Thuật ngữ về Tuệ
Trong ngôn ngữ hàng ngày, ta thường nói đến từ “trí tuệ” và thường hiểu đơn giản trí tuệ là hiểu biết (knowing) và kiến thức (knowledge). Trong Phật giáo cũng dùng từ Trí Tuệ. Nhưng Trí hay Tuệ trong Đạo Phật có nghĩa sâu hơn, bao hàm sự thấu hiểu có tính chân lý và tính trực tiếp.
Tiếng Việt không có từ nào khác hơn và thích hợp hơn để dịch chữ Tuệ trong kinh điển đạo Phật, mặc dù nó có nghĩa khác hơn. Ngay cả tiếng Anh cũng vậy, chỉ tạm dùng chữ “wisdom” hoặc “insight” hoặc “intuition” để diễn tả. Tóm lại, ta qui ước định nghĩa từ “Trí Tuệ” của Đạo Phật qua một số thuộc tính của nó, ví dụ: sự thấu hiểu, trực tiếp, đúng và hợp chân lý, có thể phát triển theo thời gian và sự tu tập v.v…
Trí Tuệ có nguồn cội giống như kiến thức, nhưng khác với kiến thức, nó là một năng lực hiểu biết trực tiếp không thông qua ngôn ngữ, khái niệm hay lý luận.Trong triết học Tây Phương, theo cuốn Metaphysics, Aristotle định nghĩa tuệ (wisdom) như là một sự hiểu biết về cái nguyên ủy: Tại sao sự vật lại xuất hiện một cách đặc biệt như vậy?
Trong kinh điển Đạo Phật, có ba từ thường được đề cập đến có nghĩa rất gần nhau, đó là: Tuệ, Trí và Thức.
Tuệ (Pali : paññā….. Sanskrit : prajñā)
Trí (Pali : ñāṇaṃ …... Sanskrit: jñāna )
Thức (Pali: Viññāna)….Sanskrit: vijñāna)
Trong Phật Giáo phát triển, chữ Tuệ thường được gọi là “huệ” vì tiếng Quan Thoại phát âm là “huey”cũng gần giống như “huệ” vậy. Huệ và Trí là những danh từ thường gặp và có ý nghĩa gần giống như nhau. Ngoài ra, chữ prajñā trong kinh điển Phật giáo phát triển, cũng thường được dịch thẳng ra là “Bát Nhã ”.
Trong giáo pháp nguyên thủy: Tuệ là sự nhận biết, còn Trí là Tuệ đã được nhận biết rõ ràng và trọn vẹn. Phân Tích Đạo (Patisambhidāmagga), bộ kinh thứ tám trong Tiểu bộ kinh, phân biệt hai khái niệm rất gần nhau là TRÍ và TUỆ bằng những cụm từ thường luôn được lập lại như sau:
- “Taṃ ñātaṭṭhena ñāṇaṃ, pajānanaṭṭhena paññā.”
Điều ấy theo ý nghĩa đã được biết (thì gọi) là TRÍ (ñāṇaṃ), theo ý nghĩa nhận biết (thì gọi) là TUỆ (paññā).”
Hoặc:
- “Taṃpajānanā paññā sutamaye ñāṇan” ti.”
TUỆ do sự nhận biết điều ấy là TRÍ về yếu tố tạo thành điều đã được nghe.”
Như vậy, có nghĩa là hai khái niệm Trí (ñāṇaṃ) và Tuệ (paññā) rất gần nhau, có thể xem chúng như có ý nghĩa giống nhau. Trí được xem như là Tuệ đã thành tựu viên mãn. Hoặc ngược lại khi Tuệ viên mãn thì gọi là Trí. Thường thì ta có thể dùng Trí hoặc Tuệ mà không cần phân biệt.
Trong khi Tuệ của đời thường (sự hiểu biết) nhằm mục đích phục vụ cuộc sống thế gian, thì Tuệ trong Đạo Phật nhằm mục đích giúp cho con người vượt thoát khỏi thế gian và những cái hữu hạn của nó. Tuệ, trong Đạo Phật, nhằm giúp người tu vượt lên cõi nhân gian, vươn tới những cõi giới (planes of existence) cao hơn, hoặc thậm chí vượt qua tất cả các cõi giới để đạt được tự do tuyệt đối!