Quán Thế Âm - Avalokiteśvara.
Tại VN, có hai tín ngưỡng mang đậm nữ tính, được tôn thờ cùng khắp, đó là Bồ Tát Quán Thế Âm và Đức Mẹ Maria. Tôn tượng của hai vị được xây dựng khắp nơi từ Bắc vào Nam.
Nếu nhìn từ xa, thực khó phân biệt ai là Phật Bà, ai là Đức Mẹ, vì cả hai đều có chiều cao tương tự, cùng mặc y phục trắng và cùng có hào quang. Nhưng khi tới gần, thì một là người Âu Mỹ, và một là người Á Đông. Xin mở dấu ngoặc ở đây, dù Jésus và Maria đều là người Do Thái, cũng không phải là Do Thái của thời cận đại đã bị Âu hóa rất nhiều, tuy nhiên văn hóa Kitô giáo được Đế Quốc La Mã nâng cấp thành quốc giáo và thống trị Âu châu từ thế kỷ thứ 4 cho đến nay, nên đừng nói là ngoại đạo, dù là con chiên theo chúa cũng có người tưởng Jésus và Maria là người Âu Mỹ theo kiểu một bộ phận người Trung Quốc cả đời thờ lạy Phật A Di Đà mà chưa từng biết Phật Thích Ca.
Bồ Tát Quán Âm luôn có trong tay một bình cam lộ và tay kia cầm nhành dương liễu, hoặc nếu ngồi thì kiết già như Đức Phật. Dù đứng hay ngồi, Phật Bà đều ngự trên tòa sen, thỉnh thoảng ngài ngự trên đầu rồng nếu ngài đi ngoài biển, hoặc rất hiếm khi ngài ngồi trên mình con cá đầu rồng một sừng mà người dân Đà Nẵng đào được và hiến cúng cho chùa Quan Âm, trở thành quốc bảo của VN. Còn Đức Mẹ thì hoặc chắp tay, hoặc giơ hai tay ra như đang chào đón để ôm các con vào lòng, hoặc mang vòng chuỗi Mân Côi rất dài, như tượng Đức Mẹ Măng Đen. Ngài thường hiện ra trên mây, trên tường, trên cửa hoặc trong mộng. Đặc biệt ngài thích hiện ra và nói chuyện với các trẻ em mục đồng ít học ở các vùng hoang vu hẻo lánh.
Bồ Tát Quán Âm không có trong các quốc gia theo Phật giáo Nam Tông như Thái Lan, Myanmar, Lào, Campuchia hay Sri Lanka.
Ở Ấn Độ, ngài có tên là Avalokiteśvara được tạo nên từ chữ Īśvara, nghĩa là ''chúa tể'' kèm với chữ avalokita, quá khứ phân từ của động từ avalok ''quán sát'' (lok) ''phía bên dưới'' (ava). Nếu dịch đúng chữ đúng nghĩa, phải dịch là Vị Chúa Tể Từ Trên Cao Nhìn Xuống. Ngài không phải nam, cũng chẳng phải nữ, dĩ nhiên cũng chẳng phải travestie hay ''lại cái'' nếu có ai muốn đi xa thêm để châm biếm, vì với đạo Phật, nam hay nữ chỉ là biểu hiện do nghiệp báo quyết định, mà Phật và Bồ Tát vượt xa trên nghiệp báo, nên không cần chịu giới hạn trong giới tính nam nữ như phàm nhân.
Khi được dịch sang Trung văn, Avalokiteshvara biến thành Quán Thế Âm, có nghĩa là quán chiếu, xem xét, lắng nghe. Có lời đồn rằng người TQ do kỵ tên húy của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, nên đã gọi Quán Thế Âm thành Quán Âm.
Trong ý nghĩa thông thường thì Phật Bà là người luôn lắng nghe tiếng đau khổ của thế gian để cứu vớt, nên người ta cũng gọi Ngài là Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Từ là ban vui, và Bi là cứu khổ, nên không những ngài cứu khổ, ngài còn ban vui, và vì trong ý nghĩa Bố Thí Ba La Mật của đạo Phật có ba loại Bố Thí gồm Tài thí, Pháp Thí và Vô Úy Thí, nên Quán Âm Bồ Tát lại ban luôn cả Vô Úy, nghĩa là làm cho tự tin, làm cho hết sợ hãi khi gặp nguy biến hoặc ngay cả khi đứng trước cái chết. Ai thường thất bại vì thiếu tự tin trong cuộc đời sẽ thấy rằng sự tự tin, lòng vững chãi kiên định, đôi khi còn đáng quý hơn cả kiến thức và tiền bạc.
Bồ Tát Quán Âm cũng có tên là Quán Tự Tại, điều này gia cố thêm cho hạnh Vô Úy Thí của ngài, vì Quán Tự Tại chính là quán bản chất của các pháp, nhất là ngũ uẩn, đều không có tự tánh, đều là giả hợp, là không thực, thì lập tức mọi sợ hãi, mọi bất an, sẽ được thay thế bằng tâm hiện tiền Tự Tại, những âu lo sẽ như sương tan biến khi bị ánh mặt trời soi chiếu.
Ngoài hai danh hiệu trên, có khi ngài còn được gọi là Bạch Y Đại Sĩ. Tương truyền Bồ Đề Đạt Ma qua Đông Độ truyền y bát là một hoá thân của Bạch Y Đại Sĩ.
Quán Thế Âm, nói gọn lại là Quán Âm, là soi xét tiếng nói, cả trong lẫn ngoài; là lắng nghe, và lắng nghe luôn cả tiếng vô âm.
Với chỉ hạnh lắng nghe vào bên trong thôi, con người có thể làm dịu tất cả những nỗi đau của chính mình, và khi mình được bao trùm bởi một bầu không gian tươi mát, buông bỏ, từ ái với chính mình – giật mình mình lại thương mình xót xa - thì năng lượng ấy lan tỏa và làm dịu mát những ai có mặt chung quanh, dù là một con chim, một cành cây, hay một cái kiến. Chỉ khi con người biết lắng nghe bên trong, mới có khả năng quy chiếu ra bên ngoài để lắng nghe vũ trụ. Chỉ khi con người biết lắng nghe, trong trạng thái quán chiếu thâm sâu vào các pháp, thì có thể nghe luôn cả tiếng của vô thanh.
Từ Bi của đạo Phật không chỉ thuần túy giữa loài nguời với loài người. Từ Bi của đạo Phật không chỉ lan rộng ra với tất cả chúng sanh hữu tình.
Từ Bi của đạo Phật còn sâu xa bao trùm cả vạn pháp, nếu đi sâu vào Pháp Giới Trùng Trùng Duyên Khởi của Hoa Nghiêm, Từ Bi ấy trở thành nhứt tức nhứt thiết, nhứt thiết tức nhứt, do từ bi ấy mà, một vũng nước bị ô nhiễm là một phần thân và tâm của ta cũng bị ô nhiễm, một người nghèo khổ bệnh hoạn không có tiền thuốc men là chính thân tâm của ta đang nghèo đói bệnh hoạn.
Ngày nay, trong sự phát triển ngày càng cao, Âu châu đã vô tình bắt nhịp được với pháp giới của Hoa Nghiêm, các phong trào môi sinh ở đây đã đưa con người vào trung tâm điểm của những yêu cầu chính trị và xã hội xích lại rất gần với tầm nhìn Một Là Tất Cả Và Tất Cả Là Một.
Các đảng phái Ecologist đã chứng nghiệm được con người và thiên nhiên là hai thực thể tương tức và nương tựa vào nhau không thể tách rời, cái này khỏe mạnh thì cái kia mới có thể bình ổn, con người sạch thì ao hồ sông biển mới sạch, cả hai cần bảo vệ cho nhau, cả hai cần ''từ bi'' với nhau để hai bên được sống trong hạnh phúc yên bình. Tàn nhẫn với môi trường chẳng khác nào leo lên cây rồi ngồi cưa chính cành cây mình đang ngồi.
Nhưng bất hạnh thay con người ích kỷ đã làm hư hỏng tầng Ozone (O3) che chở cho trái đất, con người đã xẻ núi, lấp sông, phá rừng, thải vào thiên nhiên những thứ rác rưởi được chính sự tham lam và ích kỷ của con người sản xuất. Trái đất bị loài người bạo hành đánh đập như tên chồng vũ phu đánh đập không thương xót vợ mình; trái đất đã bị thương tích, những vết thương trí mạng đã bắt đầu hành hạ; trái đất lồng lên với những cơn đau, rên rỉ qua các trận bão kinh hoàng, khóc lóc qua các trận lụt. Đó là kết quả của sự thiếu tâm Từ Bi khi loài người cư xử với vũ trụ, thiên nhiên.