Nói đến ‘cao/danh Tăng’ Việt Nam, mọi người liền nghĩ đến những bậc tu hành phạm hạnh, có chí nguyện xuất chúng trong việc hộ quốc, hộ đạo, có công đức lớn đối với đạo pháp và dân tộc Việt Nam, đặc biệt những vị đã sinh sống và hành đạo tại Việt Nam
Tuy nhiên, có một vấn đề chúng tôi luôn ưu tư, nếu những bậc hành giả có chí hướng ‘trời phương ngoại’, đem Phật pháp truyền sang các nước khác, có công đức to lớn không những tại xứ sở các ngài hành đạo mà còn đối với Đạo pháp và Dân tộc Việt Nam, quý ngài có được tôn xưng là danh/cao tăng Việt Nam hay không?

Khi nói về An Nam tông, chúng ta không thể không nhắc đến các thế hệ Tổ sư người Việt có sự đóng góp to lớn cho Phật giáo Thái và nước nhà Việt Nam như Sơ tổ Lâm Tế: Nguyên Bảo - Chánh Tạng, Sơ tổ Tào Động: Tân Thành - Tánh Huyền và các thế hệ tổ sư tiếp nối như HT.Thông Huệ-Chân Hưng (người dạy Phật giáo Đại thừa cho vua Mongkut, Rama IV của Thái - Sơ tổ của phái Thammayuttika-nikāya); HT.Phổ Liên - người có công trong việc đóng góp những nghiên cứu về lịch sử của phái An Nam; Hòa thượng Tăng trưởng Bình Lương (Sư cụ Ba - người con của đất Hương Sơn, Hà Tĩnh, Bậc Trưởng tông của Annamnikai một thời, người từng cưu mang Bác Hồ tại chùa Từ Tế khi Người sang hoạt động tại Thái giai đoạn 1928-29).
Ngoài ra còn có các Hòa thượng, Đại đức khác như HT.Bản Mặc-Viên Mãn, HT.Bích Vân (Võ Văn Hạnh - Huế), Đại đức Pháp Thiền (Võ Văn Khước, Huế)... nhưng nổi bật hơn cả là Tổ Bảo Ân người Kiên Giang.
Trong giới hạn bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ trình bày về nhân cách và hành trạng của bậc ‘Danh tăng An Nam tông’ tại Thái Lan vốn ít được biết đến tại Việt Nam nói chung và Phật giáo nước nhà nói riêng. Bài viết xin dùng từ ‘Tổ Bảo Ân’ thay cho các tôn hiệu khác vì người Thái Lan và tu sĩ An Nam tông vốn đã quen gọi như thế.
Tiểu sử:
Do sự cách biệt về địa lí và hoàn cảnh lịch sử, nên chưa có bài nghiên cứu thực thụ nào về Tổ Bảo Ân - vị danh sư của dòng thiền An Nam tông Thái, ngoại trừ một bài phụ lục lược khảo (chỉ vỏn vẹn một trang A.4) về ngài của tác giả Thanh Vân[2] nhưng lại bị gán cho là tiểu sử của HT.Phổ Sái - một trong hai nhục thân (với HT.Hổ Phách) còn lưu lại của Phật giáo An Nam tông. Tại Thái Lan, người Thái cũng chỉ biết Tổ Bảo Ân là người Việt chứ không rõ ngài đến từ tỉnh/thành nào ở Việt Nam.
Theo tác giả Thanh Vân, ‘Hòa thượng Báo Ân tên thật là Nguyễn Văn Báo, sinh năm Đinh Mùi 1906[3] tại xã Vĩnh Thanh Vân, [tổng Kiên Hảo], huyện Châu Thành, tỉnh Rạch Giá (nay là phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang)’. Hòa Thượng là bậc đồng chơn xuất gia, thọ giới Sa-di năm 1921 tại chùa Sắc tứ Tam Bảo và được thầy bổn sư - người đồng hương, đạo hiệu Hồng Nguyện - Trí Thiền[4]đặt pháp danh là Nhật Đáp tự Bảo Ân. Trong thời gian này, ngoài lúc theo thầy học đạo, Tổ còn tham gia lớp học Phật pháp do HT.Khánh Hòa tổ chức. Bốn năm sau, khi vừa tròn 20 tuổi tức năm 1925, ngài thọ giới Tỳ-kheo tại Trường Hương chùa Long Phước, tỉnh Trà Vinh do HT.Khánh Hòa làm Pháp sư.
Tuy nhiên, bài vị tại Điện Tổ sư Bảo Ân tại chùa Cảnh Phước (Bangkok) lại ghi: ‘Từ Lâm Tế Chánh tông, Tứ Thập nhứt thế, thọ Tỷ-kheo giới, đệ tử pháp danh, thượng Nhật hạ Đáp, tự Bảo Ân lão giác linh’ = [Kính lễ] lão giác linh, thuộc dòng Chánh tông Lâm Tế [Đạo Bổn[5]], đời thứ 41, thọ Tỳ-kheo giới, pháp danh Nhật Đáp, tự Bảo Ân. Hơn nữa, bản Hán chép tay dùng vào dịp cúng Tổ, do HT.Tịnh Liên đương kim trụ trì chùa Cảnh Phước (Bangkok) cung cấp, lược ghi về Tổ Bảo Ân: ‘Sanh Đinh Mùi niên, nhị nguyệt, chấp nhị nhựt, cát thời. Chung, Giáp Thìn niên, chánh nguyệt, chấp nhứt nhựt, Mão thời. Hưởng dương ngũ thập bát tuế’ = Ngài sinh ngày 22 tháng 2 năm Đinh Mùi [ngày 4 tháng 4 năm [1906], 1907], viên tịch giờ Mão (từ 3-5 giờ) ngày 21 tháng Giêng, năm Giáp Thìn [ngày 4 tháng 3 năm 1964], hưởng dương 58 tuổi.

Theo lời kể của HT.Tịnh Liên, Tổ Bảo Ân cũng để lại nhục thân (di thân), sau hơn tuần lễ mà thân thể vẫn hồng hào, thơm tho, nhưng thể theo di nguyện của Tổ là được chôn cất, nên chùa đã cho ‘nhập tháp’ nhục thân Tổ bên dưới Điện tưởng niệm ngài, tại chùa Cảnh Phước.
Ở đây có vài sai biệt, căn cứ vào bản viết tay tại chùa Cảnh Phước, Tổ Bảo Ân ‘hưởng dương 58 tuổi’ như vậy nếu tính theo dương lịch 1964 - 1906 là 58 tuổi, đúng theo cách tính dương lịch của người Thái. Nhưng nếu tính theo tuổi Việt thì phải thêm 1 tuổi âm nữa thành ra 59 tuổi. Ngoài ra, theo tác giả Thanh Vân (sđd), năm sinh của Tổ Bảo Ân là Đinh Mùi 1906, nhưng khi tra niên biểu lịch âm dương thì năm Đinh Mùi thuộc 1907, còn năm 1906 thuộc năm Bính Ngọ.
Một sai biệt khác, theo tác giả Thanh Vân, pháp danh của ngài là Báo Ân nhưng chúng tôi vừa tìm được một bản ‘Kiết/tòng Hạ’ của Tổ[6] và những ghi chép còn lại tại chùa Cảnh Phước như đã nêu trên, pháp danh Bảo Ân có vẻ chính xác hơn. Cuối cùng về năm thọ giới, nếu năm 1926 (Bính Dần) mới thọ giới, thì năm 1925 sao ngài lại qua Thái được. Sai lầm này có thể là do cách tính lịch âm lịch của Thái và Việt đôi khi sai lệch nhau một năm vậy.
Hàng năm vào ngày mùng 3, mùng 4 tháng 3 Tây lịch[7], tại chùa Cảnh Phước, Bangkok - nơi thờ Tổ Bảo Ân - sẽ tổ chức lễ húy kỵ Tổ sư. Đây là lễ lớn và quan trọng đối với An Nam tông nhằm kỷ niệm một vị tiền bối hữu công của tông phái với sự tham dự của đông đảo tu sĩ, Phật tử An Nam tông Thái Lan, một vài học Tăng Việt Nam và thỉnh thoảng cũng có sự tham gia của đại diện Đại sứ quán Việt Nam tại Thái.
Hành trạng tại Thái Lan
Sau thời gian tu học với thầy Bổn sư - HT.Trí Thiền tại chùa Sắc tứ Tam Bảo và thọ giáo tại Tăng học đường do Tổ Khánh Hòa tổ chức, cuối năm Ất Sửu (1925), Tổ Bảo Ân theo thầy qua Thái Lan để hành đạo. Đây là bước ngoặt quan trọng trên đường hoằng hóa của ngài nơi đất khách quê người - miền đất của nền Phật giáo Nam truyền Siam đã có lịch sử trên 2.000 năm. Chúng ta có thể khảo cứu hành trạng của ngài qua những nét chính: hộ quốc, trước tác, nghi lễ và mỹ thuật.
Hộ quốc:
Thời gian đầu, với hành trạng hộ quốc an dân, Tổ Bảo Ân đã vân du khắp vùng đồi núi Đông Bắc Thái Lan - nơi có nhiều đồng hương Việt Nam sinh sống. Do địa hình hiểm trở khó đi lại, nên ngài nhiều lúc phải dùng đến ngựa, hình ảnh còn lưu lại tại chùa Cảnh Phước là một minh chứng.
Đến Bangkok, ngài lưu trụ tại chùa Hội Khánh[8] (會慶寺, วัดมงคลสมาคม, Wat Mongkol Samakhom) và sau này về trụ trì ‘Sắc tứ Trấn Quốc Cảnh Phước tự’ (景福寺, วัดสมณานัมบริหาร, Wat Samananam Boriharn, tên Thái do Vua ban) tại số 416, đường Luk-luang, phường Mahanak, quận Dusit, thủ đô Bangkok, mail box 10300[9]. Tại Thái, ngài là đầu mối thông tin hoạt động ngoài nước Việt để cung cấp tài liệu, hỗ trợ kinh phí cho phong trào đấu tranh cứu nước và chống thực dân Pháp tại quê nhà.
Một phần hạn chế về tư liệu, vả lại Phật giáo Thái Lan là nền Phật giáo Nam truyền nên việc một vị sư tham gia vào hoạt động chính trị là cấm kỵ, không được tán dương và tôn trọng, cho nên chúng tôi chỉ xin trích dẫn đôi nét về vấn đề này. ‘Qua lời kể của bác Lê Văn Một và Trần Văn Giàu - những người tiên phong trên con đường xuyên Tây vận chuyển vũ khí từ Thái Lan về miền Nam - Việt Nam qua đường bộ và đường biển của những ngày đầu Nam bộ kháng chiến - rằng: ‘Một vài ngôi chùa Việt ở Thái là nơi tập kết [vũ khí] sau khi thu mua được và chính thầy Bảo Ân là người đã “ngồi trên xe chở vũ khí đi cùng xuống tận bến cảng để đảm bảo xe vận chuyển không bị lục soát” trong chuyến chở 10 tấn vũ khí đầu tiên về Việt Nam và cập cảng Vàm Ông Trang vào ngày 11-7-1946’[10].
Ngoài các sự kiện trên, Tổ Bảo Ân cũng từng tiếp kiến ông Phạm Văn Đồng (sau này là Thủ tướng) tại chùa Cảnh Phước hay ‘sự việc sư Thiện Ân tại chùa Tam Bảo, Kiên Giang’ làm cho cảnh sát Thái và mật thám Pháp tới chùa Cảnh Phước, Bangkok nơi ngài trụ trì, phỏng vấn, tra xét khắp chùa từ chánh điện đến hậu liêu xem có tàng trữ vũ khí, đạn dược hay các phương tiện giúp đỡ chiến tranh cho Việt Nam không.
Trước tác:
Với hạnh nguyện của bậc hành giả hóa đạo ở nước ngoài, bước đầu tiên để hòa nhập với Tăng đoàn tại Thái Lan là vấn đề ngôn ngữ, phương thức hành đạo và đời sống tu sĩ. Theo ghi chú tại chùa Cảnh Phước và kết quả phỏng vấn HT.Diệu Giác Tịnh Liên - vị học trò từng thọ giáo với Tổ Bảo Ân - thì ngài rất giỏi chữ Hán cổ và tiếng Thái. Cụ thể, ngoài các thủ bút rất đẹp còn lưu lại tại chùa, Tổ Bảo Ân còn trước tác ‘trên dưới 10 đầu sách ngắn’ chủ yếu là giáo lý giảng dạy cho Phật tử tại gia người Thái, viết bằng tiếng Thái.
Nghi lễ:
Về nghi lễ, An Nam tông chỉ có nhị thời khóa tụng gồm công phu sáng (từ 8-9 giờ sáng)[11], công phu chiều (4-5 giờ chiều) và nghi thức thù ân sám hối vào ngày Rằm và 29/30 mỗi tháng. Kinh điển chỉ gói gọn vào các kinh: Di Đà, Hồng danh, Mông sơn, Phổ môn, Chú Lăng Nghiêm. Nghi chẩn tế dùng bản khoa ‘Mông sơn thí thực du già đại tập’[12], nghi Công Téch [tiếng Tiều Châu và Hán Việt là Công Đức] và Chiêm Tinh Bái Đẩu [cúng sao hạn] - hai nghi sau chỉ có ở Thái Lan và không thấy truyền tại Việt Nam, đặc biệt trong nghi Công Téch, có phần nghi Quá Kiều (qua cầu Nại Hà) từng xuất hiện vào thế kỷ 17 nhưng nay chỉ còn trong văn học của Nguyễn Du: ‘Cầu Nại Hà kẻ trước người sau/ Mỗi người mỗi nghiệp khác nhau/ Hồn siêu phách lạc biết đâu bây giờ’.
Ngoài ra, các nguyên mẫu của loại tranh Thập Vật vốn rất cổ và từng xuất hiện tại Việt Nam trước cả tranh Đông Hồ vẫn được tìm thấy tại các buổi lễ của An Nam tông ví dụ hình mẫu một vị cầm bảo cái trong bức tranh ‘Bảo Liên’ vẫn còn được tái hiện trong nghi thức Đề Phan, Công Téch.

Tìm hiểu nghĩa lý của các bài kinh tụng không quá khó vì đã có ít nhiều truyền bản hay trong kinh tạng nên chúng ta có thể tra cứu được, song vấn đề âm nhạc, kỹ thuật tán tụng thì lại khá phức tạp. Nghi thức tán tụng của An Nam tông, không phải lá tán rơi, xắp, trạo của Huế, hay tán Phú yên, Bình Định, miền Tây… mà là một bản ‘phối âm giao thoa giữa Việt - Thái - Hoa’. Do vậy, để thực hành nghi lễ An Nam tông, các Tổ sư Việt đều phải học lại từ đầu. Tuy nhiên, theo các vị Đại lão Hòa thượng của An Nam tông thì Tổ Bảo Ân là vị Thầy Cả[13] rất giỏi. Ngài không chỉ thông lầu hết thảy các nghi lễ tán tụng mà còn là người có công rất lớn trong việc sáng tạo ra các nghi thức, điệu tán, bài tụng kết hợp giao thoa giữa 3 nền âm nhạc Việt - Thái - Hoa thống nhất tạo nên một cách thức tán tụng rất hay với nhạc cụ gồm trống, linh, sáo, khánh, đẩu, đàn cò, đàn organ, đàn kìm, chuông, mõ… gắn micro, trong cùng một buổi lễ. Việc kết hợp các loại nhạc cụ nói trên là điểm nhấn đặc biệt của nghi lễ tán tụng của An Nam tông - mà Tổ Bảo Ân là một trong những người có công sáng tạo và truyền thừa. Chính vì sự kết hợp đa âm sắc và đa văn hóa này mà An Nam tông luôn có mặt trong hầu hết các nghi lễ của Hoàng gia Thái.
Tính vùng miền là một đặc trưng khác trong nghi lễ An Nam tông. Vì là người miền Tây nên âm điệu tán tụng của người miền Tây thể hiện rõ nét trong lối nhã chữ, ví dụ: Nam mô Đại Trí Dăng Thù Sư Lợi Bồ-tát, Nam mô Địa Tạng Dương Bồ-tát… Tất cả V đều được thay bằng chữ D. Theo ĐĐ.Thích Thiện Tài - một du học Tăng người miền Tây, cho rằng các điệu tán: Tự Quy y, hay Bồ-đề diệu pháp biến trang nghiêm đều mang phong cách tán miền Tây và có dấu ấn của Tổ Bảo Ân trong đó. Do những đóng góp của Tổ đối với Phật giáo Thái Lan mà vua Rama IX, Bhumibol Adulyadej của triều đại Chakris (Chất Trì) đã sắc phong Tổ thụy hiệu là ‘Ông-sổ-ra-phan-má-thụ-rốt-Bảo Ân (องสรภาณมธุรส (เบ๋าเอิง))' - nghĩa là Bậc Thầy Cả có biệt tài nghi lễ, tán tụng. Chỉ xét điều kiện này thôi, theo 10 khoa[14] của Cao tăng truyệncủa Tuệ Cảo và Tục cao tăng truyện của Đạo Tuyên để phong cao/danh tăng thì Tổ Bảo Ân đã là danh tăng (Đọc Tụng (khoa số 8)) rồi.
Mỹ thuật:
Trong thời gian lưu trú giáo hóa tại Thái Lan, ngoài việc trước tác trên dưới mười đầu sách, hướng dẫn nghi lễ, dấu ấn của Tổ Bảo Ân còn được lưu lại qua các công trình văn hóa, thờ phụng đóng góp cho Phật giáo Thái Lan. Trước hết là vấn đề đúc mẫu tượng bác sĩ Kỳ Bà (Pāli: Jīvaka) mà người Thái gọi là Mỏ Chi Vốk [Mỏ= Bác sĩ, Chi Vốk = Jīvaka] hay Luẩng Pù Chi Vốk - vị bác sĩ cùng thời và thân cận của Đức Thế Tôn.
Duyên khởi tạo tượng bắt nguồn từ sự khác biệt giữa truyền thống tôn thờ của Phật giáo Nam và Bắc truyền. Trong khi Phật giáo Bắc truyền có hình tượng Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang - vị Phật Bác Sĩ - thì đối với Phật giáo Nam truyền tại Thái Lan lại không. Để lắp vào khoảng trống này, Tổ Bảo Ân đã tạo ra mẫu tượng Bác sĩ Kỳ Bà - được tôn thờ như là thần y, Tổ dược của người Thái để họ lễ bái cầu nguyện các vấn đề liên quan đến sức khỏe. Việc tạo nên hình mẫu pho tượng rất đẹp và mang nhiều điểm linh dị. Theo HT.Tịnh Liên, để tạo ra mẫu tượng Bác sĩ này, Tổ đã cung thỉnh các Trưởng lão, Tăng chúng và mời các họa sĩ tạo hình về chùa Cảnh Phước, sau đó dùng mật pháp để ‘giao tiếp’ với bác sĩ Kỳ Bà và thỉnh mời vị bác sĩ có tuổi đời hơn 2.000 năm này hiện về trên ngón tay cái của Tổ để các họa sĩ vẽ phác thảo, tạo hình và truyền thần cho pho tượng.
Sau khi vẽ xong, Tổ hỏi ý kiến ngài Kỳ Bà xem có chỉnh sửa gì không, và sau khi được sự đồng ý của ‘vị bác sĩ’ đặc biệt này thì mới đem mẫu tượng đi đúc đồng. Pho tượng Bác sĩ Kỳ Bà đầu tiên tại Thái Lan do Tổ Bảo Ân thực hiện bằng đồng, hiện đang tôn thờ tại chùa Cảnh Phước (Bangkok) đúc năm Phật lịch 2499 (1955).
Ngày nay, mẫu tượng này được tôn thờ trên hầu hết các tỉnh thành, không kể chùa Thái Nam truyền, Đại thừa Hoa tông, hội quán, hay giáo quán tại Thái Lan. Ngoài ra, Tổ Báo Ân còn cho đúc các mẫu Bác sĩ Kỳ Bà nhỏ để làm mặt dây chuyền bằng vàng, đồng và thạch cao được giới chơi tượng cổ ưa chuộng, sưa tầm và có giá trị khá cao, đặc biệt là mẫu tượng nhỏ bằng vàng đúc năm Phật lịch 2499 hiện nay rất hiếm và có giá trị lớn. Đối với người Thái, giá trị của pho tượng không hoàn toàn phụ thuộc vào chất liệu mà nó được đúc nên mà quan trọng nhất là vào giá trị tu tập, đạo hạnh và sự gia trì của người đúc nên pho tượng đó.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng trong quá trình hành đạo nơi xứ người, Tổ đã phương tiện sử dụng pháp môn ‘gọi hồn’, giao tiếp với người ở cõi khác mà ngày nay chúng ta hay gọi là ngoại cảm, và sau khi Tổ Bảo Ân viên tịch năm 1964, An Nam tông Thái Lan không còn ai thực hiện được khả năng này. Theo đó, phương pháp ngoại cảm đã có lịch sử hình thành từ rất sớm, cụ thể là Tổ Bảo Ân đã thực hiện ngoại cảm từ khoảng 60-90 năm về trước, khi Tổ bắt đầu hành đạo tại Thái Lan từ 1925.
Ngoài pho tượng Bác sĩ Kỳ Bà, Tổ Bảo Ân còn là người đã kiến tạo và an vị mẫu tượng Tứ Diện Phật - mà thực chất là thần Phạm thiên Brahma trong truyền thống Hindu giáo - tại trung tâm mua sắm nổi tiếng nhất Thái Lan là khu Pratunam, nơi mỗi ngày có rất nhiều du khách từ khắp thế giới đến lễ bái, cầu nguyện. Trong những năm cuối đời, Tổ Bảo Ân còn phác thảo đại trùng tu lại già-lam Cảnh Phước quy mô tráng lệ, nhưng khi công trình còn đang dang dở, chỉ nằm trên bảng vẽ kiến trúc thì vào ngày 21 tháng Giêng, năm Giáp Thìn [ngày 4 tháng 3 năm 1964] Tổ Bảo Ân viên tịch.

Vào ngày 11 - tháng 12-2017, tại chùa Cảnh Phước (Bangkok) đã tổ chức lễ gia trì mẫu tượng Tổ Bảo Ân. Và như vậy, tính tới thời điểm hiện tại, Tổ Bảo Ân là vị thầy Việt thứ 2 được người Thái đúc tượng tôn thờ, phát hành rộng khắp[15]; trước đó là mẫu tượng ‘Bồ-tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân’ do một Việt kiều tại Thái làm thí chủ và cũng làm lễ gia trì tại chùa Cảnh Phước này.
Phần kết:
Công đức và hành trạng của Tổ Bảo Ân trên đất nước chùa tháp Siam và quê hương Việt Nam là không nhỏ, đúng như câu đối trong Tổ đường ca tụng: “Bảo quang Tây đài ký lôi âm, Ân huệ từ ái chiếu phàm tâm” - Ánh Bảo đài Tây ghi lời sấm, Ân huệ từ ái rọi lòng phàm.
Ngài đã đến và đi thể theo hạnh nguyện hóa độ của bậc ‘phi tích cao tăng’ không hề có ý để lại di tích của mình trên dòng sông sanh tử. Tuy nhiên, là đàn hậu bối, thiết nghĩ chúng ta phải có trách nhiệm với lịch sử của tiền nhân, luôn luôn trân trọng và gìn giữ, nhằm kế thừa và phát huy những tinh hoa của các ngài, và đó cũng là nét đẹp có tính lịch sử và văn hóa của một dân tộc mà nền Phật giáo đã tồn tại xuyên suốt hơn mấy nghìn năm lịch sử vậy.