Tại VN, có hai tín ngưỡng mang đậm nữ tính, được tôn thờ cùng khắp, đó là Bồ Tát Quán Thế Âm và Đức Mẹ Maria. Tôn tượng của hai vị được xây dựng khắp nơi từ Bắc vào Nam.
Nếu nhìn từ xa, thực khó phân biệt ai là Phật Bà, ai là Đức Mẹ, vì cả hai đều có chiều cao tương tự, cùng mặc y phục trắng và cùng có hào quang. Nhưng khi tới gần, thì một là người Âu Mỹ, và một là người Á Đông. Xin mở dấu ngoặc ở đây, dù Jésus và Maria đều là người Do Thái, cũng không phải là Do Thái của thời cận đại đã bị Âu hóa rất nhiều, tuy nhiên văn hóa Kitô giáo được Đế Quốc La Mã nâng cấp thành quốc giáo và thống trị Âu châu từ thế kỷ thứ 4 cho đến nay, nên đừng nói là ngoại đạo, dù là con chiên theo chúa cũng có người tưởng Jésus và Maria là người Âu Mỹ theo kiểu người Trung Quốc cả đời thờ lạy Phật A Di Đà mà chưa từng biết Phật Thích Ca.
Bồ Tát Quán Âm luôn có trong tay một bình cam lộ và tay kia cầm nhành dương liễu, hoặc nếu ngồi thì kiết già như Đức Phật. Dù đứng hay ngồi, Phật Bà đều ngự trên tòa sen, thỉnh thoảng ngài ngự trên đầu rồng nếu ngài đi ngoài biển, hoặc rất hiếm khi ngài ngồi trên mình con cá đầu rồng một sừng mà người dân Đà Nẵng đào được và hiến cúng cho chùa Quan Âm, trở thành quốc bảo của VN. Còn Đức Mẹ thì hoặc chắp tay, hoặc giơ hai tay ra như đang chào đón để ôm các con vào lòng, hoặc mang vòng chuỗi Mân Côi rất dài, như tượng Đức Mẹ Măng Đen. Ngài thường hiện ra trên mây, trên tường, trên cửa hoặc trong mộng. Đặc biệt ngài thích hiện ra và nói chuyện với các trẻ em mục đồng ít học ở các vùng hoang vu hẻo lánh.
Bồ Tát Quán Âm không có trong các quốc gia theo Phật giáo Nam Tông như Thái Lan, Myanmar, Lào, Campuchia hay Sri Lanka.
Ở Ấn Độ, ngài có tên là Avalokiteśvara được tạo nên từ chữ Īśvara, nghĩa là ''chúa tể'' kèm với chữ avalokita, quá khứ phân từ của động từ avalok ''quán sát'' (lok) ''phía bên dưới'' (ava). Nếu dịch đúng chữ đúng nghĩa, phải dịch là Vị Chúa Tể Từ Trên Cao Nhìn Xuống. Ngài không phải nam, cũng chẳng phải nữ, dĩ nhiên cũng chẳng phải travestie hay ''lại cái'' nếu có ai muốn đi xa thêm để châm biếm, vì với đạo Phật, nam hay nữ chỉ là biểu hiện do nghiệp báo quyết định, mà Phật và Bồ Tát vượt xa trên nghiệp báo, nên không cần chịu giới hạn trong giới tính nam nữ như phàm nhân.
Khi được dịch sang Trung văn, Avalokiteshvara biến thành Quán Thế Âm, có nghĩa là quán chiếu, xem xét, lắng nghe. Có lời đồn rằng người TQ do kỵ tên húy của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, nên đã gọi Quán Thế Âm thành Quán Âm.
Trong ý nghĩa thông thường thì Phật Bà là người luôn lắng nghe tiếng đau khổ của thế gian để cứu vớt, nên người ta cũng gọi Ngài là Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Từ là ban vui, và Bi là cứu khổ, nên không những ngài cứu khổ, ngài còn ban vui, và vì trong ý nghĩa Bố Thí Ba La Mật của đạo Phật có ba loại Bố Thí gồm Tài thí, Pháp Thí và Vô Úy Thí, nên Quán Âm Bồ Tát lại ban luôn cả Vô Úy, nghĩa là làm cho tự tin, làm cho hết sợ hãi khi gặp nguy biến hoặc ngay cả khi đứng trước cái chết. Ai thường thất bại vì thiếu tự tin trong cuộc đời sẽ thấy rằng sự tự tin, lòng vững chãi kiên định, đôi khi còn đáng quý hơn cả kiến thức và tiền bạc.
Bồ Tát Quán Âm cũng có tên là Quán Tự Tại, điều này gia cố thêm cho hạnh Vô Úy Thí của ngài, vì Quán Tự Tại chính là quán bản chất của các pháp, nhất là ngũ uẩn, đều không có tự tánh, đều là giả hợp, là không thực, thì lập tức mọi sợ hãi, mọi bất an, sẽ được thay thế bằng tâm hiện tiền Tự Tại, những âu lo sẽ như sương tan biến khi bị ánh mặt trời soi chiếu.
Ngoài hai danh hiệu trên, có khi ngài còn được gọi là Bạch Y Đại Sĩ. Tương truyền Bồ Đề Đạt Ma qua Đông Độ truyền y bát là một hoá thân của Bạch Y Đại Sĩ.
Quán Thế Âm, nói gọn lại là Quán Âm, là soi xét tiếng nói, cả trong lẫn ngoài; là lắng nghe, và lắng nghe luôn cả tiếng vô âm.
Với chỉ hạnh lắng nghe vào bên trong thôi, con người có thể làm dịu tất cả những nỗi đau của chính mình, và khi mình được bao trùm bởi một bầu không gian tươi mát, buông bỏ, từ ái với chính mình – giật mình mình lại thương mình xót xa - thì năng lượng ấy lan tỏa và làm dịu mát những ai có mặt chung quanh, dù là một con chim, một cành cây, hay một cái kiến. Chỉ khi con người biết lắng nghe bên trong, mới có khả năng quy chiếu ra bên ngoài để lắng nghe vũ trụ. Chỉ khi con người biết lắng nghe, trong trạng thái quán chiếu thâm sâu vào các pháp, thì có thể nghe luôn cả tiếng của vô thanh.
Từ Bi của đạo Phật không chỉ thuần túy giữa loài nguời với loài người. Từ Bi của đạo Phật không chỉ lan rộng ra với tất cả chúng sanh hữu tình.
Từ Bi của đạo Phật còn sâu xa bao trùm cả vạn pháp, nếu đi sâu vào Pháp Giới Trùng Trùng Duyên Khởi của Hoa Nghiêm, Từ Bi ấy trở thành nhứt tức nhứt thiết, nhứt thiết tức nhứt, do từ bi ấy mà, một vũng nước bị ô nhiễm là một phần thân và tâm của ta cũng bị ô nhiễm, một người nghèo khổ bệnh hoạn không có tiền thuốc men là chính thân tâm của ta đang nghèo đói bệnh hoạn.
Ngày nay, trong sự phát triển ngày càng cao, Âu châu đã vô tình bắt nhịp được với pháp giới của Hoa Nghiêm, các phong trào môi sinh ở đây đã đưa con người vào trung tâm điểm của những yêu cầu chính trị và xã hội xích lại rất gần với tầm nhìn Một Là Tất Cả Và Tất Cả Là Một. Các đảng phái Ecologist đã chứng nghiệm được con người và thiên nhiên là hai thực thể tương tức và nương tựa vào nhau không thể tách rời, cái này khỏe mạnh thì cái kia mới có thể bình ổn, con người sạch thì ao hồ sông biển mới sạch, cả hai cần bảo vệ cho nhau, cả hai cần ''từ bi'' với nhau để hai bên được sống trong hạnh phúc yên bình. Tàn nhẫn với môi trường chẳng khác nào leo lên cây rồi ngồi cưa chính cành cây mình đang ngồi. Nhưng bất hạnh thay con người ích kỷ đã làm hư hỏng tầng Ozone (O3) che chở cho trái đất, con người đã xẻ núi, lấp sông, phá rừng, thải vào thiên nhiên những thứ rác rưởi được chính sự tham lam và ích kỷ của con người sản xuất. Trái đất bị loài người bạo hành đánh đập như tên chồng vũ phu đánh đập không thương xót vợ mình; trái đất đã bị thương tích, những vết thương trí mạng đã bắt đầu hành hạ; trái đất lồng lên với những cơn đau, rên rỉ qua các trận bão kinh hoàng, khóc lóc qua các trận lụt. Đó là kết quả của sự thiếu tâm Từ Bi khi loài người cư xử với vũ trụ, thiên nhiên.
Các phong trào Ecologist Âu châu đã thiết kế một cuộc hòa âm nhịp nhàng giữa con người và vũ trụ thiên nhiên, giữa con người với con người, họ chống lại bất kỳ phương tiện văn minh kỹ thuật nào làm ô nhiễm môi sinh, như việc sử dụng điện hạt nhân, như sự đốt than mỏ hay than củi; họ chống chiến tranh, bất kỳ dưới hình thức nào; họ chống bất công xã hội, bất kể màu da hay chủng tộc; họ chống thống trị và thực dân, dù là thực dân văn hóa hay thực dân tôn giáo. Đối với phong trào tôn trọng môi sinh thì thống trị, áp đặc, phân biệt giai cấp, phân biệt truyền thống văn hóa đều đồng nghĩa với phi nhân bản, làm hại cho sự sống, làm thương tổn đến hài hòa của thế giới.
Từ Bi của đạo Phật đặt căn bản trên vô ngã, nên Từ Bi cũng có nghĩa là không ai cho, chẳng ai nhận; vô nhân tướng, vô ngã tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng; tựa như trái tim bơm máu cho phổi, phổi đưa oxy vào máu, máu chuyền oxy cho não bộ, não bộ đưa cảm giác tới toàn thân và ngược lại...cũng may các cơ quan chức năng trong cơ thể ta đối đãi hoàn toàn ''Ba La Mật'' với nhau như các vị Bồ Tát, nên chẳng ai giành giật, chẳng cơ quan nào có tư tâm chiếm dụng hết các dưỡng chất cho riêng mình, chẳng cơ quan nào cành nanh với cơ quan nào, mọi cơ quan đều thương yêu các tế bào bình đẳng như yêu thương chính mình, một chỗ đau là cả cơ thể đều đau, mình hết lòng vì mọi người, và mọi người hết lòng vì mình. Chỉ cần một trong những cơ quan trong cơ thể con người tích tụ các dưỡng chất nhiều hơn số lượng cần thiết, thì cơ quan ấy dần dần sẽ gây nghiệp bệnh, tựa như trong máu có nhiều chất béo hay đường, gan có nhiều mỡ v.v..
Hiểu được như vậy thì Quán Âm có nghĩa là quán sát, soi xét, lắng nghe, và hiện diện ngay lập tức nơi nào có buồn đau, có khổ nạn, mà ngay cả hai chữ từ bi cũng trở nên thừa thãi, vì có bao giờ mặt trời ban cho trái đất sự sống bởi vì nó từ bi đầy lòng thương xót với nhân loại?
Từ Bi khiến người và vũ trụ từ chỗ thu hẹp, ngượng nhập, nghi ngờ, đi đến chỗ thấu hiểu, thân cận, tin tưởng, từ đó, hai bên, ngoài và trong, không còn cánh cửa nào ngăn chận.
Con người Từ Bi và vũ trụ Vô Ngã tựa như hai nhánh sông hòa quyện trước khi cùng biến mất vào lòng đại dương Bất Nhị.
Từ Bi là giao lưu mà không hề gạt gẫm, giao cảm mà không có biên giới kẻ cho người nhận, mở toang ra cánh cửa ngăn cách, cánh cửa đó là Phổ Môn trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhà thiền gọi là Vô Môn Quan, nghĩa là khi năm uẩn che lấp, không thấy lối vào; nhưng khi năm uẩn được tháo gỡ thì cũng chả có cửa nào cần mở ra, ở đây, theo thuật ngữ của Phật giáo, là các căn viên thông, sự sự vô ngại. Tại VN, đại bi tâm của Quán Âm Bồ Tát đã hòa quyện vào lòng dân tộc, nghiễm nhiên làm MẸ VIỆT NAM, được Phạm Duy nhắc đến trong Trường Ca Mẹ Việt Nam.
Cũng tại VN, nếu có người đưa được tâm ý của Quán Thế Âm Bồ Tát đi vào các tầng lớp xã hội, người đó không phải các hoà thượng, thượng tọa, mặc dù các ngài là bậc y chỉ sư, mà lại là một nhà thơ, nhà thơ đó tên là Phạm Thiên Thư, và kẻ mật ngộ được thâm ý tiếp hiện, đi vào đời của hạnh Quán Âm, chính là dòng nhạc Phạm Duy qua bài hát Quán Thế Âm mà ngay cả Khánh Ly, một con chiên ngoan đạo, cũng không ngần ngại hát.
Quan Thế Âm là người mẹ luôn khát khao tìm con, tìm đến mù lòa đôi mắt, tìm đến dại khờ, lang thang trên đồi hoa trắng, bên bờ sông lan tím...
...Thế rồi, một hôm Mẹ chết, hơi Mẹ trong trời chưa hết Ôm cả trần gian đầy vơi, nhân loại đeo tang người Tim Mẹ thành ra trùng dương, máu Mẹ thành sông thành nước Ôi đời trầm luân, Mẹ thương, chiếu ánh sáng từ quang....
Quán Âm hiện thân thành sông thành nước, thành lau thành lách, thành biển khơi, thành mây trời, thành những thiên hà rất xa hay những hạt bụi rất gần, để rồi, chỉ đơn giản thành mẹ chung cho muôn loài.
...Bây giờ Mẹ đã thành mơ, hơi Mẹ hoá thành hơi gió Bốn mùa ngồi nghe mọi nơi, tiếng Mẹ ru bồi hồi Xưa là Mẹ đi tìm con, tiếng Mẹ ru buồn khắp chốn Bây giờ hiện thân Mẹ chung, tiếng Mẹ hát ru dịu dàng …
Bài hát chỉ có cái tựa đề mang âm hưởng tôn giáo, ngoài ra, nội dung không hề nói đến hai chữ Quan Âm hay đá động gì đến đạo Phật, không nói những việc phi thường như vào lửa lửa tắt, vào núi đao núi đao thành giấy, mà chỉ đơn thuần hát về tình mẹ dành cho con, không ngằn mé, không biết có mình (mù lòa đôi mắt), bao la như đại dương, sông núi, để rồi cuối cùng mẹ chết, biến thành đất trời vũ trụ, chỉ vì thương con.
Nhưng tôi tin rằng, không có phép màu nào hay phép lạ nào huyền diệu và ngọt ngào hơn việc mẹ ôm con vào lòng. Chỉ cần mẹ ôm con vào lòng, rất nhẹ, và ru con ngủ trong vòng tay ấm áp để con ngửi được mùi thơm không gì thơm bằng mẹ, đó là phép lạ trên hết mọi phép lạ giữa đất trời bao la này – Vũ trụ, mẹ chính là vũ trụ, ôm con người vào lòng, chân tướng của Tỳ Lô Hoa Tạng Giới – Cảnh giới Trùng Trùng Duyên Khởi của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na trong kinh Hoa Nghiêm, tựa như các chùm amas và grand amas của các thiên hà - xuất hiện một cách vô thanh vô ảnh, và thực tại này, phép lạ này, có thực, không phải những lời hứa suông, trống rỗng, chỉ sau khi chết mới có.
Năm 2001, khi mà cả thế giới đều sôi sục lên án Bin Laden về việc đã đánh sập tòa tháp đôi ở New York, biểu tượng của thị trường chứng khoán thế giới, thiền sư Nhất Hạnh đã chỉ một mình đưa ra ý kiến rằng phải lắng nghe ông Bin Laden. Phản ứng của cả thế giới gần như ai ai cũng xem ngài là đồng lõa của Bin Laden, họ thiếu điều muốn ăn tươi nuốt sống ngài, ngay cả Phật tử ở Mỹ cũng không ngoại lệ.
Nếu nhân loại chịu lắng nghe Bin Laden, chịu suy nghĩ giúp những dân tộc Hồi giáo, và người dân Hồi giáo cũng thực tập hạnh lắng nghe, thì có lẽ không có vụ 11/09 và con người sống ở vùng Trung Đông không phải kéo nhau hằng triệu bỏ nước ra đi, chết chóc không diễn ra hằng ngày, bom đạn không cày xới loang lỗ trái đất, IS không có lý do để ra đời, quân đội của các cường quốc không cần có mặt, hằng tỉ đô la thay vì cung ứng vào vũ khí chiến tranh, có thể xây dựng các vùng đất lành chim đậu tại chỗ, nuôi sống hằng triệu người dân nghèo đói và họ không cần phải lìa bỏ quê hương. Một ngạc nhiên cho tôi là, khi người Hồi giáo vượt biển Địa Trung Hải tìm bình an và tự do ở Âu châu, người cựu thuyền nhân VN chưa hề lên tiếng ủng hộ hay kêu gọi giúp đỡ, mà còn như khinh bỉ chỉ vì người Ả Rập khác biệt với chúng ta về chủng tộc, văn hóa và tôn giáo.
Đừng nghĩ rằng đây chỉ là lý thuyết, không tưởng.
Thực ra, hạnh lắng nghe, trong giới hạn tục đế, không khó tu, mà chỉ đơn giản là chẳng ai muốn thực hành nó.
Vĩ nhân hay những người thành đạt là những người biết lắng nghe.
Lắng nghe hay quán sát âm thanh, cũng mang ý nghĩa lắng tâm, dồn mọi chú ý hoặc tập trung sự quan sát vào một chủ đề, họp nhất chủ khách thành vô biên giới, phi chủ khách. Người hướng vào bên trong cơ thể thường hành nghề y, khám ra những quy tắc cơ bản của bệnh lí như Karl Landsteiner (tìm ra các nhóm máu), Thomas Hunt Morgan (tìm ra sự di truyền nhiễm sắc thể), Selman Waksman (tìm ra streptomycine chống lao), Alexander Fleming (tìm ra Pénicilline). Người hướng ra bên ngoài thường tìm ra những quy luật và sự vận hành của vật lí vũ trụ, là căn bản cho các nhà khoa học như Archimède, Pythagore, Newton, Einstein, Bohr. Người biết lắng nghe cả trong lẫn ngoài thường là các triết gia như Lão Tử, Trang Tử, Parménide, Héraclide, Aristote, Platon, Héraclide du Pont. Người lắng nghe tính trầm bổng và tiết tấu của âm thanh là những nhạc sư như Bach, Brahms, Mozart, Beethoven, Chopin. Người biết lắng nghe hình ảnh hay màu sắc kể chuyện là những họa sư như Van Gogh, Gaugin, Picasso hoặc các văn sĩ thiên tài như Shakespear, Tolstoï, Hugo, Hesse, Kazantzakis. Người chịu lắng nghe các ý kiến bất đồng thường là các lãnh tụ chính trị như các nhà lập pháp dân chủ Hy Lạp đầu tiên: Solon, Clisthène, Ephialte.
Nói chung, hãy lắng nghe, hạnh lắng nghe sẽ không làm chúng ta thua lỗ, trái lại, nó sẽ làm thăng hoa đời sống. Hãy lắng nghe thật chân thành, mọi sự vật trong vũ trụ đều có những bí mật để tiết lộ với chúng ta. Chỉ cần lắng nghe bằng hết cả tâm hồn, các hạt bụi sẽ ca hát cho chúng ta những ca khúc bất ngờ.
Hạnh lắng nghe, tâm từ bi, trái tim rộng mở là những chủng tính sẵn có của mọi chúng sanh. Quán Thế Âm vốn là tự tính của toàn thể vũ trụ trong đó có con người.
Nên phân biệt giữa lắng nghe với lén nghe. Lắng nghe là chia sẻ, còn lén nghe là rình mò, chiếm đoạt, mưu toan.
Lắng nghe là gia tài và là bản chất của nhân loại chứ không phải của riêng Phật giáo. Nhưng lắng nghe đối với Đức Quán Thế Âm đã trở nên là thể nhập pháp giới, không còn chủ và khách của sự nghe, như được diễn tả qua kinh Lăng Nghiêm được tác giả Lê Sỹ Minh Tùng diễn dịch và đăng trên Thư Viện Hoa Sen như sau : Trước hết tôi sử dụng tánh nghe: Nghe động và nghe tĩnh, rồi tôi xóa đi ý niệm động tĩnh ấy, từ đó sức tịch tĩnh tăng dần, tôi dứt được “năng văn” và “sở văn”. Sức tịnh tĩnh không dừng ở đó bấy giờ tánh giác tôi lại hiển hiện ra. Tôi tiếp tục tư duy : Dù là giác tánh nhưng tánh “năng giác” “sở giác” hãy còn. Tôi bèn xóa đi ý niệm về giác bấy giờ tâm tánh tôi rỗng rang lặng lẽ như hư không. Tôi lại diệt đi cái giác tri “như hư không” ấy. Cuối cùng tôi diệt cả khái niệm “diệt”. Khi tôi diệt hết khái niệm vi tế về “diệt sanh, sanh diệt” bỗng dưng tôi nhận thấy toàn thể pháp giới trong mười phương chỉ còn là cảnh giới “bất nhị” tịch diệt hiện tiền. Tâm tánh của tôi viên mãn khắp giáp mười phương vượt hẳn tầm nhận thức thường tình của thế gian. Tôi được hai món thù thắng : Một là tâm tôi hợp với bản giác nhiệm mầu của mười phương Như Lai, đồng một từ tâm hướng hạ cứu độ chúng sinh. Hai là hợp với tâm của lục đạo chúng sinh trong mười phương, đồng một bi tâm hướng thượng cầu Vô thượng Bồ Đề.
Nguyên văn chữ Hán:
Sơ ư văn trung, nhập lưu vong sở. Sở nhập ký tịch, động tĩnh nhị tướng liễu nhiên bất sanh. Như thị tiệm tăng, văn sở văn tận. Tận văn bất trụ, giác sở giác không. Không giác cực viên, không sở không diệt. Sanh diệt ký diệt, tịch diệt hiện tiền. Hốt nhiên siêu việt thế xuất thế gian, thập phương viên minh, hoạch nhị thù thắng: Nhất giả, thượng hợp thập phương chư phật bổn diệu giác tâm, dữ phật Như Lai đồng nhất từ lực; Nhị giả, hạ hợp thập phương nhất thiết lục đạo chúng sinh, dữ chư chúng sinh đồng nhất bi ngưỡng.
初於聞中,入流亡所。所入既寂。動靜二相了然不生。如是漸增。聞所聞盡。盡聞不住。覺所覺空。空覺極圓。空所空滅。生滅既滅。寂滅現前。忽然超越世出世間。十方圓明。獲二殊勝。一者,上合十方諸佛本妙覺心,與佛如來同一慈力。二者,下合十方一切六道眾生,與諸眾生同一悲仰
Văn phong kinh này súc tích, hào hùng, và quá hay, nên tôi dẫn ra để cùng thưởng thức (dành cho người thâm hiểu Hán văn), chứ bài viết này không dám lạm bàn về các lãnh vực cực cao của đạo Phật, thuộc lãnh vực Giải Thoát môn. Với sự hiểu biết của một người tai trần mắt thịt, tôi chỉ cho phép bàn về những khía cạnh lợi lạc mang tính thế gian, rất minh nhiên trong đời sống dân sự, tức trong phạm vi Thế Tục môn.
Cái đặc sắc thứ nhất của giáo lý đạo Phật là, cùng một lời Phật nói, người thực hiện ở sơ cấp thì được lợi lạc theo sơ cấp, người thực hiện trung cấp thì được lợi lạc theo trung cấp, và ở cấp cao hơn cho đến cấp vượt khỏi nhân thiên cũng được lợi lạc vượt nhân thiên. Tôi đơn cử chỉ việc ăn chay thôi, người ăn chay khởi đầu bằng tâm nguyện cầu phước - mấy bà nhà quê ít học chỉ biết như thế -, khởi đầu đơn giản ấy đã vô tình dẫn đến thân và tâm đều dần dần nhẹ nhõm. Người ăn chay ít có trường hợp có mùi hôi từ ngưòi toát ra làm trở ngại một cách kín đáo những người chung quanh. Càng ăn chay lâu hơn, càng biết rằng chay không phải chỉ đơn thuần là không có máu thịt của chúng sanh, mà ngay cả cái tâm dục lạc muốn ăn ngon, ăn cho sướng, ăn cho no, cũng tự được kềm hãm lại. Ăn chay mà chế ra đủ món, đủ kiểu, đầy dầu đầy mỡ, nào giả cầy, giả cá, nem công, chả phượng, thì chỉ được cái vỏ của sự ăn chay, vẫn sẽ đầy dẫy bệnh tật. Phải hiểu rằng ăn chay chính là tiết dục, tam thường bất túc, thì thân tâm mới nhẹ nhàng. Khi ăn chay tới cấp cao hơn thì lập tức nghĩ đến người không có ăn, người nghèo khổ chết vì đói rét bệnh tật, và tự nhiên, hạnh lắng nghe xuất hiện nhờ phép ăn chay, và từ sự lắng nghe đó, cửa Phổ Môn mở ra, người đó tự thúc giục phải thực hành việc tế độ xã hội hay hiến mình cho tha nhân, cho môi trường sống, bao gồm chúng sinh và hồ ao sông nước, chứng được quả bất thối lúc nào có khi không hay không biết.
Cái đặc sắc thứ hai của giáo lý nhà Phật là sự thành tựu ở cộng đồng hay tập thể mà xa hơn là thể nhập pháp giới. Vì đạo Phật là đạo vô ngã, cái ngã nhỏ bé ích kỷ là nguồn gốc của sinh diệt khổ đau nên Đức Phật chủ trương từ bỏ cái ngã giới hạn để mở tung cánh cửa Phổ Môn mà thâm nhập pháp giới, cùng với cái ngã vô hạn gặp nhau như ánh sáng hòa vào ánh sáng. Trong kinh Phật, luôn luôn có sự sách tấn thượng cầu Bồ Đề, hạ hóa chúng sanh, tức là Tự Giác và Giác Tha. Nguời theo Phật hướng về hai mục đích này, và dĩ nhiên, chỉ sau khi hai mục đích đầu thành tựu, thì cái đích cuối cùng mới thành tựu, đó là Giác Hạnh Viên Mãn, và chỉ có Phật Thích Ca đạt được 3 điều này, trở thành bực Chánh Đẳng Chánh Giác. Mục đích chư Phật ra đời là khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, chỉ bày cho muôn loài chỗ thấy biết chân thực về pháp giới vũ trụ, chính vì mục đích phục vụ cho đời mà đạo Phật có một pháp môn tu gọi là Bồ Tát đạo, được cho là gần nhất với Phật Thừa, vượt qua khỏi hàng nhị thừa Thanh Văn và Duyên Giác. Tôi nhớ xem trên một youtube nào đó, được nghe ni sư Thích Nữ Trí Hải giảng, ngài tâm sự rằng ngài không muốn được sanh về Tây Phương Cực Lạc, vì trên Tây Phương chỉ toàn Bồ Tất và A La Hán, không có khổ đau, ngài muốn dấn thân lại trần thế, sẵn sàng chịu trầm luân để cứu khổ. Đây là một tâm nguyện cao cả, vượt ra khỏi tiểu ngã của bực Bồ Tát lấy Phổ Môn làm diệu hạnh cho con đường tu tập và chứng nhập pháp giới. Mục đích tối thượng của Tiểu thừa là thoát khỏi tam giới, mục đích tối hậu của Tịnh Độ Tông và Kitô giáo là đến được Thiên Đàng hay Tây Phương Cực Lạc (hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh). Còn mục đích tối hậu của Bồ Tát thừa là vĩnh viễn vì chúng sanh mà chấp nhận lăn mình vào trần lao, nguyện tái sinh để hóa độ, địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Phật giáo tiếp hiện (từ của thiền sư Nhất Hạnh) chủ trương xây dựng nơi đây là cõi hạnh phúc chứ không hứa hẹn một thiên đường xa xôi sau khi chết. Câu nói nổi tiếng nhất cho tư tưởng này là : hãy sống tỉnh thức, sao cho mỗi bước chân làm nở một đóa sen.
Do vậy, giáo lý đạo Phật cho ta biết một Tin Mừng trên hết tất cả mọi tin mừng, rằng, tất cả chúng sanh, từ bò, chó, dê, ngựa, heo, gà đến trời và người, đều có phật tính, cùng với Phật hoàn toàn bình đẳng không khác, khai mở ra chân trời tự do tuyệt đối, tự do không lệ thuộc vào thần linh, làm tôi tớ cho bất kỳ một khái niệm cứu rỗi mang tính vong thân đánh mất tự tính. Phật tánh trong con người khiến con người luôn hướng về vô ngã, và khởi điểm của vô ngã chính là mở toang cánh cửa để hướng về vũ trụ, tha nhân, hay pháp giới, cùng nhau sống tịnh độ ngay trên hành tinh nhỏ bé này.
Từ đó, tôi cho rằng, nhờ biết lắng nghe, thấu hiểu, đã mở cửa Phổ Môn, mà nhân loại sở hữu những giá trị văn hóa rất nhân văn như sau :
Cửa Phổ Môn hay sự lắng nghe hoàn thiện lịch sử nhân loại
Khởi đầu con người sống nhiều bằng cảm tính và rất ít lí trí, tất cả đều bị ngăn chặn bởi hiềm nghi, e dè, tự vệ. Xã hội loài người cũng chính là hình ảnh của muôn thú mà ta quan sát hôm nay: mạnh được, yếu thua; cá lớn nuốt cá bé. Trong giai đoạn này, bản chất của con người rất gần với vô minh, mỗi một con người là một tiểu môn cửa đóng then cài. Khi một quốc gia tiêu diệt một quốc gia, chỉ chừng trăm năm sau, biên giới của kẻ thắng và kẻ bại sẽ không còn nữa, hay ít ra là đã phai nhạt rất nhiều, lúc ấy xã hội chịu lắng nghe hơn là cần gươm dáo để trấn áp, và như vậy, nếu ai biết lắng nghe ngay từ khởi thủy là biết đi đoạn đường ngắn nhất dẫn đến cọng sinh trong hòa bình.
Trung Quốc không cần nhe nanh múa vuốt với thế giới bên ngoài, chỉ cần phát huy văn hóa tam giáo vốn đã có căn gốc vững mạnh của mình, chủ trương một chính sách dân giàu nước mạnh nội địa, phát triển trợ cấp xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, nâng cao mức sống của toàn dân, không để sự chênh lệch kinh tế quá lớn giữa nông thôn và thành thị, sao cho người ngoài nhìn về Trung Quốc tựa như nhìn sang Âu Mỹ, ước ao được làm công dân Trung Quốc. Ngoài ra, hãy phổ biến văn minhTrung quốc bằng cách cạnh tranh với Âu Mỹ về nhân quyền, triết học, tâm linh, cho thế giới thấy Trung quốc dẫn đầu về tâm lắng nghe, cởi mở, chân thành, bênh vực và trợ giúp các nước láng giềng về mọi mặt, dùng yêu thương, nhân quyền, bình đẳng, tín và nghĩa để đối đãi nhau, tỏ rõ tư cách đàn anh. Được như vậy, Trung Quốc không cần bỏ tiền tạo dựng các đảo nhân tạo trên biển đông, chẳng cần chế ra nhiều máy bay hay tàu thủy phục vụ cho chiến tranh, vì con đường lắng nghe chỉ xây dựng hòa bình, chiến tranh tự biết nó không có bất kỳ vai trò nhỏ bé nào ở đây cả. Việc gia tăng ngân sách chiến tranh của các cường quốc chỉ là cơn lốc vô minh đưa con người đến chỗ bị tiêu diệt trước khi có một nước được tôn vinh chiến thắng. Đây chính là giai đoạn nhân loại cần ngồi lại, mở tâm ra và lắng nghe nhau, thấu hiểu về tương lai của chính mình.
Chính sự lắng nghe và thông cảm trong cởi mở (Phổ Môn) đã dẫn đến những giao lưu văn hóa, vừa khiến con người tôn trọng dị biệt mà vẫn có thể hòa đồng, vừa khiến họ sở hữu được một kho tàng súc tích về mọi lãnh vực của học thuật mà trong đó, khoa học và lịch sử được đặc biệt nâng cấp và phát huy mạnh mẽ mà vẫn không đánh mất truyền thống.
Tất cả mọi học thuyết, tín ngưỡng hoặc các tổ chức tài phiệt, giáo phiệt, quân phiệt với bản chất thống trị thường gây chiến tranh, thường tạo tang thương trong lịch sử nhân loại đều là những thế lực vô minh, họ không biết thực tập Phổ Môn hay hạnh lắng nghe, trái tim hoàn toàn đóng kín.
Đông Đức và Tây Đức đã lắng nghe nhau trước khi đập bỏ bức tường Bá Linh. Dân tộc Đức đã tiết kiệm nhiều xương máu và tài nguyên, họ không cần đến chiến tranh đổ máu mà vẫn thực hiện được thống nhất trong hòa bình, yêu thương trong danh dự. Họ có may mắn là không có dị biệt văn hóa mà chỉ có dị biệt chính trị. Người VN đã tốn hằng triệu sinh mạng, hằng nghìn tỉ đô la để thống nhất đất nước, nhưng ngày nay, dù đã gần nửa thế kỷ trôi qua, dân tộc vẫn gờm nhau bằng dị biệt chính trị và xa cách văn hóa, chỉ chực chờ một cơ hội để bùng vỡ thành chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa một bên là gìn giữ tập tục truyền thống Đông Á, và một bên là tín ngưỡng và truyền thống thống trị Kitô muốn tái lập kiểm soát tại VN như dưới thời Pháp thuộc hay dưới hai triều đại Việt Nam Cọng Hòa. Đây là một bất hạnh lớn của dân tộc, một di chứng nhức nhối còn khó cứu chữa hơn các di chứng do chất độc da cam để lại sau khi hai đế quốc Pháp và Mỹ đã ra đi.
Mong rằng nhà nước biết lắng nghe, người Kitô giáo tại VN cũng biết lắng nghe. Hãy là tôn giáo đáng yêu trong một dân tộc, không nên áp đặt một dân tộc đáng yêu vào một tôn giáo.
Cửa Phổ Môn hay sự lắng nghe xóa tan dị biệt chủ tớ, hủy bỏ chế độ nô lệ
Những nhà đấu tranh tiên phong xóa bỏ quyền ưu tiên của tầng lớp quý tộc trưởng giả ở Hy Lạp vào buổi bình minh của nhân loại chính là những người chịu lắng nghe tiếng nói của số đông, của tầng lớp bình dân hay nô lệ như tôi đã trình bày trong phần vĩ nhân hay những người thành đạt là những người biết lắng nghe.
Hoàng dế Cyrus II (-339) của đế quốc Perse có lẽ là người đầu tiên biết nghe thấy tiếng than thóc của các giống dân bị lưu đày, ông đã ra lệnh phóng thích nô lệ Do Thái khi chiếm thành Babylone, và ông cho quyền tự do tín ngưỡng trong đế quốc của ông. Những điều này được khắc trên ống đất sét nung gọi là Cyrus Cylinder. Theo một số sử gia thì Cyrus II là thủy tổ của tuyên ngôn nhân quyền.
Tổng thống Abraham Lincoln đã lắng nghe được sự thống hận của nô lệ da đen, và ông đã tự mình đứng về phía những kẻ bị buôn bán như súc vật từ Phi Châu sang Mỹ châu vào thế kỷ thứ 17 &18. Chế độ nô lệ là một lợi nhuận xã hội của Đế quốc La Mã kéo hơn 18 thế kỷ. Chế độ nô lệ tồn tại cho đến khi bị Abraham Lincoln bãi bỏ tại Hoa Kỳ.
Thông thường các vị Bồ Tát xuất thế để cứu người, họ ra đi ngay sau khi trách nhiệm hoàn thành. Trường hợp của Abraham Lincoln rất giống với hạnh nguyện của một vị Bồ Tát. Lincoln vì dân tộc Mỹ và vì người nô lệ mà đấu tranh đầy cam go gian khổ.
Đừng nghĩ rằng những gì xảy ra trên đây chẳng liên quan gì đến Phật giáo.
Phật giáo chẳng sở hữu một chân lí riêng tư. Phật giáo chỉ ra con đường, đưa ra pháp môn dẫn đến Chân Thiện Mỹ chứ không hề sở hữu Chân Thiện Mỹ. Tất cả những gì làm cho trần gian được an vui, bớt khổ, tất cả những động thái của lịch sử khiến cho trái đất quay trong quỹ đạo hài hòa của vũ trụ đều phù hợp với giáo lí từ bi ban vui cứu khổ của đạo Phật, nó không bị giới hạn trong thời gian, cũng không xơ cứng trong không gian. Một linh mục có thể là một Phật tử chân chánh nếu vị ấy có đời sống thanh cao trong sạch, biết đặt mục tiêu làm lợi lạc tha nhân lên hàng đầu, trong khi chưa chắc một vị Tì Kheo lại xứng đáng là đệ tử Phật nếu vị ấy tham dâm trong bóng tối sau lưng tín đồ, khư khư ôm lấy ngôi chùa hoặc tạo dựng cộng đồng riêng. Trước khi Phật Thích Ca ra đời đã có đạo Phật, hay chính xác hơn, đạo phật -không viết hoa- là chân lí, là chánh pháp, là luật nhân quả, là lí tính của vũ trụ, là bản chất của giác ngộ, là tính không của vạn pháp, là tịch diệt của giải thoát, là pháp giới Hoa Nghiêm nhứt tức nhứt thiết, nhứt thiết tức nhứt. Vũ trụ đã là như thế, Phật Thích Ca có ra đời hay không, nó vẫn như thế. Vi khuẩn trong nước hay trong không gian không phải là ''vật thụ tạo'' của Phật Thích Ca, ngài chỉ đơn giản nhìn thấy chúng và báo cho chúng ta biết. Ngài đến không phải để tạo ra vũ trụ, mà đến để chỉ cho chúng ta thấy vũ trụ.
Đạo Phật rất thực tiễn, không luận thuyết về những chuyện xa vời. Khi một người mở lòng biết lắng nghe tiếng nói dị biệt và đau khổ của tha nhân, người ấy đang thực hiện diệu pháp Phổ Môn của Quan Thế Âm Bồ Tát, dù người ấy ở Hỏa Tinh hay đang sống trên Galaxy Andromède, vì Đức Quán Thế Âm Bồ Tát vân du trong Tam Thiên Đại Thiên thế giới, và ngài đã thành Phật hằng sa số kiếp trước khi thị hiện làm vị Bồ Tát bên cạnh Phật A Di Đà.

Theo kinh Phổ Môn thì ngài có 32 (có thuyết nói có 33) hình tướng thị hiện khác nhau, từ vua quan, đến Trời Phạm Thiên (được Ấn giáo xem như Thượng đế sinh ra vũ trụ và có quyền ban phúc giáng họa), nhưng với chỉ 32 hình thức thì quá hạn hẹp. Theo thiển ý đó là con số tiêu biểu, chứ với sở nguyện hợp thập phương nhất thiết lục đạo chúng sinh, dữ chư chúng sinh đồng nhất bi ngưỡng, thì 32 tướng kia làm sao mà đủ để độ khắp sáu loại chúng sanh? (sáu loài gồm : trời, người, A tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục ) Đừng nói là Quán Thế Âm dư sức biến thành Cyrus II hay thành Abraham Lincoln, ngay cả khi cần ngài cũng có thể thị hiện thành ngạ quỷ, a tu la hay súc sinh heo, bò, gà, chó mà trong kinh Phổ Môn không đề cập tới. - Nói điều nửa đùa nửa thật này ra để ai trước khi giết gà mổ heo, nên nghĩ rằng, biết đâu, chính Quán Âm Bồ Tát đang thị hiện để cứu độ một súc sinh nào đó.
Ngoài 32 hình tướng, Quán Thế Âm Bồ Tát cũng xuất hiện với 42 thủ nhãn, là những cách thức tâm linh đặc biệt để thực hiện mọi việc đều như ý. Tác giả không đi sâu vào đề tài này, nó thuộc về Mật Giáo, nằm ngoài khả năng hiểu biết của mình.