, phải không Quí Cao hữu!!! Quí bạn đang sốt ruột phải không? Thôi thì chúng tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề!!!

Trước hết chúng ta cần biết Cõi Thiên ở đâu? Biết được Cõi Thiên rồi thì chúng ta mới có "Đất" để cất nhà chớ!!! Như trong các bài trước đã viết, chữ Thiên ở đây không có nghĩa là Trời, mà Thiên chính là cái Tâm của chúng ta!!! Quí bạn cũng đã biết: Tâm tức Phật, Tâm tức Ma, Tâm tức Thiên Thai, mà Tâm cũng tức Niết Bàn nữa!!! Như vậy thì cất nhà Cõi Thiên có nghĩa là tu luyện cho cái Tâm của chúng ta trở thành một cái Tịnh Thất để khi nào cần chúng ta sẽ vào đó ở thì chúng ta sẽ được an lạc, được thoải mái, không còn một chút phiền não như đang ở cõi Niết Bàn vậy!!! (xin xem kỹ các bài trước).

Trụ nguyên Tánh, hồn linh nhàn lạc!!!

Cõi Đào Nguyên cỡi hạc thừa long!!!

Lánh xa trược chất bụi hồng!

Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung!!!

(Kinh Phụ Tế)

(Nguyên Tánh = Tịnh Thất = Nhà Cõi Thiên)

Quí Cao hữu!

Nảy giờ chúng tôi chỉ nói trên lý thuyết, chỉ nói về phương hướng mà thôi. Bây giờ chúng tôi sẽ đề cập tới phương diện thực hành.

* Luyện đức tin: Cách trừ phiền não, tà niệm... Khi nào gặp một phiền não hay là có tà niệm len lỏi vào Tâm của chúng ta thì Quí bạn hãy làm như sau:

Tay trái bắt Ấn Tý, Ý niệm Danh Thầy (Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Mahahát), còn Tâm thì Quí bạn tin tưởng hoàn toàn (đức tin tuyệt đối) là được: an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!! Ngoài ra Tâm bạn đừng nghĩ điều gì nữa cả!!! Nói thì dễ nhưng khi thực hành thì rất khó!!! (Cho nên tu Tâm thật khổ hạnh chớ không phải dễ dàng). Có thể lần đầu bạn Niệm Danh Thầy mà phiền não tà niệm chưa tiêu được vì Đức tin còn quá mỏng, quá yếu!!! Đức tin là trên hết và phải tuyệt đối!!! Niệm Danh Thầy mà chưa thấy kết quả là do Đức tin của mình!!! Đức tin được bao nhiêu là kết quả sẽ có bấy nhiêu!!! Cho nên Đức tin cần phải luyện tập lâu ngày khổ hạnh thì mới được!!! Cũng như Tôn Ngộ Không phải luyện tập Phép Cân Đẩu Vân lâu ngày và rất nhiều lần mới đạt được 8.400 dặm!!! Lần đầu, Tôn Ngộ Không nhảy lên liền bị rớt xuống cái bịch!!! Cũng như lần đầu Niệm Danh Thầy Quí bạn cũng vẫn còn bị phiền não vậy!!! Quí bạn Niệm Danh Thầy nhiều lần, phải luyện tập nhiều lần, cũng như Tôn Ngộ Không đã phải kiên trì mới luyện được phép Cân Đẩu Vân vậy!!!

Niệm Danh Thầy và tin tưởng tuyệt đối!!! Cứ làm như vậy nhiều lần cho đến lúc nào đó Đức tin của Quí bạn đã kết khối cứng như Kim Cương thì phiền não, tà niệm, ma cỏ gì cũng phải tiêu tan cả!!! Lúc này Danh Thầy đã trở thành căn nhà Cõi Thiên của Quí bạn!!! Khi lâm chung, chắc chắn Quí bạn sẽ về được căn nhà Cõi Thiên này vì chính Quí bạn đã tốn nhiều công phu xây dựng!!! Hơn nữa, trong Thánh Ngôn cũng có dạy: "Lúc lâm chung, đứa nào biết Niệm Danh Thầy thì sẽ được về cùng Thầy" mà!!! Đến lúc này, mỗi lần Niệm Danh Thầy là mỗi lần bạn được: an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát. Hay nói cách khác, Danh Thầy là phép Cân Đẩu Vân đưa bạn thẳng đến Niết Bàn!!! Hay nói cách khác nữa, Danh Thầy chính là Cơ thoát tục!!! Câu Kinh có nói: Đoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi thiên mà!!!

TỊNH THẤT VÀ BẠCH NGỌC KINH

Thánh Ngôn:

Gần nơi Tiên Cảnh, phải xa phàm!

Cái kiếp trần này trẻ chớ ham!

Một miếng đỉnh chung trăm giọt thảm,

Phải toan lui gót tránh vòng tham!!!

Thánh Ngôn:

Biển khổ chẳng chịu rời!

Thì Ngôi xưa còn xa mãi!!!

\

Quí Cao hữu!

Có nhiều Cao Đạo hữu than phiền rằng Đạo Cao Đài (Tòa Thánh Tây Ninh) không có Tịnh Thất (ngoại trừ Trí Huệ Cung) thì làm sao tu giải thoát? Họ cho rằng Cao Đài "Tây Ninh" chỉ có thể pháp mà không có Tâm pháp, không có Bí pháp!!! Thật ra thì Cao Đài "Tây Ninh" có đầy đủ hết thể pháp, nào Tâm pháp, nào Bí pháp, không thiếu một món nào!!! Tại vì họ không có Đức tin nên làm sao hưởng được ân huệ của Đại Từ Phụ, làm sao được Đại Từ Phụ khải ngộ cho thấy được Tâm pháp, thấy được Bí pháp chớ!!! Thiếu đức tin mà còn cao ngạo đánh giá Đạo Trời nữa thì làm sao thấy được Bí Pháp Giải Thoát chớ!!! Đại Từ Phụ có dạy: Thời buổi Hạ ngươn này, bí pháp phải được bày ra cho mọi người thấy, không được quyền giấu nữa!!!

Quí Cao hữu thấy chưa, Bí pháp đâu có giấu kín nữa, tại chúng ta không thấy hoặc thấy mà không hiểu đó là Bí pháp, chỉ một mực định kiến cho rằng đó chỉ là Thể pháp mà thôi!!!

Quí Cao hữu nên lưu ý là Bí pháp chỉ được bày ra trước mắt cho mọi người thấy mà không có "giải mã" đâu nhé!!! Vì không có "giải mã" cho nên chúng ta không tấy được bí pháp!!! Quí Cao hữu đừng vội nản chí vì Đức Đại Từ Phụ sẽ giải mã (khải ngộ) cho Cao Đạo hữu nào có đủ điều kiện một cái Tâm chí thành và một đức tin vững chắc!!!

Quí Cao hữu!

Tòa Thánh là Bạch Ngọc Kinh đặt tại thế, để trước mắt cho mọi người đều thấy!!! Mà Bạch Ngọc Kinh chính là quyển Kinh vô tự có chứa đầy đủ các "bí kíp võ lâm" trong đó!!! Tại chúng ta chưa thấy được hoặc chưa đủ điều kiện (Thành + Tín) để được Đại Từ Phụ khải ngộ mà thôi!!! Đại Từ Phụ sợ chúng ta không thấy quyển Bạch Ngọc Kinh này nên cho xây cất Tòa Thánh lấn ra (lộ rõ ra) tới giữa Lộ Bình Dương!!! Bí pháp (Kinh vô tự) giữa Lộ cho mọi người qua lại đều thấy mà có ai chịu "THẤY" đâu!!!

Quí Cao hữu!

Trở lại vấn đề Tịnh Thất (xin xem bài Kho tàng bí tạng Như Lai) thì mỗi một tín đồ Cao Đài, Thầy đều có cho một Tịnh Thất riêng mặc sức chúng ta ở yên tu luyện!!! Đó là điểm Linh Quang, là Bổn Tánh, là Phật Tánh, là Bổn Lai Diện Mục của chính mình! Mỗi người đều có đủ 3 món: Một cái nhà (thể xác), một cái Thánh Thất (cái Tâm) và một ngôi TỊNH THẤT (Chơn Linh, Bổn Tánh...). Cái Tâm của chúng ta cứ vào ở yên trong Tịnh Thất đó mà tu luyện, còn đòi hỏi cái Tịnh Thất bằng gạch ngói hữu vi chi nữa!!!

Trụ nguyên Tánh, hồn linh nhàn lạc!!!

Cõi Đào Nguyên cỡi hạc thừa long!!!

(Trụ nguyên Tánh = Tâm ở yên trong Tịnh Thất).

Hoặc là:

Thường trụ ngươn Thần (Bổn Lai Diện Mục, Chơn Linh, Phật Tánh = Tịnh Thất) thì mọi đường bặt!!! (Mọi nghiệp chướng tiêu tan).

Quí Cao hữu!

Trụ Nguyên Tánh, Trụ Ngươn thần tức là cái Tâm trụ vào Tịnh Thất của riêng mình!!! Nói thì nghe dễ hiểu đấy, nhưng trụ bằng cách nào, thực hành ra sao??? Quí Cao hữu hãy đọc lại thật kỹ bài "Cất nhà Cõi Thiên" thì sẽ thấy được cách trụ Tâm vào Tịnh Thất. Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin nhắc lại sơ qua: Quí bạn ý thì Nệm Danh Thầy còn Tâm thì tuyệt đối tin tưởng là Quí bạn được an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát y như đang ở trong Tịnh Thất vậy!!! Cứ niệm và tin tưởng như vậy cho đến một lúc nào đó thì Quí bạn sẽ thấy: "Hễ mỗi lần Niệm Danh Thầy là mỗi lần bạn được an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát thật sự"!!! Đến đây Quí bạn mới thấy được kết quả của Công phu tu tập kiên trì!!!

Quí Cao hữu!

Trong bài trước, Quí bạn đã thấy được: Danh Thầy chính là Cơ Thoát tục! Danh Thầy chính là Phép Cân Đẩu Vân! Danh Thầy chính là căn nhà Cõi Thiên!!! Bây giờ Danh Thầy cũng chính là NGÔI TỊNH THẤT hay còn gọi là TÒA BẠCH NGỌC nữa!!! Tất cả đều do Đức tin!!! Nhưng phải là KÍNH NGƯỠNG mới được!!! Kính ngưỡng Danh Thầy tức là Kính ngưỡng Đại Từ Phụ một cách chân thành thật sự!!!

RỒNG KHÔNG RÂU

Thánh Ngôn:

Thầy thấy nhiều đứa tu thì cũng muốn tu mà thế tục cũng không muốn chừa bỏ! Áo dài cũng muốn mặc, giày Đạo cũng muốn mang! Đường Tiên cũng lấp lửng, nguồn Thánh cũng tuôn vào mà thấy bạc rơi cũng chẳng bỏ, lợi nhỏ cũng chẳng từ, mượn danh Đạo tạo danh mình, vô Thánh Điện mà hơi tà còn phưởng phất!!!

\

Quí Cao hữu!

Có một lần đi cúng ở Tòa Thánh, chúng tôi gặp một Cao Đạo hữu bất ngờ đặt một câu hỏi chúng tôi: Tại sao những con Rồng ở bên ngoài Tòa Thánh đều có râu cả mà ở trong Tòa Thánh chẳng có một con Rồng nào có râu hết? Gặp câu hỏi bất ngờ làm cho chúng tôi phải "Chào thua!!!". Tuy nhiên, chúng tôi hẹn lát nữa vào Thời cúng sẽ dâng câu hỏi này lên Đại Từ Phụ để cầu xin Ngài khải ngộ cho!!! (Điều này chúng tôi làm theo lời dạy của Đức Hộ Pháp: Cầu Trí huệ thì xin Đại Từ Phụ, cầu vật chất thì xin Đại Từ Mẫu). Nhưng thật là huyền diệu! Ngay liền sau đó, chúng tôi được khải ngộ mà không cần phải chờ đến thời cúng!!! Chúng tôi mừng quá liền nói lại cho Cao Đạo hữu đó nghe, tất cả chúng tôi đều thỏa mãn, không còn thắc mắc nữa!!!

Quí Cao hữu!

Rồng là tượng trưng cho cái Tâm của chúng ta!!! Râu Rồng là tượng trưng cho các sợi dây ràng buộc cái Tâm của chúng ta!!! Khi vào trong Tòa Thánh cúng thì chúng ta phải dẹp hết mọi sự ràng buộc đời thường để cho cái Tâm (Rồng) của chúng ta được thanh tịnh (không có một sợi râu nào hết) mà chầu lễ Đức Chí Tôn. Chúng ta đừng có đang chầu lễ Đức Chí Tôn mà lại nhớ ruộng chưa rải phân bón hoặc nhớ vé số chưa dò!!!

Ruộng và vé số, đó là những sợi râu Rồng!!! Vào trong Tòa Thánh cúng thì chúng ta ngắt bỏ những sợi râu Rồng đó đi!!! Chúng ta đừng vô Thánh Điện mà hơi tà còn phưởng phất!!!

Tâm kệ:

Đạo Trời soi khắp chốn!

Khá biết tỉnh mộng hồn!!!

Nếu chẳng sớm tra thân!

Ắt có ngày cùng tận!!!

MẶC KHẢI

Thánh Ngôn:

Các con phải gắng sức, Thầy hằng ở bên các con, chẳng hề bỏ các con buổi nào!!!

\

Quí Cao hữu!

Lúc ban sơ khi nghe lời dạy của Đức Hộ Pháp: "Muốn cầu trí huệ thì xin Đại Từ Phụ" thì chúng tôi chưa tin vì chúng tôi nghĩ rằng: Đại Từ Phụ vô hình, vô ảnh thì làm sao mà hỏi!!! Hỏi như thế nào và Đại Từ Phụ trả lời cho mình bằng cách nào??? Thật là trừu tượng làm cho cái Tâm của chúng tôi mơ hồ và hoang mang!!!

Nhưng!!!

Lần đầu tiên chúng tôi thử đặt một câu hỏi trong thời cúng thì được Đại Từ Phụ mặc khải cho chúng tôi được thỏa mãn hoàn toàn!!! Kinh nghiệm này làm cho chúng tôi rất hưng phấn và Đức tin càng thêm vững chắc!!! Chúng tôi "bắt bén" xin hoài và được Đại Từ Phụ thỏa mãn nhiều lần!!! Nhưng sau này chúng tôi không dám làm rộn Đại Từ Phụ nữa vì trong Thánh Ngôn có dạy: "Các con hãy xét nét kỹ, trước khi cầu Thầy"!!! Do đó khi nào có vấn đề thật quan trọng mà chúng tôi "bí lối" thì chúng tôi mới cầu Thầy mà thôi!!! Sau đây chúng tôi tạm định nghĩa hai chữ mặc khải.

* Mặc khải: Âm thầm khải ngộ cho chúng ta hiểu rõ ràng một vấn đề nào đó. Đại Từ Phụ khải ngộ cho chúng ta không phải bằng văn từ hoặc bằng lời nói mà bằng "Điển lực" vô hình nhưng có sức mạnh. Cũng như cái "Remote" điều khiển Tivi từ xa được dùng bằng "Điện lực Pile" vậy, Đức Đại Từ Phụ cũng có cái "Remote" của Ngài và điều khiển chúng ta (cũng là một loại Tivi) từ xa bằng "Điển lực" của Ngài!!! Khi chúng ta được mặc khải thì tự nhiên chúng ta biết một cách rõ ràng không cần suy luận, khoa tâm lý học gọi đó là Trực Giác!!!

Do đó, người được mặc khải cũng không biết là mình đang được mặc khải, cho nên mới sanh ra cao ngạo ngã mạn!!! Mà hễ cao ngạo ngã mạn thì Đại Từ Phụ không bấm Remote cho chúng ta nữa, tức là không còn mặc khải cho chúng ta nữa!!!

Quí Cao hữu!

Theo thuật ngữ Thiền Tông thì mặc khải còn được gọi là "Tâm truyền Tâm". Các vị Thiền sư, các vị Chơn sư đắc Đạo cũng có khả năng bấm Remote cho chúng ta để khải ngộ chúng ta về một vấn đề nào đó. Sau đây là một số thí dụ khác về mặc khải:

* Cây Đa trong Mặt Trăng:

Một bạn Đạo dẫn chúng tôi đến gần Cung Đạo trong Tòa Thánh rồi chỉ một hình tròn trắng trong đó có lờ mờ một cây cổ thụ rồi đặt câu hỏi với chúng tôi:  "Tại sao Cung Đạo là chỗ rất quan trọng mà lại vẽ một cái Mặt Trăng tròn có Cây Đa của thằng Cuội nữa?"

Một câu hỏi thật bất ngờ cũng làm chúng tôi ngỡ ngàng giây lát. Liền sau đó chúng tôi tự nhiên (không phải tự nhiên đâu nhé!!!) nhớ lại 2 câu Kinh Tiểu Tường:

Bồ Đề Dạ dẫn hồn thương tấn!

Cực lạc Quan đẹp phận Tây Qui!

Quí Cao hữu!

Vòng tròn trắng: Là mặt trăng, tượng trưng cái Tâm (Dạ) của chúng ta.

Cây cổ thụ: Là cây Bồ Đề, tượng trưng cho sự sáng suốt, thanh tịnh, an lạc.

Bồ Đề Dạ: Là cái Tâm sáng suốt, thanh tịnh và an lạc!!! Nhờ có Bồ Đề Dạ mà chúng ta được thượng tấn, được siêu thăng, được giải thoát thì vẽ hình "Bồ Đề Dạ" tại Cung Đạo cũng là một điều rất hợp lý!!!

VẠN DẶM TRƯỜNG

Thánh Ngôn:

Đã thấy ven mây lộ bóng dương,

Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường.

Đạo Cao phó có tay cao độ,

Gần gũi sau ra vạn dặm trường!!!

\

Quí Cao hữu!

Ven mây lộ Bóng Dương: Nghĩa đen là Mặt trời đang lố dạng, chiếu ánh sáng đánh tan màu đen. Nghĩa bóng là Đạo Trời được khai mở để đem ánh sáng Trí huệ ban rải cho chúng sanh, đánh tan cái u tối mê muội của chúng sanh.

Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường: Nghĩa đen là sau khi Mặt Trời mọc thì chúng ta mới thấy đường mà cùng đi với nhau. Nghĩa bóng là khi thấy được Đạo trời thì chúng ta cùng nhau đến thọ giáo nhập môn học Đạo để hưởng được Huệ Quang của Đức Thượng Đế.

Đạo Cao: Là Đạo Cao Đài. Đạo Cao Đài cao xa lắm. Chúng ta nhập môn học Đạo thì phải có tay "Cao thủ" độ mình, có nghĩa là chúng ta cần thường xuyên gần gũi cái Thiện Tri Thức.

Gần gũi: Ám chỉ những tín đồ phế bỏ cả việc đời, vào ở trong nội ô Tòa Thánh tu luôn. Họ ở ngay trong Nội Ô (gần gũi) mà không chịu gần gũi thiện Tri thức!!! Họ tu mơ hồ, họ tu mê tín!!! Để rồi cuối cùng Đạo không thành mà đường Đời lại lỡ dỡ!!!

"Thiên Cung lỡ lối!!! chơi vơi cõi trần!!!

Do đó, họ mới bắt đầu bỏ Đạo không tu nữa, bỏ hẳn chay lạt lại ăn cả thịt trâu thịt chó nữa!!! (Người đời thường có ăn thì cũng không đáng trách).

Chẳng những thế nhiều khi họ còn phản Đạo, ố Đạo bằng những ngôn từ khó nghe!!! Đúng là xa Đạo "Vạn dặm trường!!!" có phải không Quí bạn!!!

Quí Cao hữu!

Nói như thế không phải là "quơ đũa" cả nắm đâu nhé. Nói như vậy chỉ để giải thích và chứng minh câu Thánh ngôn mà thôi. Chúng ta cũng nên thương hại họ là những bạn đồng môn được ở gần Ánh Đèn Thiêng Liêng mà không hưởng được Huệ Quang của Đại Từ Phụ!!!

Tâm kệ:

Đạo Cao cao cao lắm!!!

Người phàm thật khó nắm!

Lại đâm ra khinh thường!

Nên mãi bị chìm đắm!!!

TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Thánh Ngôn:

Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa!!!...

Ta nói cho chúng sanh biết rằng: Gặp Tam Kỳ Phổ Độ này mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi!!!

Thầy nói cho con nghe: "Nếu chẳng đến Trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc Đạo bao giờ"!!!

\

Quí Cao hữu!

Bài viết này rất "Khó đọc". Xin Quí Cao hữu đừng đọc, nhất là Quí Đạo hữu đã có định kiến!!!

Nhứt Kỳ Phổ Độ: Từ khi tạo lập nhân loại, Đức Thượng Đế thấy chúng sanh chìm đắm trong khổ hải mới mượn một người phàm là Thái Tử Tất Đạt Đa thuộc nước Ấn Độ, khai mở Đạo Phật để cứu khổ chúng sanh.

Nhị Kỳ Phổ Độ: Khoảng hơn 500 năm sau Đạo Phật, Đức Thượng Đế cũng chưa thỏa mãn lòng đại từ bi của mình (Có lẽ Đạo Phật bị canh cải làm đi xa Chơn Truyền). Cho nên Ngài mới sai con của mình là Jésus xuống thế lập Đạo Thiên Chúa mà không mượn tay phàm nữa.

Tam Kỳ Phổ Độ: Đã 2 lần lập Đạo: Một là mượn tay phàm lập Đạo Phật. Hai là sai chính con của mình lập Đạo Thiên Chúa. Đức Thượng Đế cũng chưa thỏa mãn, cho nên, vì đức háo sanh và lòng đại từ bi của mình mà Đức Thượng Đế chính mình giáng trần, lần thứ ba này để lập Đạo Cao Đài để cứu rỗi chúng sanh. Đạo mở lần thứ ba này được gọi là "Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ".

Tóm lại,

- Mở Đạo lần nhứt: Mượn người phàm.

- Mở Đạo lần hai: Do con của Đức Thượng Đế.

- Mở Đạo lần ba: Chính Đức Thượng Đế giáng trần mở Đạo bằng diệu cơ bút.

Quí Cao hữu!

Chúng ta rất may duyên gặp được Đạo Trời và Ông Thầy Trời!!! Cho nên chúng ta đừng có vọng động chạy Đông chạy Tây mà tìm Đạo nào khác hoặc tìm Chơn Sư nào khác, vì Đại Từ Phụ có dạy: Gặp Tam Kỳ Phổ Độ này mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi!!!

NẮM TÂM

Kinh khi thức dậy:

          Đây tới sáng xôn xao với thế,

Nhẫn đua chen kiếm kế sanh nhai.

Có thân giữa chốn đọa đày,

Đếm ba vạn sáu ngàn ngày khó khăn!!!

Xin Từ Phụ ra ân cứu độ,

Tăng huyền linh giác ngộ chí thành.

Rõ phước đức, biết tội tình,

Nắm tâm đắp vững mặt thành Càn-Khôn!!!

\

Quí Cao hữu!

Cái Tâm là cái trừu tượng mà bảo nắm Tâm là nắm làm sao? Cái Tâm ví như con ngựa, nếu không nắm Tâm được thì nó chạy rong khắp chỗ rồi làm sao? Thật là khó nghĩ!!!

Quí Cao hữu đừng vội nản chí, chúng tôi sẽ đề nghị một cách nhận diện rõ cái Tâm để nắm ngay "cái đầu" của nó!!! Quí Cao hữu phải đọc thật kỹ các bài viết trước đây thì mới rõ cách năm Tâm. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhắc lại sơ lược:

* Làm cho cái Tâm phải hiện nguyên hình:

Thí dụ có một cái câu : "Tôi luôn bình tĩnh, an lạc và thương yêu hết thảy chúng sanh!!!". Chúng ta hãy cho cái Tâm chứa câu đó và chỉ chứa một câu đó mà thôi!!! (xin xem bài Bản chất của Tâm).

Như vậy thì cái Tâm của chúng ta đã hiện nguyên hình thành một câu rồi!!! Chúng ta cứ tụng niệm câu đó mãi không bao giờ rời (không nghỉ tu 5 phút!!!) thì chúng ta đã cột được Tâm rồi tức là chúng ta đã nắm được "cái đầu" của Tâm rồi!!! Dễ quá, phải không Quí bạn? Chỉ cần cho cái Tâm hiện nguyên hình thành một cái câu rồi nắm ngay cái câu đó mà tụng niệm tu hành là xong ngay!!!

Tùy theo ý muốn của Quí bạn, Quí bạn có thể làm cho cái Tâm của mình hiện ra nguyên hình PHẬT (một câu nói thánh thiện) hoặc hiện ra nguyên hình MA (một câu sa đọa). Nói là nói vậy, chớ chắc chắn là Quí bạn thích nắm Phật hơn là nắm Ma rồi!!!

Quí Cao hữu!

Cách làm cho Tâm hiện nguyên hình đã có! Còn chịu nắm hay không là do Quí bạn!!! Đại Từ Phụ có dạy: "Đắc Đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn mà thôi"!!!

HỘI HIỆP CÙNG THẦY

Thánh Ngôn:

Lúc lâm chung, đứa nào biết Niệm Danh Thầy thì sẽ được về cùng Thầy.

\

Quí Cao hữu!

Niệm Danh Thầy sẽ được về cùng Thầy! Nói nghe dễ dàng quá, phải không Quí bạn? Cũng như bên Phật Giáo, Niệm Danh Phật A Di Đà sẽ được về Cực Lạc Quốc!!! Nói nghe hấp dẫn quá, phải không Quí bạn?

Mới nghe qua thì thật là đơn giản và rất dễ dàng, ai tu theo cách này cũng được!!! Tu thì dễ nhưng đắc thì không dễ đâu, nếu không muốn nói là quá khó khăn và khổ hạnh!!! Quí bạn sẽ nói: Niệm Danh Thầy thì có gì là khó khăn và khổ hạnh đâu!!! Ai Niệm cũng được mà!!!

Đúng rồi!!! Ai niệm cũng được hết!!! Nhưng Niệm đúng "bí kíp" và chí thành Niệm liên tục thì không phải bất cứ ai cũng làm được!!! Nếu chúng ta Niệm Danh như "một con két" hoặc như "một cái máy Cassette" thì Niệm nhiều chỉ sanh ra mệt mỏi và biến thành mê tín mà thôi!!!

Quí Cao hữu!

Quí bạn hãy đọc kỹ các phàn dưới đây sẽ thấy được "bí kíp".

* Hội hiệp cùng Thầy

Thánh Ngôn có dạy: "... Ráng giữ gìn Bộ Thiết Giáp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy!!! Nghe và ráng tuân theo!!!"

Quí Cao hữu!

Cho đến ngày nào chúng ta mới hội hiệp cùng Thầy? Đó là ngày mà chúng ta từ bỏ cõi đời này!!! Hay nói rõ hơn đó là ngày từ trần, là lúc Lâm chung của chúng ta!!! Đợi tới lúc lâm chung chúng ta mới được hội hiệp cùng Thầy!!! Mà có chắc chắn là chúng ta được hội hiệp cùng Thầy không??? Tại sao chúng ta không lo hội hiệp cùng Thầy trước đi, lúc hấp hối, lúc tinh thần bối rối, tán loạn thì không "ăn chắc" đâu!!!

Nhưng mà!!! Thế nào là hội hiệp cùng Thầy??? Cái Tâm của chúng ta "nằm gọn" trong Danh Thầy không rời ra nửa bước, hay nói khác hơn là Danh Thầy "nằm gọn" trong Tâm chúng ta!!! Hay nói khác hơn nữa, Tâm chúng ta là Danh ThầyDanh Thầy là Tâm của chúng ta!!! Ngoài ra, không còn một "món" nào khác nữa, thì đó gọi là hội hiệp cùng Thầy!!! Lý thuyết thì như vậy. Còn việc thực hành cụ thể thì thế nào??? Quí Cao hữu cứ cho Tâm mình Niệm Danh Thầy liên tục, mãi mãi, không hở cũng không rời, niệm cho đến lúc Quí bạn không còn biết, không còn phân biệt đâu là Tâm, đâu là Danh Thầy nữa thì đó gọi là đạt đến chỗ "Vô biệt Niệm"!!! Đạt đến chỗ vô biệt niệm thì gọi là được hội hiệp cùng Thầy, hay nói khác hơn là: Lúc đó chúng ta đang ở Cực Lạc Quốc!!!

* Niệm Danh Thầy với Đức tin

Niệm Danh Thầy đến độ "Vô biệt Niệm" thì rất khó (không có nghĩa là chẳng làm được). Tuy nhiên, chúng ta có thể Niệm Danh Thầy với Đức tin. Đức tin đây phải là loại KÍNH NGƯỠNG mới được. Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa: Phải là KÍNH NGƯỠNG mới được!!!

Chân thành kính ngưỡng Danh Thầy, kính ngưỡng Đại Từ Phụ, kính ngưỡng Đức Thượng Đế, kính ngưỡng Đấng Hóa Công!!!

Thực hành: Mỗi lần Niệm Danh Thầy là mỗi lần tin tưởng tuyệt đối (gọi là Khẩu tụng Tâm hành), là chúng ta được: an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!! Phải tin tưởng tuyệt đối được như vậy và chắc chắn phải được như vậy, có thể mấy lần đầu, chúng ta chưa được như vậy vì Đức tin của chúng ta còn mỏng, còn yếu!!! Cho nên chúng ta phải tập Niệm nhiều lần với đức tin tuyệt đối, có nghĩa là chúng ta phải luyện đức tin y như Tôn Ngộ Không luyện Phép Cân Đẩu Vân vậy!!!

Quí Cao hữu!

Khi chúng ta Niệm Danh Thầy đủ "Dose" rồi thì lúc đó Danh Thầy đã trở thành Cực Lạc Quốc, mặc sức chúng ta vào trong đó mà hưởng an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!!

Cứ mỗi lần Niệm Danh Thầy là mỗi lần chúng ta được an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!! (Do Đức tin đã được đầy đủ). Hay nói rõ hơn nữa là chúng ta được hội hiệp cùng Thầy ngay lúc còn sanh tiền!!!

Kết luận:

Cầu Siêu lúc sanh tiền!

Đừng đợi chết rồi khiêng!

Lúc đó siêu sao kịp!

Vẫn phải xuống Cửu Tuyền!!!

CON HẠC

Thánh Ngôn:

Bát Nhã khuyên con trở mái chèo!

Gìn lòng thương lấy chúng sanh eo!!!

\

Quí Cao hữu!

Qua khỏi Trí Huệ Cung là tới Đoạn Trần Kiều. Ngày xưa Đức Hộ Pháp bảo một vị Tá Lý (thợ đắp vẽ) đắp một con hạc mà cái đầu hạc phải hướng bay về phía Trường Lưu và Thiên Thọ Lộ, đặt con hạc đó trên Đoạn Trần Kiều. Thế mà, vị Tá Lý đó lại đặt con hạc quay đầu trở lại, nghịch chiều với lời dặn của Đức Hộ Pháp!!! Tới chừng đắp con hạc xong, vị Tá Lý mới thấy mình vô tình làm không đúng theo lời dạy của Đức Hộ Pháp nên xin Ngài cho được sửa lại. Nhưng Đức Hộ Pháp không cho và dạy thêm: "Âu đó cũng là Thiên Cơ vậy. Thay vì Phàm nhập Thánh mà bây giờ Thánh phải lâm Phàm"!!!

Quí Cao hữu!!!

Đâu phải vị Tá Lý dám cãi lời của Đức Hộ Pháp mà tại vì Đức Thượng Đế bấm cái Remote của Ngài xạ điển xuống cái Tâm của vị Tá Lý bảo phải đặt con hạc ngược chiều trở lại. Vị Tá Lý đâu có biết mình đang bị cái Remote điều khiển từ xa, mà chỉ tưởng rằng mình làm đúng theo lời dặn của Đức Hộ Pháp!!! Đức Hộ Pháp biết rõ điều này nên không cho sửa lại mà cứ để y như vậy!!!

Quí Cao hữu!

Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta cũng nên hiểu nghĩa một số ngôn từ:

Thánh: Là Thánh Chất, là Trí huệ, là Bát Nhã. Người có Trí huệ Bát Nhã gọi là Thánh Nhân.

Con hạc: Tượng trưng cho người tu đạt được Thánh Chất, đạt được Trí huệ Bát Nhã thì gọi là Phàm Lâm Thánh!!!

Thánh Lâm Phàm: Đáng lẽ ra thì một người tu đạt được Thánh Chất Trí huệ là họ đoạn trần luôn mà "bay" về hướng Trường Lưu Thiên Thọ Lộ mà sống thọ bằng Trời Đất vậy (Thiên Thọ Lộ = Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống). Nhưng Đại Từ Phụ không cho, mà bảo các vị Thánh Nhân này, phải quay đầu trở lại Cõi Trần để tiếp tay Đại Từ Phụ cứu vớt chúng sanh, đó gọi là Thánh Lâm Phàm!!!

Bát Nhã khuyên con trở mái chèo!

Gìn lòng thương lấy chúng sanh EO!!!

TỘI BẤT HIẾU

Lời Đức Khổng Từ:

Bất hiếu hữu tam: Vô hậu vi đại!!!

\

Quí Cao hữu!

Ngày xưa có một số người lạm dụng câu nói của Đức Khổng Tử mà giải nghĩa sai lệch theo ý riêng của mình!!! Họ nói rằng: Tội bất hiếu có 3 loại mà tội không có con trai nối dõi Tông đường là tội đứng đầu!!! Sở dĩ họ giảng như vậy là để có cái cớ lấy thêm vợ bé, lấy thêm hầu thiếp!!! Hiện giờ cũng có một số người giảng y như vậy nhưng không biết có lạm dụng để cưới thêm vợ nhỏ hay không?

Quí Cao hữu!

Bây giờ chúng ta phải hiểu làm sao đây? Hay là cũng phải giảng y như cũ, không mới mẽ gì hết???

Quí Cao hữu!

Trước khi đổ rượu mới vào bình cũ, Quí bạn hãy đọc lại kỹ bài "Pháp luân thường chuyển". Bây giờ chúng ta phân tích thêm ý nghĩa một số ngôn từ.

* Hiếu: Theo nghĩa hạn hẹp thì hiếu là hiếu thảo với cha mẹ, ông bà!!! Nhưng theo nghĩa rộng thì Hiếu là sự thương yêu vạn loài, thương yêu hết thảy chúng sanh!!! Thí dụ: Hiếu khách là thương yêu kính trọng khách!!! Hiếu với dân là thương yêu kính trọng dân!!!

* Vô hậu: Thí dụ chúng ta tu đạt được Chánh Pháp rồi đoạn trần luôn mà về Thiên Thọ Lộ, không chịu tìm người thừa kế để hoằng dương Chánh Pháp, đó gọi là Vô hậu!!! Tu đạt được Chánh Pháp mà không chịu "trở mái chèo" (tức là vô hậu) để gìn lòng thương lấy chúng sanh eo thì gọi là bất hiếu, là không thương yêu chúng sanh!!!

Đức Thích Ca ngày xưa tu thành Phật rồi, cũng trở lại cõi Trần để hoằng dương Chánh Pháp suốt 49 năm dài!!! Nên Ngài được gọi là Hữu hậu (con người ăn ở có hậu về sau) và Ngài đã tìm được người thừa kế là Maha Ca Diếp nên Ngài cũng được gọi là Đại Hiếu (tức là thương yêu chúng sanh vô lượng).

Khi đã hiểu "vô hậu" vi đại rồi thì Quí Cao hữu, xin hỏi thật nhỏ, có còn tính cưới vợ bé để sinh con nối dõi Tông đường không?

TRỤ NGUYÊN TÁNH

Kinh Phụ Tế:

Trụ nguyên Tánh hồn linh nhàn lạc!

Cõi Đào Nguyên cỡi Hạc thừa Long!

Lánh xa trược chất bụi hồng!

Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung!!!

Phật Mẫu Chơn Kinh:

Trụ căn quỉ khí Cửu tuyền!

Quảng khai Thiên Thượng tạo quyền chí công!!!

Đạo Ngôn:

Thường trụ Ngươn Thần, mọi đường bặt!!!

\

Quí Cao hữu!

Cái Nguyên Tánh, cái Ngươn Thần tức cái Bổn Tánh, cái Phật Tánh thì trừu tượng, vô hình, vô ảnh thì làm sao mà trụ cái Tâm của mình vào đó được??? Hễ trụ vào trong đó thì chúng ta sẽ được nhàn lạc, sẽ được thong dong, và mọi tà niệm dục vọng đều dứt bặt!!! Nói nghe hấp dẫn quá, nhưng làm cách nào trụ vào được cái vô hình đây!!!

Xin Quí Cao hữu đọc lại bài "Nắm Tâm" thì sẽ rõ. Nhưng ở đây chúng tôi cũng xin nhắc lại:

* Làm cho Nguyên Tánh phải hiện nguyên hình

Chúng ta hãy cho Nguyên Tánh hiện nguyên hình thành "Nam mô Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát". Câu Niệm Danh Thầy này đã trở thành là Nguyên Tánh của chúng ta.

Tâm của chúng ta cứ niệm mãi câu Niệm Danh Thầy này thì đó gọi là Tâm trụ vào Nguyên Tánh!!! (Hoặc còn gọi là Tâm thường trụ vào Ngươn Thần). Như vậy là cụ thể rồi phải không Quí bạn!!! Tâm thường trụ vào Nguyên Tánh có nghĩa là Tâm thường Niệm Danh Thầy! Thật là dễ hiểu và dễ làm!!! Nhưng...

Đức tin và ý chí: Tâm vừa niệm Danh Thầy vừa tin tưởng mãnh liệt là chúng ta được "An lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!!". Phải hạ quyết tâm, phải kiên trì (ý chí) Niệm Danh Thầy cho đến lúc phải đạt được "An lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!!" Cứ mỗi lần Niệm Danh Thầy là mỗi lần chúng ta được an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!! Thế là chúng ta đã được hội hiệp cùng Thầy, hay nói cách khác là chúng ta đã hiệp nhứt được với Phật Tánh, với Nguyên Tánh rồi vậy!!!

Đức tin là trên hết nhưng phải kèm theo ý chí nữa mới được!!! Đức tin hiệp với ý chí thành Bộ Lôi Công!!! Có được Bộ Lôi Công thì làm gì cũng thành, kể cả trên đường Đạo lẫn đường Đời!!!

"Trừ Quái khí roi thần chớp nhoáng!

Bộ lôi công giải tán trược oan!!!" (Kính Tứ Cửu)

Ý kiến bạn đọc (0)

Ảnh Đẹp

Có Sắc Không Hương

Một ngày kia, nữ hoàng Shaba gởi đến vua Solomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu.Đó...