Bước đầu học Phật

TÌM HIỂU PHÁP THẦN THÔNG TRONG PHẬT GIÁO - THIÊN NHÃN THÔNG (2)

Đăng lúc: 01:36 AM 07/12/2017 0   793

Cùng Chủ Đề

Đức Phật và Phật Pháp - Đản Sanh đến Xuất Gia
Namo tassa Bhagavato Arahato Samma-SambuddhassaCon xin thành kính đảnh lễ...
Nguyên Nhân và Sự Suy Thoái của Phật giáo Ấn độ
NGUYÊN NHÂN VÀ SỰ SUY THOÁI CỦA PHẬT GIÁO ẤN ĐỘSau khi Đức Phật...
Tuổi Trẻ với Vấn Đề Giải Thoát
Tuổi trẻ với vấn đề giải thoátÐã lâu, đa số thanh niên quan...

TÌM HIỂU PHÁP THẦN THÔNG

TRONG PHẬT GIÁO

Nguyên tác: Supra-Mundane, Psychic Powers

Tác giả: Phorn Ratanasuwan - Dịch giả: Tỳ khưu Thiện Minh

SANH TỬ THÔNG HAY THIÊN NHÃN THÔNG

Cutūpapātañāṇa (Dibbacakkhu)

Danh và Sắc đối lại các xứ hay căn

Một định lý khác trong nguyên lý đề cập đến ở trên cũng cần phải nghiên cứu đó là “Có danh và sắc thì cũng có sáu xứ”. Định lý này cũng cần phải được cứu xét. Điều này ám chỉ một sự thậthệ thống thần kinh có thể phát triển theo bất kỳ hướng nào, tùy thuộc vào chất lượng của khối óc tương ứng. Những kết quả nhiều hơn và cao hơn sẽ được đạt đến một khi hiện trạng thiền bậc bốn được đạt đến và với thiên nhãn được tu luyện cộng với việc tập luyện kiên trìđều đặn cho đến khi điều kiện cao nhất của tâm được đạt đến theo ý muốn bất kỳ lúc nào và bất kỳ nơi nào.

điều chắc chắn là sau khi thân xác bị tan rã, để nhập vào cõi phạm thiên, thì bộ óc của họ sẽ bị thay đổi hoàn toàn. Nếu như đến cuối tuổi thọ tối đa một lần nữa họ quay trở lại cõi đời này họ sẽ được trang bị với một khối óc của nhà thần đồng cao hơn hẳn những người đồng lứa tuổi.

Một kết quả phụ nữa: chính nhờ thông qua những tàn dư của các sức mạnh thiền từ bấy lâu nay đã tích lũy được họ sẽ có thể nhận thấy và có khả năng giao tiếp với các chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) và không cần phải được huấn luyện thêm do bất kỳ người nào khác nữa. Điều này hoàn toàn đúng đặc biệt là khi họ vẫn còn nhỏ. Đó là thời gian vẫn chưa phải chịu ảnh hưởng chi phối hay bị phân tán và lệch hướng do những cảm tìnhkinh nghiệm ngoài đời. Họ vẫn thừa hưởng do điều kiện tâm của họ như những cõi thượng đẳng và đã được thanh tịnh. Họ có thể được gọi là các cõi nhạy cảm và thanh tịnh. Trong trường hợp họ vẫn còn thiếu một số phẩm chất phụ nào đó, chỉ cần tập luyện trong một khoảng thời gian ngắn là đủ để hoàn thành được mục tiêu

Vấn Đề Di Truyền Nơi Lãnh Vực Của Thức 

Ảnh hưởng của nghiệp chướng được tích lũy đều đặn trong một khoảng thời gian dài, ngay cả khi hiện trạng thiền Jhana vẫn chưa đạt đến. Bất kỳ hạnh kiểm hay cung cách sống nào một chúng sanh đã đạt đến thông qua việc kiên trì lập đi lập lại trong một thời gian dài như vậy đã bám rễ sâu nơi thức. Cho đến khi trở thành một thói quen, các năng khiếu khuynh hướng hay khả năng đặc biệt.

Sau này trở thành thói quen. Khuynh hướng, khả năng xuất hiện như là một chúng sanh thường xuyên đựợc ấn định cho tới khi có thế được gọi là bản chất của chúng sanh đó.

Tuy nhiên thời gian cần thiết cho một qui trình như vậy được gọi là theo một nghĩa nào đó, như là một qui trình tiến hóa chắc chắn là phải lâu dài. Có đôi khi vô cùng to lớn.

Phẩm chất này có thể được chuyển hóa do hai đường truyền tải một là thông qua tương quan máu mủ và hai là thông qua sự chết và tái sinh của thức.

Điều thứ nhất là do di truyền thì quá rõ ràng và đã được khoa sinh học chấp nhận. Điều thứ hai đòi hỏi phải có một mức độ thiền tiên tiến nào đó.

Vấn đề nhờ đó mà quan sát được chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) để có thể minh chứng được sự thật.

Đối với những ai đã đạt đến một mức thiền như vậy họ sẽ có thể nhìn thấy được thân xác thanh tịnh, hay một thân thể thiên giới, nếu bạn muốn gọi như thế, dưới dạng một chúng sanh Hóa Sinh (Opapātika) thoát ra khỏi thân xác một người chết. Đây là một bằng chứng rõ ràng cho thấy những đặc điểm của “Danh và Sắc” đã được chuyển hóa sang một dạng khác, được gọi là di truyền tâm linh hay siêu nhiên tùy ở chúng ta muốn, thân xác vừa mới được tái sanh thành một chúng sanh hóa sinh.


Thường thường chỉ là một bản sao thô thiển, tuy nhiên sau một giai đoạn, khi người chết đã “tiến triển xa hơn một chút” được gia nhập vào một cõi thích hợp với từng cá nhân, thân xác đó sẽ trải qua một biến đổi thích hợp theo như người đó ước muốn. Tuy nhiên thân xác đó vẫn chỉ là một thân xác không hơn không kém. Điều này chứng tỏ những đặc tínhđiều kiện của thân xác đó phản ánh rõ nét hiệu quả của người tạo ra nó. Đó là tâm hay là thức. Điều này có thể được gọi là bản chất “tự nhiên.” Gồm cả bản chất của tâm, là điều (tương đối) được ấn định vĩnh viễn rất khó có thể trải qua những thay đổi cơ bản nào khác.

Lẽ đương nhiên nếu có điều gì đó mạnh mẽ hơn bản chất tự nhiên tác động lên đó. Bản chất tự nhiên đó đã được thấm nhuần sâu xa vào tâm hữu phần, đã trở thành một phần hay một gói hay là “cuộc sống hay máu của tâm đã gắn chặt với chính tâm đó. Đây chính là tính tham lam, đã trở thành “thói quen” có thể nói như thế trong trường hợp tâm tự gắn kết với một khái niệm sai trong một thời gian dài. Một điều rõ ràng là thật khó khăn biết mấy để có thể gột rửa được cho sạch khỏi những sai lầm đó.

Bản Chất Tự Nhiên

Đến một chừng mực bản chất tự nhiên được đem ra cứu xét. Chính bản chất tự nhiên của tâm đã tạo ra bản chất thân xác tương xứng. Ngay lúc này, trước bất kỳ bản đặc tính hay bản chất tự nhiên nào của tâm có thể trở thành hoặc biến đổi thì phải được tích lũy trong một thời gian dài có thể lâu hơn cả tuổi của một hành tinh cũng nên. Để cho chân lý này được thể hiện mà không cần đến một suy đoán hoặc một kết luận thì cần phải có một đặc tính chẳng có gì khác hơn là khả năng phác họa ra được các pháp từ những nguyên nhân trước đó cả hàng đại kiếp.

Điều này rõ ràng đòi hỏi một mức độ Nhớ Lại Tiền Kiếp cao nhất (hay những biến cố quá khứ) gắn liền với Thiên Nhãn thông ở bậc phát triển cao nhất. Chính những khả năng siêu phàm đó đã thôi thúc Đức Phật thiết lập định lý cho rằng: có thức thì cũng có danh và sắc” và “nếu có danh và sắc thì ắt cũng sẽ có thức.”

Một điều cần lưu ýĐức Phật không bao giờ dùng từ “bản chất thiên nhiên” thay vào đó ngài dùng” “các pháp” là do tâm tạo thành (hay là thức tạo nên) từ điều này sẽ xảy ra hai hệ luận sau:

Thứ nhất: Điều gì con người, sinh vật và sự vật có được là do chính thức tạo ra mà thôi.

Thứ hai: Theo đường hướng nào và hình dạng thức những đối tượng đó biến đổi hay mặc lấy đều do chính nghiệp chướng của chúng mà ra.

Chính vì thế toàn bộ những dạng cuộc sống trong vũ trụ này cho dù có thuộc tứ sanh (Yoni) hay chín hữu tình cư (sattavasa) cho dù có thuộc kiếp con người hay thuộc kiếp Hóa Sinh (Opapātika) cho dù có kích thước nhỏ bé nhất hay khổng lồ, cho dù có bình thường hay kỳ quặc, cho dù có hiện diện nơi một vũ trụ hay những giải ngân hà nào khác chưa được khám phá ra, cũng đã xuất hiện dưới Pháp Nhãn của Đức Phật (Dhamma-cakkhu) cũng chính nhờ con mắt này có thể nhận ra và biết được toàn bộ sự vật cho phép ngài có được chân lý chắc chắn trong định lý bao trùm tất cả mọi sự dẫn đến kết quả là cuộc sống chỉ có thể hiện thực được do chính thức của cuộc sống mà thôi. Hiểu được chân lý này sẽ dẫn đến một hệ quả khác của một chân lý khác đó là sức mạnh của thiên nhãn.

Hành Thiền Chính Là Nguồn Sáng Siêu Nhiên

Một điểm khác nữa cần được cứu xét đó chính là ánh sáng giúp ta quan sát. Chúng ta biết rằng trước khi có thể nhìn thấy bất kỳ điều gì, phải có một luồng sáng bên ngoài chiếu vào đó, có thể là ánh sáng mặt trời, ánh sáng một ngọn nến, hay ánh sáng đèn điện dưới bất kỳ hình thức nào. Nhưng đối với những ai đã đạt đến được Thiên Nhãn. Tuyệt đối không cần đến bất kỳ một thứ ánh sáng nào như vậy. Họ có thể tự tạo ra, hay tự phát ra thứ ánh sáng đó phát xuất từ tâm mà ra đó chính là khả năng hành thiền.

Tuy nhiên cường độ ánh sáng đó tùy thuộc vào sức mạnh chiều sâu hành thiền người đó đã đạt đến. Ngay cả trong tình trạng tối như mực cũng không phân biệt hay ảnh hưởng gì đến việc quan sát đó. Một điều ta luôn kỳ vọng là, khi tâm bắt đầu chăm chú vào hành thiền, thì một luồng sáng sẽ xuất hiện. Thoạt tiênthể không mạnh mẽ mấy. Nhưng nhờ tu luyện tiệm tiếnkiên trì thì nguồn sáng đó sẽ tăng thêm cường độ.

Điều này chứng tỏ rõ ràng chân lý luồng sáng có thể xuất hiện thông qua sức mạnh của việc hành thiền. Vì thế lời Đức Phật dạy được đề cập đến ở trên là “Một thiền sinh (aspirant) muốn tiến tới trên bước đường hành thiền để đạt đến mức độ đạt được Thiên Nhãn phải có khả năng tạo ra được một nguồn sáng chói chang từ tâm”.

Luồng sáng này phải chói chang như ánh sáng ban ngày. Có thể nói thứ ánh sáng này phải được tạo ra một cách tự nhiên, có nghĩa là theo ý muốnngay lập tức, ở bất cứ nơi đâu và vào bất kỳ lúc nào. Đây là một cơ sở không thể thiếu để đạt đến được Thiên Nhãn. Điều này thật đáng khích lệ cho những người nào ước ao tu luyện hành thiền.

Ngay sau khi nhập thiền, sẽ không còn giao động. Một luồng sáng sẽ xuất phát từ nội tâm, cho dù tình trạng tối mù của môi trường bên ngoài có thế nào đi chăng nữa. Luồng sáng này sẽ tăng thêm sức chói chang rạng rỡ, với tỷ lệ giao động và cường độ luôn tăng. Cộng với sự tiến triển trong việc hành thiền. Cho đến khi có thể đạt đến được một loại quang X nào đó giúp ta có thể nhìn xuyên suốt qua các bức tường vật chất. Lúc đó chẳng còn điều gì ngăn cẳn được quá trình diễn biến của thiền nữa.

Hơn thế nữa, luồng sáng này dưới sự điều khiển của tâm có thể hướng tới bất kỳ hướng nào cho dù có xa mấy đi chăng nữa. Chính vì thế mà những ai đã đạt được Thiên Nhãn có thể nhìn rõ điều gì đang đóng kín bên trong nhà, những gì gói kín, hay nhìn xuyên qua cả các bức tường ngăn cản tầm nhìn. Kể cả những vật quá nhỏ đối với con mắt thường của ta.

Tuy nhiên, một lần nữa cần phải lưu ý một điều đó là đạt đến được Thiên Nhãn lại có nhiều bậc và nhiều mức độ khác nhau. Chính vì thế ta không thể hy vọng có được sức mạnh giống nhau trong mọi trường hợp. Thí dụ trong trường hợp Trưởng lão Anuruddha, như được biết ngài có khả năng trổi vượt nhất trong số các đồ đệ của Đức Phật, ngài đã đạt được thành tích này. Rất có thể là vì việc hành thiền của ngài đã đạt đến mức phát triển cao độ, với tỷ lệ giao động ánh sáng, và sức mạnh di chuyểnthâm nhập được.

Một khi ánh sáng đó đạt đến đối tượng hay mục tiêu nó liền phản chiếu đối tượng đó lại cho con mắt, và kích hoạt khả năng quan sát. Tuy nhiên, sự khác biệt rất rõ nét nơi tỷ lệ ánh sáng giao động và nguồn tạo ra sánh sáng đó. Cũng vậy, ta phải chấp nhận chất lượng của hệ thống thần kinh của những người đó đã đạt đến Thiên Nhãn, chính là lý do tồn tại (raison d’être) vượt xa hẳn với những con mắt những người chưa được huấn luyện. Chính nhờ sự huấn luyện tiệm tiếnkiên trì đã đem lại hiệu quả tương ứng cho hệ thống thần kinh.

Những Ích Lợi Do Tu Luyện Thiền Mà Ra

Xét cho cùng, còn có một chân lý đầy an ủi cho những ai nhắm đến tu luyện hành thiền mà không nhằm đạt đến Thiên Nhãn, rất có thể họ sợ những gì vượt quá điều họ mong muốn đạt đến. Ít nhất trong cuộc sống này. Vì có một số phản ứng phụ cần được đạt đến, ngay cả ở mức độ thiền thấp nhất. Những điều này gồm cả việc tạo ra cho mình một trí nhớ dai các sự kiện đã xảy ra. Tăng thêm sức mạnh chánh niệmtrí tuệ.

Với kết quả có được giúp ta hiểu biết nhanh hơn và rõ ràng hơn về bất kỳ điều gì đã được học hỏinghiên cứu và sự can đảm đi tiên phong hay có sáng kiến trong bất kỳ điều gì ta phải đối mặt. Một tâm như vậy rất ít khi dẫn đến một con đường độc đạo (cul de sac) khi phải đối mặt với những khó khăn và nhiều vấn đề. Đây chính là sức mạnh của ánh sáng nội tâm tuy chưa đạt đến một mức độ Thiên Nhãn.

Có một hiểu lầm, một thái độ khiến nhiều người nản lòng đó là trí nhớ hay tâm tạo thành hay ấn định tính khí của con người. Một người có trí nhớ không tốt khi còn nhỏ có rất ít cơ hội cải thiện trí nhớ đó sau này. Điều này được khẳng định thêm, đó là do kết quả di truyền mà ra. Hậu duệ của cha mẹ đạt được chỉ số thông minh cao (IQ) rất có thể đã thừa hưởng được đặc tính này nơi cha mẹ của mình. Chính vì thế nếu đứa bé được sinh ra do cha mẹ có một chỉ số thông minh thấp (IQ) thí dụ như chậm phát triển chẳng hạn, thì cũng ít hy vọng phát triển được chất lượng trí óc cao độ. Thực chất mà nói. Hiểu biết như vậy không sai nhưng đây cũng không phải là điều đúng trong mọi trường hợp.

Phật giáo cũng chấp nhận lý luận sinh học này như là một phần sự thậtĐức Phật còn có nhiều điều để nói về vấn đề này, thí dụ như trong trường hợp một người sau khi chết đầu thai thành một con chó. Đang khi là một con người hắn có được hệ số thông minh cao. Nhưng làm thân phận con chó hắn không thể toát ra được phẩm chất hay suy nghĩ và cảm nhận giống như một con người được, tuy nhiên chiều sâu trí thông minh của hắn không hề bị mất, và có thể thể hiện được trong việc khiến cho hắn trở thành một con chó trội vượt hẳn. Với trí thông minh cao hơn hẳn so với những con chó đồng loại, trước đó không thuộc bản chất con người, còn cao hơn cả cha mẹ của con chó nữa là đàng khác. Đây là hạn chế do di truyền, do điều kiện của thân xác có nghĩa là hiện trạng tái sanh mà ra.

Phẩm Chất Của Bộ Não

Đây chính là phạm vi Phật giáo có thể chấp nhận được. Đức Phật biết chất lượng của não bộ và hệ thống thần kinh là Kammajjrūpa – (tùy vào kết quả nghiệp chướng) – được tái sanh (trực tiếp) thông qua kết quả nghiệp chướng có nghĩa là những kết quả do kiếp trước để lại. Những ai thường có hệ số thông minh cao, có khả năng hiểu được những điều khó khăn và phức tạp và rồi tận dụng được khả năng đó để tạo điều lợi cho người khác, sẽ được chúc phúc nơi cõi đời này bằng việc tái sanh ở mức độ cao hơn về khả năng và tâm, kể cả trí nhớ dai. Chính vì thế mà não bộ và toàn bộ hệ thống thần kinh được gọi là Kammajjrūpa. Điều này hoàn toàn khớp với trường hợp thân xác được luyện tập điều đặn.

Những ai sao nhãng không có những bài tập thích hợp sẽ có thân xác yếu đuối, không có đủ sức chịu đựng. Cũng như vậy những ai không luyện tập trí óc đang lúc còn nhỏ, sao lãng những cơ hội học tập, sẽ không thể tăng trưởng trí óc được khi họ lớn lên. Tuổi càng cao bao nhiêu, thì càng khó có thể gặt hái được những thành công trong việc luyện tập trí não. Đây chính là vì điều chúng ta gọi là học tập thực chất chỉ là những bài tập ấn định cho trí óc đó là tập suy nghĩ ra làm sao, luyện trí nhớ như thế nào, ôn tập ra sao, học phân loại như thế nào và nhiều điều khác nữa, kể cả việc thích ứng với các hành động thể lý và hành vi về khẩu liên quan, cơ bản chẳng là gì cả ngoài những bài tập hay việc luyện tập dành cho chính tâm vậy.

Như đã nói ở trên, mắt nhìn chẳng là gì cả mà là tâm nhìn, (thông qua mắt), tai nghe được cũng không là gì cả mà là tâm nghe được thông qua tai v.v.. . Cũng vậy, khi chúng ta nói. “trí nhớ được tồn lại trong não bộ” thực chất đó là trí nhớ được ghi lại trong tâm thông qua não bộ. Toàn bộ những điều kể trên chẳng phải là quá đáng, hay đánh giá quá cao.

Chúng ta hãy nghiên cứu kỹ coi thực chất tâm hay tiềm thức chính là người sáng tạo ra toàn bộ những thứ đó, toàn bộ những gì được ban tặng cho thân xác hay não bộ xét cho cùng chỉ là một qui trình luyện tập được ban tặng cho tâm mà thôi. Chúng ta được biết một cách khoa học rằng các tế bào não và hệ thần kinh trên toàn bộ thân xác luôn luôn phải trải qua một qui trình biến đổi liên tục.Theo Phật giáo điều này được sức mạnh của chính tâm hay thức tạo ra. theo phương hướng và mức độ và các thân giới được phát triển hay biến đổi đều tùy thuộc vào sức mạnh kiềm chế của tâm.

Ta có thể quan sát thấy những người nào am hiểu lẹ làng thường là những người có trí nhớ tốt và có khả năng tiếp thu cao thuộc hệ thống não bộ. Ngược lại cũng là điều hoàn toàn đúng. Như vậy chúng ta đọc thấy trong các trích đoạn Phật giáo có hai phẩm chất hình như luôn luôn theo sát nhau đó là Niệm (sati) và Tuệ (Paññā). Hai phẩm chất này lại dựa vào chất lượng của thiền Định (samādhi) theo qui luật định lại sản sinh ra Niệm (sati), và Tuệ (Paññā). Một điều không bao giờ được quên là toàn bộ những điểm này chỉ là những phẩm chất và khả năng của tâm mà thôi, chứ không phải của não bộ.

Chúng cũng được gọi là “Cetasika” thường được dịch là các sở hữu tâm. Chúng là “tên” hay là “Danh” (nama) có nghĩa là những phẩm chất siêu hình, cần được tu luyện để cho ảnh hưởng hay là quả báo (dị thục) vipāka lên tâm Bhavāagacitta) đây là nguồn gốc mọi khả năng sáng tạo cho não bộ và hệ thần kinh. Thân xác thô kệch sớm muộn gì cũng bị buộc phải tan rã. Nhưng tâm hữu phần với khả năng sáng tạo của nó vẫn còn đó với công cụ thô sơ được tác động lên trở thành phần tinh tế hơn có nghĩa là trở thành thân xác thần tiên . . . .

Kinh Phật so sánh việc biến đổi này giống như một việc “ trỗi dậy khỏi một giấc mơ” – giấc mơ chẳng là gì cả song chỉ là cuộc sống trần thế này. Thực chất mà nói, chẳng còn sự so sánh của cuộc sống trần tục với điều này nữa nghĩa là một điều kiện giống như một giấc mơ đối với người đã chết cuộc sống Hóa Sinh (Opapātika) thì thực tế hơn, sinh động hơn và kéo dài hơn cả trong khổ cảnh lẫn trong nhàn cảnh.

Bản chất tự nhiên’: đặc tính kèm theo

Như vậy hành thiền được phát triển cho đến khi nguồn sáng xuất hiện cộng với những phúc lợigiá trị to lớn của nó. Trước tiên nếu nguồn sáng đó đủ mạnh có nghĩa là được tăng trưởng mạnh đủ, có khả năng nhìn thấy “Sắc” hay là thị lực sẽ xuất hiện như là một thành quả rõ ràng (lẽ đương nhiên, ta phải lưu ý kẻo một số cảnh vật sẽ quyến rũ ta.) Một số ích lợi khác gồm cả khả năng trí nhớ được tăng cường ở mức cao và khả năng nhớ lại điều đã bị quên lãng bấy lâu nay. Không kể đến sự phát triển Chỉ Số thông minh (IQ) và sự cải tiến đáng kể những tế bào não.

Toàn bộ những điều này điều là kho tàng vô giá không thể bị đánh cắp. Đi kèm với người sở hữu cuộc sống hoặc ngay cả cuộc sống mai hậu. Điều này cho thấy nơi một số trẻ em cách này cách khác được tái sanh thành những thần đồng chứng tỏđặc tính cố định và bất di bất dịch kèm theo. Tuy nhiên, điều này cũng quá rõ cả về nghiệp chướng thiện và bất thiện.

Nói cách khác điều này được áp dụng tương tự cho cả những thần đồng bất thiệnhoàn thiện, những lợi ích có được từ việc tu luyện hành thiền ngay cả thiền bậc cao nhất cũng chưa thể đạt đến được trong cuộc sống hiện tại. Chính vì thế không nên quá phóng đại giá trị tâm cộng với tu luyện thiền vì với việc tu luyện này sẽ diễn ra sự hoàn chỉnh, tạo ra sức mạnh nguồn sáng ngày càng tăng, điều này có nghĩa là gia tăng tỷ số giao động và sức nhậy bén của tuệ giác, nếu ta muốn vậy.

Tuy bước đầu tiên gồm nhiều trở ngại và nản chí, nhưng với phấn đấu trung thực và khẩn trương ta sẽ đạt đến tiến bộcuối cùng sẽ biến thành đôi điều gì đó giống như thói quen thâm căn cố để, bám rễ sâu đến nỗi được coi như là ‘bản chất riêng’.

Ngược lại những ai không có đủ can đảm để khuất phục trước những mệnh lệnh thuộc những ảnh hưởng gây đổ bể và làm nản lòng sẽ luôn phải chuốc lấy những đau khổ đổ lên chính mình, tâm của họ (nghĩa là thái độ của tâm) giống như những nhà máy sản xuất hàng loạt những đau khổ dội lại chính những người sản xuất. Lãng quên, mất ăn mất ngủ và nhiều triệu chứng khác như sụp đổ tâm là một trong số những điều bất hạnh sẽ xảy ra. Điều quan trọng nhất là những triệu chứng ngoài ước muốn này không chỉ là những gì họ có được trong cuộc sống hiện tại; chúng trở thành một thứ “tài sản bất di bất dịch “ đi kèm với những người sản xuất ra chúng ngay cả vào đời sau nữa. Và trong một vài trường hợp khẩn trương ngay cả khi họ được tái đầu thai trở lại cõi trần gian này một lần nữa.

Bàn Thêm Về Chất Lượng Của Não Bộ

Căn cứ vào Kammajjarūpa (kết quả của nghiệp chướng), thì chất lượng của não bộ và hệ thống thần kinh đã được xác định ngay từ khi chúng được gắn vào với trứng được thụ tinh trong lòng mẹ. Tốt xấu ra sao, mạnh yếu như thế nào và sự phát triển của nó hướng về phía nào hay được đảm nhận đã được thiết lập ngay từ khoảng không gianthời gian đó. (tuy nhiên, cho dù cũng phải trải qua thay đổi hay được điều chỉnh sau này; với điều kiệnảnh hưởng hạn chế lớn hơn) điều này giống hệt như một cây sẽ mọc lên như thế nào, tốt hay xấu đều đã được tiền định bởi chất lượng được gắn kết trong hạt giống cây đó.

Rõ ràng là phải có “điều gì” trong hạt giống đó, cho dù là gì đi chăng nữa, có khả năng kiểm sóat được sức tăng trưởng của cây, sự phát triển của nó và cuối cùng là cả quãng đời tồn tại của cây đó. Nếu đối với một hạt giống là như thế chắc hẳn cũng như vậy đối với khả năng của trứng được thụ tinh trong bào thai người mẹ vậy.

Điều mang đầy “sức mạnh to lớn phi thường” được Phật giáo gọi là “Thức” giúp tái sanh (patisandhi). Chúng tôi mời các bạn quay trở lại với lời dạy của Đức Phật : “Ôi ngài Ānanda, liệu thức không muốn đầu thai vào trong lòng mẹ có thể khiến cho danh và sắc được nẩy nở ra trong đó hay chăng? “ trả lời câu hỏi này thì vị trưởng lão đã cho là điều không thể.

Cũng giống như “đôi điều bí hiểm” nằm trong hạt giống lại có khả năng kiểm soát suốt cả tuổi thọ tối đa của cây đó. Cũng vậy điều kỳ diệu bí hiểm này gọi là thức cũng khống chế thân xác chúng ta, không những chỉ trong giai đoạn còn ở trong lòng mẹ, nhưng còn trong suốt cả quãng đời con người đó. Trong mọi tế bào của thân xác đều có thức ở đó.

Mọi hoạt độngchủ đích như hấp thụ, loại trừ, tiêu hóa và đốt cháy tự nhiên (toàn bộ những hành vi chủ ý hay vô ý thức) đều nằm trong vùng kiềm tỏa của thức cả, với một trung tâm sinh học nằm trong não bộ.

Một công việc luyện tập thiền đầy nhiệt tình và phấn khởi với những hoàn cảnh thuận lợi sẽ đem lại kết quả trong trí óc và hệ thống thần kinh được “ khỏe mạnh” có nghĩa là sẽ được năng động cho đến tận tuổi già hay cả cho đến khi chết.

Tất cả các vị A-la-hán nghĩa là những vị đã được giải thoát toàn bộ” cho dù đã sống được hàng trăm tuổi hay ngay cả còn nhiều hơn nữa đều được cho là có khả năng duy trì trí óc của họ khỏe mạnh cho đến khi họ qua đi vĩnh viễn.

Nhưng nếu những sinh hoạt đó chỉ bắt đầu ở tuổi già thì khó lòng có thể hy vọng được kết quả như vậy (cho dù vẫn tốt hơn là không làm gì cả.) điều này giống như một người bắt đầu luyện tập thân xác vào lúc tuổi già. Cho dù vẫn tốt hơn là chẳng luyện tập gì cả. Tuy nhiên ta sẽ không kỳ vọng có được một kết quả đầy ý nghĩa giả như họ đã tập luyện sớm hơn, ngay từ thuở còn trẻ hay ở vào tuổi trưởng thành.

Những lợi ích vật chất do ánh sáng thiền đem lại.

Một thí nghiệm được tiến hành để xem ánh sáng thiền có giúp gia tăng trí nhớ hay không. Người ta thực hiện nơi một đứa trẻ có khả năng tạo ra nguồn sáng đang khi nhập thiền. Đứa trẻ được thí nghiệm yều cầu quan sát và nhớ một trăm đồ vật được đánh số từ một đến một trăm và chỉ được phép nhìn có một lần duy nhất mà thôi. Thí dụ số 1 là chiếc bút, số 2 là chiếc bút chì, số 3 là một cây thước kẻ v.v… và cứ tiếp tục cho đến số 100, điều này có nghĩa là 100 vật dụng khác nhau được đánh số cẩn thận. Sau đó người ta yêu cầu cậu bé trả lời những câu hỏi, tỷ dụ như số 15 là gì, số 45 là gì, v.v…. cậu bé đều trả lời đúng hết, chẳng sai một lần nào.

Cậu nói đúng tất cả các số và đồ vậtđược đánh số. Cho dù những vật đó không theo một thứ tự nào cả. Một điều thật ý nghĩa đó là cậu bé trả lời ngay lập tức, không chần chừ gì cả. Cậu ta cho biết, sở dĩ cậu làm được như vậy là vì cậu đã nhìn thấy được cả con số và đồ vật đó cùng một lúc ngay khi được hỏi. Cậu làm được vậy là nhờ vào ánh sáng do sức mạnh nhập thiền đem lại. Chính vì thế cậu đã trả lời trót lọt những câu hỏi đó.

Kinh Phật chúng ta biết Trưởng lão Ānanda có khả năng tiếp thu thuộc lòng, nghĩa là nhớ được bất kỳ điều gì Đức Phật nói với ngài cho dù ngài chỉ được nghe một lần mà thôi.

Trí nhớ của ngài không hề sai lầm như thể những lời của Đức Phật được ghi lại trên băng ghi âm sẵn sàng phát trở lại bất kỳ lúc nào, với những chi tiết liên quan những gì Đức Phật đã thuyết pháp hay diễn giải Kinh Phật đó ở đâu, khi nào và ngài nói với ai. Đây là bằng chứng cho thấy ngài là một người chuyên có khả năng đạt đến mức độ trí nhớ vượt trội hơn hẳn do bởi ngài đã tu luyện được ở mức độ cao nhất, khiến ngài trở thành thần đồng trong lãnh vực đặc biệt này.

Một tâm đã được thiền kiểm soát đến như vậy lại tỏ ra rất bình thản, thanh tịnh và thanh lọc khỏi mọi triền cái. Chính vì thế tâm của ngài đã trở thành nhậy bén có nghĩa là ngài quan sát rất nhanh, nhận biết, am hiểu và nhớ lại được hay là hồi cố lại, có nghĩa là khơi dậy được những gì đã chìm ngập và tích tụ tận nơi sâu thẳm thức.

Một cuộc nghiên cứu về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) đặc biệt phần nói về Sở Hữu Biến Hành (Sabbasādhārana Cetasika) còn tiến xa hơn là chỉ làm rõ về điểm này. Trong trường hợp có bất kỳ sai sót nào xảy ra trong qui trình được đề cập đến ở trên, chính là do tâm sát na đó đã không được bình thản cũng như thanh tịnh đúng mức.

Giống như một máy quay phim (camera) có chất lượng không hoàn như ý muốn, không hy vọng tạo ra được kết quả tối ưu theo ý muốn. . . Điều này dẫn đến một sự thật là đàng sau những khác biệt đa dạng hay những bất bình đẳng trong cuộc sống, cho dù là cuộc sống con người, loài vật hoặc cả thảo mộc trên cõi đời này hay ở bất kỳ cõi nào khác, được gọi chung là các cõi Hóa Sinh (Opapātika).

Nhân duyên xác định chính là sự thiếu sót đó, trước tiên là ngay tại cội nguồn sinh vật đó, thứ hai là tại những công cụ hay những nguồn thể hiện hay hành động. Nhân duyên này có thể thấy rõ, chẳng hạn như nơi người mù, người điếc hay người câm. . . Một khi những cơ quan giác quan này được điều trị khỏi thì người đó vẫn có thể nhìn thấy được nghe được và nói được.


Nhân duyên trước đó lại ám chỉ những khác biệt vô tận nơi các sinh vật sống trên cõi đời này, với những khác biệt thật là da dạng về chất lượng của bộ não và hệ thống thần kinh, những điều này phản ảnh sự khác biệt ngay tận nguồn gốc có nghĩa là chất lượng hay là sự trưởng thành của thức. Đến đây chất lượng hay mức độ trưởng thành có thể được cải thiện dưới nhiều hoàn cảnh thuận tiện được hướng tới đích đúng đắn.

Theo Phật giáo thì đường hướng “đúng đắn” này hiểu theo một nghĩa nào đó chính là việc nắm giữ “Giới” (Sīla) Định (samādhi) và Tuệ (paññā). Đây chính là những điều một khi chúng ta đã kết hợp và trộn lẫn được một cách hoàn chỉnh, thì đây chính là đường lối duy nhất dẫn đến thanh tịnh tuệ giác. Chẳng còn con đường nào khác. Dưới đây là đoạn trích trong Kinh Pali “Eseva maggo natthañño dassanassa visuddhiyā” (trích trong Pháp Cú Kinh –Dhammapada-) 

Những Khía Cạnh Phi Vật Chất Chứ Không Phải Vô Sắc Nơi Thân Xác

Bất kỳ từ ngữ nào, nói hoặc viết, và bất kỳ những gì được phát minh ra hay được con người tôn tạo nên – tất cả đều hướng về một điểm đó là một “cấu trúc” tâm nói hoặc làm ra. Những hành vi này phản ánh tầm nhìn, tài khéo, luyện tập và khả năng siêu nhiên của tác giả tạo ra chúng. Điều này thật rõ ràng và hết thảy mọi người đều có thể nhận ra. Nhưng có một sự thật tuy ít rõ ràng nhưng vô cùng ý nghĩa không thể bỏ qua được, như đã bàn đến ở trên, đó chính là “cấu trúc” của não bộ và toàn thể các bộ phận hay xứ khác và một phần của cơ thể phản ánh lại đó là “Thức”. Chúng là những biểu hiện trên bình diện cõi đời này một khả năng Phi vật chất, nhưng không mang đặc tính Vô Sắc hoàn toàn. Toàn bộ các tế bào trong cơ thể đều có liên hệ trực tiếp với nhau trong một mạng lưới phức pháp của một tháp canh nghĩa là não bộ. Dưới sự điều khiển giám sát của Thức.

Một người hiện đại ngày nay thường có khuynh hướng đi đến kết luận là sự phát triển của thân thể và các bộ phận trong thân xác đó chỉ lệ thuộc vào các yếu tố vật lý mà thôi, có nghĩa là đồ ăn và nhiệt độ.. . .

Một lần nữa chúng ta phải nói đây là một kết luận sai lầm. Còn có nhiều điều khác hơn là chỉ để nhìn thấy bằng mắt. Chúng ta thử nghĩ coi, nếu chẳng còn gì khác hơn ngoài những khía cạnh vật lý của cuộc sống, thì tại sao những tế bào có thể nhận ra và chỉ chấp nhận điều có lợi cho chúng và rồi loại bỏ hay từ chối không chấp nhận bất kỳ điều gì thất lợi và gây phương hại cho chúng. Rõ ràng một chi tiết phi vật chất này từ đâu mà ra? tại sao chúng lại biết cách loại bỏ khỏi nguyên một hệ thống điều gì độc hại hay vô dụng? Cách cư xử hay hành vi của các tế bào đó, nếu bạn muốn sử dụng từ này, giống y hệt như một con người, và một con vật chỉ chọn lựa những gì là tốt và có lợi cho họ mà thôi. Sự khác biệt đó là một con người và một con vật có thể chú tâm hay ý thức thực hiện như vậy. Trong khi đó các tế bào cũng có thể làm được như vậy theo bản năng hay theo tiềm thức

Cũng một cách thức đó, thì sự tăng trưởng và phát triển của não bộ tiến tới theo hướng đúng lại không chỉ là kết quả của thức ăn truyền thống hay thuốc men người đó sử dụng. Thật vậy, theo những kiến thức học tập và nghiên cứu não bộ chỉ có thể hy vọng tăng trưởng và phát triển được cùng với sư tăng trưởng của cả một hệ thống não bộ như là một kết quả.

Nhưng nếu tâm đó liên tục bị phá rối, thường xuyên bị giao động do những tư tưởng và tình cảm không lành mạnh, bị nản trí và rối loạn do những trở ngại và những vấn đề khó khăn và cuối cùng là mất kiềm chế thì ta có thể hy vọng có được điều gì do những kiến thức khoa học và những nghiên cứu đem lại? Trong trường hợp như vậy thì lợi nhuận nếu có, sẽ chẳng bù lại được với những hậu quả tai hại đem lại. Cán cân sẽ nghiêng về những điều chống thay vì nghiêng về những điều thuận. Kết quả cuối cùng đơn giản là hãy nhìn xem. Điều này chứng tỏ ý nghĩa to lớn của điều phi vật chất, chẳng phải là khía cạnh vô sắc giới (siêu nhiên) của thể xác mà ra hay sao.

Mặt khác, chúng ta còn được một số nhà văn, nghệ sĩ và các vị thánh đã có được khối óc không hề bị suy suyển do tuổi tác và những điều kiện do thân xác gây ra. Không cần nói chi đến các bậc thánh A-la-hán trong Phật giáo. Toàn bộ các ngài cũng biết đến do các ngài đã duy trì được phẩm chất não bộ và sự trong sáng của tâm cho đến khi họ qua đi sang thế giới bên kia. Điều gì là nhân tố quyết định đàng sau khía cạnh vật chất trong tất cả những trường hợp như vậy?

Chắc chắn phải có đôi điều gì đó vượt khỏi phạm trù bình thường và không thể tập luyện nơi con mắt cũng như nơi các giác quan khác. Đây chính là chất lượng của Thức, nói một cách cụ thể, đây chính là công việc thiết lập khả năng nhập vào thiền vậy, cho dù chưa đạt được mức độ jhāna cao ngất hay thiền chứng (samāpatti). Nói một cách chính xác, đây chính là tu thiền đi đôi với tuân giữ Giới luật và luyện Tuệ giác (paññā) nội trong hệ thống Phật giáo đã được đề cập đến ở trên.

Cần Nhiều Cố GắngThời Gian Đề Đạt Đến Thành Tựu Cao Hơn 

Để đạt đến được những thành tựu về phép Thần Thông (Abhiññā) hay là những sức mạnh siêu phàm đang nhắm tới. Một công việc luyện tập nghiêm khắc và đầy nhiệt huyết và một kỷ luật nghiêm ngặt đòi hỏi người thiền sinh (aspirant) phải tuân thủ từ đầu đến cuối, và cũng cần phải có nhiều thời gian dành cho công việc luyện tập này, có đôi khi còn dài hơn nhiều so với yêu cầu để có được kết quả như ý trong luyện tập kiên trìquyết tâm cao.

Có đôi khi còn cần đến cả một đời người hay nhiều kiếp khác nữa. Đối với những ai chỉ mới bắt đầu trên cõi đời này, đạt đến được những khả năng thần thông siêu phàm hay siêu nhiên này cần đòi hỏi một mức độ luyện tập đặc biệt và khác thường để phát triển trí óc kèm theo là một thái độ “diệt dục” cao độ nơi tâm. Những phẩm chất này được tích lũy trong một thời gian dài mà kết quả là với việc đạt đến bậc Thiền Jhana cao ngất và tuyệt vờithiền chứng (samapatti). Đó là đỉnh cao nhất của tu luyện thiền.

Từ Kinh Phật chúng ta cũng được biết các vị Thánh A-la-hán thường rút vào trong thinh lặng và nhập thiền như là nơi ở bình yên và hạnh phúc tột độ trong cuộc sống đời thường. Điều này diễn ra sau khi họ đã đạt đến hoàn hảo tột đỉnh và giải thóat khỏi mọi đau khổ phiền não. Họ không còn phải bị tái sanh nữa.

Vì những người trần tục thường có thể phải trải qua một tình trạng vỡ mộng và không muốn được tái sanh. Bánh xe (vòng) tái sanh và kết quả của tái tử chưa được phá vỡ.

Điều quan trọng hơn là họ không có thể chọn cho mình được cõi nào hay một địa điểm nào hay cả việc tái sanh nữa cho đến khi nào họ đạt đến được một mức độ kiềm chế và diệt dục đủ mạnh thì mới có được một mức độ tự lựa chọn thích đáng cho việc tái sanh. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi nào họ đạt đến được một mức độ nhập thiền đủ để đẩy lùi những tư tưỏng và tình cảm không thích hợpbất thiện.

Đây là lý dophương cách hành thiền phải được phát triển tối đa theo đúng hướng và đạt được mức độ tin cẩn để tránh khỏi Hội Chứng Miễn Nhiễm Mắc Phải trong lãnh vực siêu nhiên vậy (Spiritual Aids - Sida).

Phần 1


[1] Ba mươi cõi gồm có: 4 cảnh khổ (apāya). 6 Cõi dục giới (Kāmāvacara), 16 Cõi thiền sắc giới (rūpabrahma) và 4 Cõi thiền vô sắc giới (Arūpabrahma) 

[2] Đây là điều trích từ một quan điểm qui ước nghĩa là theo như mọi người đều hiểu. Nói một cách chính xác có nghía là xét cho cùng con người ta phải được tái sanh nơi cõi Hóa Sinh (Opapātika) trước khi con người ta chết khỏi cõi đời này. Xác còn hay hết này (mở ngoặc đóng ngoặc) có thể thực hiện được một sự “liên kết tương quan” có thể nói như thế, đối với việc tái sanh cho thân xác do tâm tạo nên. Đã tàn lụi khỏi cõi đời này. Điều này rất khớp với y tương sinh (Paṭiccasamuppāda). Bất kỳ khi nào có tâm lúc đó có “danh và sắc” và ngược lại, nói cách khác, bạn không thể cho là mình đã vượt qua được một con suối cho đến khi nào bạn đặt được bước chân vững chắc trên hòn đá kê để bước chân qua bên bờ bên kia dòng suối và đặt chân an toàn trên đó, và để lại đàng sau là bờ sông hay hòn đá bạn vừa dời khỏi. 

[3] Thực chất lúc nào cũng có nguồn sáng nhưng không chú ý đến nguồn sáng mà thôi và lúc đó ta không ý thức được sự hiện diện của nguồn sáng. Vì nếu không có nguồn sáng nào cả , thì chẳng có cảnh vật bao giờ.

[4] Điều này có nghĩa là chỉ một phần nhỏ hình ảnh và không được rõ ràng.

[5] Điều này có nghĩa là một số lượng lớn và rõ ràng.

[6] Tam giới đó là: Cõi Dục giới. Cõi Sắc và Cõi Vô Sắc

[7] Cửu Trùng: hiểu theo nghĩa đen chín hữu tình cư này là nơi cư ngụ của các giống hữu tình có nghĩa là cõi các chúng sanh. 1.- có thân khác nhau và tưởng khác nhau; 2.- có thân xác khác nhau nhưng tưỏng giống nhau. 3. có thân xác giống nhau nhưng tưởng khác nhau; 4.- có thân xác và tưởng giống nhau. 5.- chúng sanh vô tưởng; 6.- những kẻ nào đã đạt đến thiền mức vô sắc giới được gọi là Ākāsānañcāyatana (hư không vô biên xứ); 7.- những ai đã đạt đến được bậc thiền được gọi là Āki ñcaññāyatana (vô sở hữu xứ); 8.- những ai đã đạt đến được thiền bậc Āki ñcaññāyatana (vô sở hữu xứ) và 9.-những ai đã đạt đến mức độ thiền gọi là Nevasaññā nāsaññāyatana (phi tưởng phi phi tưởng xứ) (Trích tác phẩm Navakanipata thuộc tác phẩm Tăng chi Bộ Kinh (Añguttara Nikaya)



Ý kiến bạn đọc (0)

Ảnh Đẹp

Có Sắc Không Hương

Một ngày kia, nữ hoàng Shaba gởi đến vua Solomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu.Đó...