Bước đầu học Phật

Tại sao cúng cháo, Lễ Vu Lan có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không?

Đăng lúc: 22:32 PM 11/08/2022 0   349

Cùng Chủ Đề

Đức Phật và Phật Pháp - Đản Sanh đến Xuất Gia
Namo tassa Bhagavato Arahato Samma-SambuddhassaCon xin thành kính đảnh lễ...
Nguyên Nhân và Sự Suy Thoái của Phật giáo Ấn độ
NGUYÊN NHÂN VÀ SỰ SUY THOÁI CỦA PHẬT GIÁO ẤN ĐỘSau khi Đức Phật...
Tuổi Trẻ với Vấn Đề Giải Thoát
Tuổi trẻ với vấn đề giải thoátÐã lâu, đa số thanh niên quan...
Tại sao cúng cháo? Lễ Vu Lan có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không?


Cúng thí thực cô hồn là một nghi thức cứu độ cho các oan hồn uổng tử, không nơi nương tựa đã có tự ngàn xưa. Phát xuất từ hồi Phật còn tại thế.

Lễ Vu Lan xuất phát từ truyền thuyết về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu, nghe theo lời dạy của Ðức Phật, đã lập trai đàn cầu nguyện vào ngày rằm tháng 7 để cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ, và ngày này đã trở thành ngày lễ hằng năm để tỏ hiếu với cha mẹ, ông bà và cũng để giúp đỡ những linh hồn đói khát trong một số nước Á Đông.

Ở Nhật ngày lễ này được tổ chức vào ngày 7 tháng 7 để tỏ những ước nguyện của mình, người ta thường viết ước nguyện rồi treo vào cây trúc với mong ước điều ước đó sẽ trở thành hiện thực. Phương thức cúng dường để cầu siêu gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng mang tên là Vu Lan bồn hội, và bộ kinh là Vu Lan bồn. Kinh này do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Tây Tấn (265-316).

Lễ cúng cô hồn bắt nguồn từ kinh Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh, dựa theo câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên).

Cuốn Phật thuyết cứu diện nhiên ngạ quỷ đà la ni thần chú kinh do ngài Śikṣānanda, đời Đường, dịch vào năm 695-700, cùng với ba tác phẩm khác của Mật tông do ngài Bất Không Kim Cương dịch, đó là Phật thuyết cứu diệm khẩu đà la ni kinh. Du già tập yếu cứu a nan đà la ni diệm khẩu quỷ nghi kinh, và Du già tập diệm khẩu thí thực khởi giáo a nan đà duyên do.

THÍ là việc làm đứng đầu lục độ vạn hạnh có 3 cách để làm :

Tài thí cũng gọi là tư sanh thí, Pháp thí và Vô úy thí.

THỰC: là Thức ăn.

Thí thực là bố thí thức ăn và ý nghĩa ăn của Phật Giáo như sau:
1) Ðoạn thực: thức ăn cứng, có thể chia thành phần như cơm, cháo, rau, canh, thịt, cá v.v. & các thức vật có hương vị làm xúc cảm tâm thức.

2) Xúc thực: Ăn với thức quan hay biết mùi vị, tức là cách ăn của Quỷ, Thần thọ hưởng hương vị mà thôi.

3) Tư thực: ăn với sự kiện thần giao tư tưởng, là phép ăn của bậc Thiên trên cỏi sắc giới, ăn với phương thức thuyền duyệt tức là không chủ về vật phẩm ăn mà chỉ thọ hưỡng hơi hương, luôn luôn xem việc ăn là đạo vị, thanh tịnh.

4) Thức thực: ăn qua sự giao cảm của thức thứ 8, phép ăn nầy bậc Thánh, Phàm có khác nhau, bậc Thánh hưỡng thụ một cách hồn nhiên không phân biệt, còn bậc phàm phân biệt là ngon, dở; do chỗ phân biệt mà có tham muốn rồi khởi lên tư tưởng tham ăn đến bị vào vòng sinh tử, luân hồi.

Nghi thức thí thực này thường được tổ chức vào mùa Vu Lan Báo Hiếu, vào dịp đại lễ khánh thành chùa hoặc 49 ngày cho người vừa qua đời hay ngày cúng cơm, để hồi hướng công đức siêu độ cho vong linh.

Thập loại cô hồn được phân loại như sau:
1. Thủ hộ quốc giới: Loại oan hồn vị quốc vong thân;

2. Phụ tài khiếm mạng: Loại oan hồn chết vì trái chủ oan gia, trụy thai, sẩy thai;

3. Khinh bạc Tam Bảo: Loại oan hồn vì tạo nghiệp bất hiếu, phụ nghịch, vô đạo;

4. Giang hà thủy nịch: Loại oan hồn chết sông, chết biển;

5. Biên địa tà kiến: Loại oan hồn ở nơi biên ải hẻo lánh xa xăm;

6. Ly hương khách địa: Loại oan hồn phiêu bạc tha hương, chết đường, chết bụi;

7. Phó hỏa đầu nhai: Loại oan hồn chết vì tự tử, trầm mình xuống sông, núi, chết đâm, chết chém;

8. Ngục tù trí mạng: Loại oan hồn chết vì bị tra tấn, khổ nhục trong lao tù;

9. Nô tì kết sử: Loại oan hồn chết vì bị nô lệ, hành hạ, đày đọa;

10. Manh mung ám á: Loại oan hồn lúc sống bị đui, què, câm, điếc, cô quả không ai chăm sóc.

Đàn tràng chẩn tế, Trai đàn hay làm chay và chạy kinh đàn, là một nơi tổ chức các nghi lễ của Mật Giáo, dùng sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho các loại cô hồn hay vong linh vì oan nghiệp chưa siêu thoát đang còn sống trong thế giới mong lung. Một trai đàn cúng thí thường kéo dài từ 3 tiếng đến 7 tiếng đồng hồ.

Đàn tràng phạn ngữ viết là मण्डल, đươc phiên âm Anh hóa là mandala có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn. Từ mandala là danh từ ghép từ 2 chữ " Manda, nghĩa là cốt lõi" và tiếp vĩ ngữ " la có nghĩa hàm chứa thêm vào đó". Nghĩa chung của Mandala là một "vật chứa sự cốt lõi".

Thuật ngữ này thường được dùng để chỉ các đồ hình có mang đặc tính tượng trưng thể hiện một dạng thức hình học của vũ trụ hay của tiểu bản thể con người. Khởi gốc, các đồ hình Mandala có thể đã phát nguồn từ đạo Bà la môn. Theo Nitin Kumar 2, thì Mandala có thể xuất hiện sớm nhất ở Ấn hay Ấn Âu và liên hệ đến học thuật Rig Veda.

Mandala là một chương, một tập hợp của các bài chú hay bài thánh kệ được tụng lên trong các buổi lễ Vệ đà, qua đó các âm thanh thiêng liêng được chuyển tải trong các dạng thức di truyền của các chúng sinh và sự vật.

Một mâm lễ nhỏ, một nồi cháo trắng gọi là cúng cháo. Tại sao phải cúng cháo?


Tại sao phải cúng cháo ? Vì theo truyến thuyết các quỷ đói với thân hình xấu xí, cái bụng bằng cái trống nhưng cần cổ chỉ nhỏ bằng cây kim, không thể ăn uống gì được, chỉ húp được nước cháo mà thôi.

Nghi thức cúng cháo bắt đầu từ lúc Đức Phật còn tại thế, trong Kinh " Phật Thuyết Cứu Diện Nhiên Ngạ Quỷ Đà La Ni Kinh" có ghi rằng : Tôn giả A Nan, thị giả của Phật, đang thiền tọa trong đêm khuya vắng, khoảng canh ba chợt thấy một con quỷ đói với một thân xác tiều tụy khô gầy xấu xí, mặt cháy xám (diện nhiên), cần cổ nhỏ bằng kim, miệng phun ra lửa (diệm khẩu), bước vào cảnh báo rằng ba ngày sau ngài A Nan sẽ chết và sẽ đọa vào loài quỷ đói. Tôn giả A Nan nghe sợ quá, nên hỏi con quỷ làm cách nào để thoát khỏi khổ nạn.

Quỷ bảo rằng " Rạng sáng ngày mai, ông dùng các thức uống ăn đem bố thí cho loài quỷ đói và phát tâm cúng dường Tam Bảo hồi hướng công đức để giúp chúng tôi sớm thoát khổ địa ngục và ngạ quỷ, thì ông mới thêm tuổi thọ ".

Ngài A Nan quá kinh hãi nên bạch Phật cứu giúp. Phật dạy: " Ông chớ có quá lo sợ, ta nhớ lại trong quá khứ vô lượng kiếp, thuở đó ta làm người dòng Bà la môn, đối trước Bồ Tát Quán Thế Âm, ta thọ được pháp đà la ni (biến thực chân ngôn) của Phật vô lượng uy đức Tự Tại Quang Minh Như Lai : ta nay truyền dạy lại ngươi, nếu trì tụng thần chú đây, niệm được bảy biến có thể khiến cho một món ăn hoá ra làm vô lượng món ăn và trở thành mùi vị cam lộ ngon ngọt, khiến cho các loài được thọ hưởng no đủ ".

Tiếp đó Đức Thế Tôn đã dạy rõ phương pháp cứu độ ngạ quỹ qua bản Kinh " Phật Thuyết Cứu Diện Nhiên Ngạ Quỷ Đà La Ni ".

Nghi thức cúng cháo sau này đã được soạn thảo thành " Du Già Diệm Khẩu Thí Thực khoa nghi ".

Theo truyền thuyết tín ngưỡng cổ truyền Á châu, người ta tin rằng con người có hai phần: hồn và xác. Khi chết, hồn lìa khỏi xác, xác bị phân hủy còn hồn sẽ tiếp tục tồn tại. Hồn có thể lên thiên đàng hay đầu thai kiếp khác, hoặc bị giáng xuống địa ngục tùy theo những điều lành hay dữ mà người đó làm khi còn sống.

Vậy thì Hồn là gì? Thiên đàng và Địa ngục ở đâu?
Trong bài mở đầu Thập giới cô hồn Quốc ngữ văn của Lê Thánh Tôn, có nói Hồn là phần tinh anh, cái phần thần thánh có ở bản thể con người và nó là thứ " khinh quang " nên " thăng thượng " lên cõi chiêu dương (sáng rực).


Trên mặt lý của truyền thuyết trong kho tàng văn hóa dân gian có nói : dưới âm phủ có mười vị vua cai quản mười cửa ngục, mỗi vị có nhiệm vụ và công việc khác nhau để xem xét người chết lúc còn sống trên thế gian đã phạm vào những tội lỗi gì mà có hình phạt tương ứng. Thời gian tạm giam ở đây không phải là sự giam cầm vĩnh viễn mà theo sự phán xét dài ngắn tùy trường hợp.

Địa ngục phạn ngữ gọi là Naraka नरक và Pāli là Niraya निरय. Theo nghĩa đen chữ địa ngục có nghĩa là ngục ở dưới đất. Vì chữ địa là đất và chữ ngục là giam giữ. Còn nghĩa bóng là ý muốn nói những người nào làm ác thì chịu quả báo. Có thể là ở trước mắt, chứ không nhất thiết là sau khi chết đi mới đọa vào địa ngục.

Tóm lại Địa ngục có nhiều truyền thuyết diễn nghĩa và cũng tùy theo những khái niệm riêng của mỗi tôn giáo

Trong lãnh vực Văn học dân gian, Địa ngục được xem như một địa danh siêu nhiên, nơi của các linh hồn đến sau khi chết. Phần lớn các tôn giáo đều cho rằng địa ngục là nơi giam giữ, trừng phạt các linh hồn tội lỗi, và đây cũng là nơi để cho các linh hồn được ăn năn sám hối, trước khi đi đầu thai. Phản nghĩa của Địa ngục là Thiên đàng.

Có nhiều người không tin có địa ngục. Bởi vì họ cho rằng Thấy rồi họ mới tin. Nhưng dù có dùng lý luận khoa học hay phương tiện nào đó đễ chứng minh, thì rất khó để làm họ tin được.

Thí dụ trong đời sống hàng ngày chúng ta, ai ai cũng biết, vạn vật sống trên trái đất này đều phải nhờ không khí, nhưng không khí ở dạng vô hình làm sao thấy được, do đó chúng ta vẫn phải tin rằng nếu không có không khí thì chúng ta sẽ chết, đó là chuyện thực tế không ai chối cãi được.

Thêm một thí dụ thực tế khác nữa: Trong đời chúng ta thường nghe nói về nguồn gốc tổ tiên của chúng ta, mặc dù không thấy mặt được họ, nhưng chúng ta vẫn phải tin rằng, bằng một lý lẽ đơn giản: Nếu không có ông bà tổ tiên, thì làm sao ngày nay chúng ta được sống hiện diện tại đây.

Những chuyện đơn giản trước mắt có thể hiểu và tìm hiểu được bằng thực chất so sánh mà còn nghi ngờ thì những việc khác không dùng mắt để thấy được thì làm sao mà có thể tin. Cũng như: người ta không thấy được ánh sáng là tại vì người ta mù, chứ không phải người mù mà không biết ánh sáng.

Đức Phật có nói: Chúng sanh bị đọa vào địa ngục vì đã tạo nhiều nghiệp ác, tà kiến. Chúng ta nhờ tạo dựng nghiệp nhân làm người, sống giữa cõi người, còn những chúng sanh nào tạo nghiệp nhân địa ngục thì sống trong địa ngục... Đây là một sự thật của nhân quả, nghiệp báo, vì thế địa ngục là một cảnh giới, một cõi sống cụ thể, không phải là ẩn dụ hay biểu tượng.

Ngày nay, địa ngục không phải chỉ xuất hiện ở một thế giới xa lạ và bí mật nào, như chúng ta đã tham khảo sơ qua trong những đoạn kinh ở trên hay trong kho tàng văn học dân gian, mà địa ngục hiện hữu luôn nằm ngay trong cuộc đời hiện hữu của chúng ta.

Bởi vì ở đâu có đau khổ, có máu và nước mắt là ở đấy có địa ngục. Thế giới hiện đang chiêu cảm nhiều thiên tai chết chốc, giết chốc tàn khốc bởi chiến tranh đang diển ra khắp nơi. Mỗi ngày hàng vạn con vật bị lên lò sát sanh, hàng ngàn người bị tra tấn trong mọi lao tù. Đây mới chính là hình ảnh thực tế của một địa ngục hiện hữu trần gian một cách trọn vẹn.

Căn bản ngục, Cận biên ngục, Cô độc ngục, mỗi ngày không còn dựng lên một nơi mà đã tràn lan khắp nơi trong cuộc sống, không do sự xúi giục của Ngạ Quỷ, đầu trâu mặt ngựa, mà do tự bàn tay tàn bạo của chính con người tự tạo ra, để rồi con người phải tự chính mình tự chôn vào đó, cũng chỉ vì Nhân loại tranh chấp nhau vì những lợi quyền kinh tế, chánh trị và tranh chấp nhau vì tư tưởng.

Những tâm niệm xấu xa, ích kỷ, kiêu mạn, tham lam và tàn bạo, là một địa ngục sâu thẳm trong mỗi tâm hồn nhân loại và cũng là nguồn gốc tạo ra các loại địa ngục khác trên thế gian.

Khi ngọn lửa tâm tưởng xấu xa, ích kỷ, kiêu mạn, tham lam và tàn bạo còn bừng cháy trong mỗi cá nhân, thì ngọn lửa khổ đau của toàn thể nhân loại không thể nào dập tắt được nữa. Thế giới ngoại cảnh biến hiện tùy thuộc vào tâm thức của mỗi người. Khi đôi mắt đã nhuộm màu đỏ của sự tàn ác, thì cảnh vật bên ngoài làm gì không ngập đầy máu đau thương !.

Muốn cứu độ nhân loại đang thoi thóp trong đau khổ và hận thù trong các địa ngục, thì mỗi cá nhân phải tự cứu mình trước đã. Đây chính là cuộc cách mạng vĩ đại nhất rất khó làm.

Tất cả địa ngục không còn giá trị, khi trong lòng mỗi người không còn những ngọn lửa tâm tưởng xấu xa, ích kỷ, kiêu mạn, tham lam và tàn bạo.

Ý kiến bạn đọc (0)

Ảnh Đẹp

Có Sắc Không Hương

Một ngày kia, nữ hoàng Shaba gởi đến vua Solomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu.Đó...