
Có lẽ không đâu tồn tại nhiều hình thức, nhiều pháp môn, nhiều kinh luận (mà phần giáo lý có khi thấy đối nhau) như ở Phật giáo. Thật ra, chỉ yếu trong giáo của Phật không có hai, huống là quá nhiều. Không nghe Lâm Tế nói: “Té ra Phật pháp của Hoàng Bá không nhiều” ư?
Xuất hiện nhiều thứ như thế là vì chúng sinh. Cũng vì có chúng sinh mà có giáo pháp. Vì căn khí chúng sinh không đồng nên kinh luận thành vô số, pháp môn thành vô lượng.
Như hiện nay ở thế gian, người không bệnh thì không thuốc để dùng. Chỉ do bệnh nhiều, lại không đồng một bệnh nên thuốc thành vô số. Ung thư, da liễu, đau đầu, đau khớp, đau bụng... Chỉ một loại đau đã có vô vàn các bệnh. Một món đau đầu, cũng không phải chỉ cảm mạo mới đau đầu, thiếu máu cũng đau đầu, lên tăng xông cũng đau đầu. Đau đầu vì cảm mạo, không thể dùng chung thuốc với đau đầu vì thiếu máu. Vô lượng loại bệnh nên có vô lượng loại thuốc để trị. Song nhiều thế nào, cũng chỉ với mục đích là giúp con người được khỏe mạnh.
Phật pháp cũng như vậy. Bệnh chúng sinh đa dạng nên giáo lý và pháp môn thành vô lượng, song chủ yếu đều là giúp người “hết khổ, được cái lạc rốt ráo”.
Kinh Pháp Hoa nói: “Từ lúc ta thành Phật đến nay, mọi thứ nhân duyên, mọi thứ thí dụ, diễn rộng ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dẫn đạo chúng sinh, khiến lìa chấp trước”.
Có mọi thứ nhân duyên, mọi thứ thí dụ, vô số phương tiện, diễn rộng ngôn giáo là vì căn cơ chúng sinh không đồng, bệnh tật chúng sinh sai khác. Song nhiều bao nhiêu thì mục đích cũng là “khiến lìa chấp trước”. Bởi do “trước” mà Bồ-tát, A-la-hán và Bích Chi Phật trụ ở hóa thành, chẳng được bảo sở, vẫn chịu cái khổ vi tế của Biến dịch tử. Do chấp mà chúng sinh lìa “chỗ vô trụ” trụ trong lục đạo, khổ não triền miên với tấm thân phần đoạn, trí tuệ đức tướng Như Lai sẵn đó mà không dụng được.
“Hết khổ” thì có nhiều cấp độ, nhưng “được cái lạc rốt ráo” thì chỉ khi sống được với Phật tri kiến của mình mới có được cái lạc đó. Chính là một đại sự nhân duyên mà chư Phật xuất hiện ở đời. Kinh nói: “Chư Phật vì muốn chúng sinh khai Phật tri kiến để được thanh tịnh mà hiện ở đời.".
Nói theo kinh Đại bát Niết-bàn là giúp chúng sinh khai - thị - ngộ - nhập lại Phật tánh của mình, theo luận Đại thừa khởi tín là khai - thị - ngộ - nhập lại tâm Chân như. Song muốn ngộ nhập lại Phật tri kiến, tức trở về tâm vô trụ của mình, thì phải lìa tâm trụ trước, nên nói: “khiến lìa chấp trước”. Ngộ nhập Phật tri kiến và lìa chấp trước có mối liên quan mật thiết như vậy.
Muốn chúng sinh lìa chấp thì Phật Tổ phải có cách phá chấp. Phá chấp có nhiều cách. Dùng giáo lý giải thích giúp người thông hiểu, từ đó chịu dụng pháp để lìa chấp trước. Dùng các phương thức đánh, hét…, như chư vị Tổ sư ngày xưa, giúp người khai ngộ.
Trên nền tảng đó mà giáo lý Ngũ thừa và các pháp môn được thành lập.
Tùy duyên mà phá chấp – tùy chấp mà có pháp
Chấp, là nắm giữ. Trước, là dính mắc. Do nắm giữ và dính mắc mà có khổ đau. Muốn không khổ đau thì chấp phải phá, trước phải không. Cho nên, nói đến phá chấp thì phải có người chấp (năng chấp) và pháp đang chấp (sở chấp), tức phải có năng chấp sở chấp, mới nói đến phá chấp. Không chấp thì không phá. Như Phật giáo dạy người tu phải giữ giới cùng nhẫn nhục nhưng Tuệ Trung thượng sĩ lại dạy Trần Nhân Tông:
“Giữ giới cùng nhẫn nhục
Chiêu tội chẳng chiêu phước
Muốn biết không tội phước
Không giữ giới nhẫn nhục”
rồi dặn: “Chớ nói cho người không ra gì biết”.
Người không ra gì là người còn tham sân si, vẫn cần lấy giữ giới và nhẫn nhục làm pháp đối trị. Nhân Tông không còn phạm giới cũng không thiếu nhẫn nhục, tức không rơi vào chấp ấy, nên không dùng giữ giới và nhẫn nhục để phá. Không phạm cũng không thiếu mà trì giữ thì thành trụ trước, không thể trở lại bản tâm vô trụ. Cho nên, Tuệ Trung dùng “không giữ giới cùng nhẫn nhục” phá giữ giới cùng nhẫn nhục. Dụng pháp, tuy thấy nghịch với văn tự của kinh luận mà thật là đang tuân thủ tinh thần phá chấp mà kinh luận đã nói, giúp người lìa chấp. Chấp gì phá nấy. Phá đến khi nào hết chấp mới thôi.
Thành không phải mình học pháp này thì người kia cũng phải học pháp này. Mình không học pháp kia thì người kia cũng không được học pháp kia. Hiểu được mặt tùy duyên của pháp thì hiểu vì sao như vậy. Phải tùy duyên mà dụng pháp. Không đồng bệnh thì pháp dụng không đồng. Không đồng cơ thì pháp dụng sẽ khác. Vì thế, kinh có đến mấy ngàn bộ, luận và lục thì vô số, còn pháp môn có đến tám vạn bốn ngàn.
Chân Hiền Tâm