Trong thời gian gần đây có rất nhiều sách viết về hiện tượng người chết
sống lại" kể chuyện thế giới bên kia (Near Death Experiences) nhưng
không cuốn nào gây sôi nổi bằng cuốn "Embraced By The Light" (tạm dịch:
Trở về từ cõi sáng) của Betty Eadie.
Xuất bản đầu năm 1993, nó đã trở nên một "Best Seller" với số bản
kỷ lục và dẫn đầu những cuốn sách bán chạy nhất Hoa Kỳ. Bắt đầu từ tháng
2. 1994, nó trở nên cuốn sách bán chạy nhất thế giới với 18 ấn bản bằng
các thứ tiếng khác nhau. Trong ấn bản đầu tại Âu Châu, nhiều đọc giả đã
phải mua giá chợ đen vì nhà xuất bản in không kịp. Tại Nhật Bản những
người không muốn chờ đợi, đã xếp hàng để mua trước cửa nhà in, không đợi
sách giao đến tiệm nữa...
Tại sao cuốn sách nầy lại bán chạy như vậy? Theo các nhà bình luận
thì không những nội dung cuốn nầy phong phú hơn nhiều cuốn sách tương
tự mà tác giả, bà Betty Eadie, đã kinh nghiệm được sự chết và kể lại
những diễn tiến ở cõi bên kia, mà bà ta gọi là cõi sáng, một cách chi
tiết rõ ràng. Sau khi cuốn sách xuất bản, tác giả đã được mời đi diễn
thuyết khắp nơi, đâu đâu bà cũng thư hút được một cử tọa đông đảo chưa
từng thấy. Nhiều đ ài phát thanh và truyền hình trên thế giới đã có
chương trình phỏng vấn tác giả và thảo luận về hiện tượng "người chết
sống lại". Đây là một đề tài đang được bàn cãi rất sôi nổi, người tin kẻ
ngờ, và có người đã chất vấn tác giả từng chi tiết một nhưng bà Eadie
đã giải đáp được hầu hết thắc mắc của mọi người nên số người hâm mộ bà
ngày càng nhiều.
Nhận thấy đây là một quyển sách giá trị, một đề tài đáng để cho
chúng ta suy gẫm nên chúng tôi đã xin phép tác giả để tóm tắt và lược
dịch những đoạn chính. Chúng tôi không chú trọng đến hiện tượng "người
chết sống lại" vì đã có nhiều cuốn sách viết về đề tài nầy rồi và cũng
không muốn đi vào chi tiết những cảnh giới tác giả đề cập ở cõi bên kia.
Trong phần lược dịch nầy, chúng tôi chỉ muốn đề cập đến nội dung của
cuốn sách, hay thông điệp cần thiết cho nhân loại, mà tác giả đã nhấn
mạnh rằng đó chính là lý do mà bà trở lại cõi trần.
Sau đây là những đoạn chính của cuốn sách trên nói về trường hợp của bà Betty Eadie sau cuộc giải phẫu tại bệnh viện...
Có lẽ tôi chỉ vừa mới thiếp đi thôi vì đồng hồ vẫn chỉ 9 giờ rưỡi,
nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy toàn thân bỗng tràn ngập một cảm giác
lạ lùng. Linh tính báo cho tôi biết có một chuyện gì sắp xảy ra. Tôi
nhìn quanh phòng, cánh cửa vẫn khép hờ, ánh sáng bên ngoài lọt vào một
cách yếu ớt, và tự nhiên tôi cảm thấy sợ hãi vì phải ở trong phòng một
mình. Tôi cố gắng tự chủ nhưng đầu óc tôi cứ hoang mang về một điều gì
không thể diễn tả. Tôi thấy trong người yếu dần. Tôi muốn bấm vào nút
chuông cạnh giường để gọi ý tá nhưng không sao nhúc nhích được. Có một
âm thanh kỳ lạ như tiếng vo ve ở đâu trổi lên, lúc đầu còn nhỏ nhưng
càng ngày càng to. Bỗng nhiên tôi cảm thấy có một mãnh lực kỳ lạ thúc
đẩy tôi muốn ngồi bật dậy nhưng thể xác tôi tự nhiên lại cứng đơ một
cách lạ lùng. Tôi cố sức vùng vẫy nhưng vô hiệu, chân tay tôi không tuân
theo mệnh lệnh của tôi nữa. Dường như có một sức mạnh nào đó đang thu
hút lấy tôi, tôi nghe như có tiếng ai gọi thầm đâu đây. Bất chợt có một
cái gì dội mạnh vào lồng ngực khiến tôi giật mình. Cảm giác nầy không
đau đớn nhưng kỳ lạ khiến tôi trong mình bỗng nhẹ hẳn đi như vừa trút
được một gánh nặng. Tôi có cảm tưởng như mình vừa được giải thoát được
các ràng buộc, thân thể lâng lâng sảng khoái như bay bổng. Rồi một cái gì
đó dội mạnh vào lồng ngực tôi lần nữa khiến tôi thấy mình dường như
thoát hẳn ra ngoài. Ra ngoài? Nhưng ra ngoài cái chi đây? Đầu óc tôi
hoang mang lạ lùng. Tôi cố gắng cựa mạnh và tự nhiên thấy mình đang lơ
lửng trong không gian gần chạm đến trần nhà. Tôi quay đầu nhìn lại và
thấy một thân thể đang nằm bất động trên giường. Chỉ một thoáng giây tôi
đã ý thức được ngay đó chính là xác tôi. Không hiểu sao tôi không thấy
sợ hãi chút nào. Hình như có một sức mạnh nào đó đang che chở tôi, một
cảm giác bình yên khiến tôi có thể yên lặng nhìn ngắm cái xác đó mà
không hốt hoảng.
Phải rồi. Đó chính là xác của tôi. Nó còn tốt lắm nhưng không còn
sử dụng được nữa, thật đáng tiếc vì nó chưa hư hại bao nhiêu, vẫn có thể
dùng được vào nhiều việc. Đang lặng ngắm cái xác, tôi bỗng ý thức được
một điều thật kỳ diệu. Lần đầu tiên tôi nhìn rõ mình dưới trạng thái của
ba chiều đo. Khi trườc tôi có thể thấy mình qua hai chiều đo lúc ngắm
mình trong gương, nhưng hiện nay cặp mắt của tôi có thể thấy rõ mọi khía
cạnh của thể xác, đằng trước, đằng sau, mọi phía một cách đầy đủ,
toàn vẹn, từng chi tiết.
Bất chợt tôi thấy hình như mình không còn chịu áp lực của trọng
lực nữa. Cớ thể tôi nhẹ nhõm, có thể cử động một cách dễ dàng thoải mái
hơn trước. Dù vừa trải qua một cuộc giải phẩu nhưng tôi không thấy đau
đớn, khó chịu vì vết thương. Ngay lúc đó tôi biết rằng mình đã thực sự
chết rồi, đã rời bỏ thể xác mà người ta mới giải phẫu xong. Thì ra cái
xác đó không phải là tôi mà chỉ là một cái vỏ, một cái bóng, một bộ quần
áo củ mà tôi đã sử dụng trong nhiều năm nay. Cái xác đó nằm bất động
nhưng tôi lại tự do, thoải mái và dĩ nhiên đây là một kinh nghiệm từ
trước đến nay tôi không hề nghĩ đến.
Vừa nghĩ đến đó thì bỗng có ba người đàn ông ở đâu xuất hiện. Họ ở
đâu đến tôi không biết nhưng chắc chắn không phải từ bên ngoài bước vào
vì cửa phòng vẫn còn khép hờ như cũ. Tất cả đều mặc áo thụng màu nâu,
quanh hông có cột một sợi dây màu vàng, hai đầu bỏ thõng xuống. Người họ
tỏa ra một thứ ánh sáng rất dịu và đến lúc đó tôi mới nhận ra chính
mình cũng đang tỏa ra một thứ ánh sáng tương tự. Không hiểu sao tôi
không thấy e ngại hay sợ hãi vì sự xuất hiện của những người lạ mặt nầy.
Thoạt trông họ chỉ trạc 70 hay 80 tuổi, nhưng tôi biết rằng tuổi thật
của họ khác xa với số tuổi mà tôi phỏng đoán. Có lẽ họ đã sống rất lâu
rồi, từ những buổi xa xưa lắm! Nhìn cách phục sức, tôi thấy họ giống như
các tu sĩ thời cổ. Phải chăng họ xuất hiện dưới hình ảnh đó để biểu lộ
một đức tính hay một minh triết lớn lao?
Một người mỉm cười cho tôi biết rằng giữa tôi và họ đã có những
liên hệ "từ ngàn xưa". Tôi không hiểu câu nầy có nghĩa gì. Tại sao lại
có sự quen biết như vậy được? Ngàn xưa phải là một thời gian rất xa
trong dĩ vãng nhưng xa thế nào được cuộc đời chỉ ngắn ngủi có mấy chục
năm thôi? Vừa nghĩ đến đó thì tôi thấy ngay một hình ảnh xa xưa hiện ra
trước mắt, một cuộc sống khác với đời sống vừa qua của tôi, và bỗng hiểu
được sự liên hệ giữa tôi và những người nầy. Phải rồi, chúng tôi đã
quen biết nhau từ lâu lắm rồi và đời sống thực sự của tôi vốn không có
khởi đầu hay chấm dứt mà chỉ là một diễn tiến kéo dài không ngừng xuyên
qua thời gian. Lúc đó tôi mới ý thức rằng những người nầy thực sự là
những người bạn chọn lọc của tôi trong cái đời sống lớn lao, kéo dài vô
tận đó, và trong kiếp sống vừa qua của tôi, họ đã đóng vai những "thiên
thần hộ mạng" cho tôi.
Một người cho biết rằng tôi chết chưa đúng số và lý do họ đến đây
là để trấn an tôi. Trấn an? Tôi chợt hiểu được nguyên nhân của cảm giác
bình an êm ái khi vừa qua đời lúc nãy, một cảm giác không sợ hãi, không
hoảng hốt mà ý thức rõ rệt được các diễn tiến xảy ra. Khi đó tôi mới
hiểu ba người nầy thật hết sức lưu tâm đến tôi. Tôi định lên tiếng cảm
ơn thì chợt nhớ ra rằng từ nãy đến giờ chúng tôi không hề nói chuyện, mà bằng tư tưởng. Đến lúc đó tôi mới ý thức được sự diễn tả bằng lời
nói, ngôn ngữ mà tôi vẫn sử dụng, quả thật rất giới hạn so với cái kinh
nghiệm mới mẻ về sự truyền thông bằng tư tưởng nầy. Tôi biết có nhiều
điều họ muốn chia sẻ với tôi, cũng như tôi muốn nói với họ, nhưng chúng
tôi biết rằng lúc nầy còn có những việc khác quan trọng hơn cần phải
làm.
Tự nhiên tôi nghĩ đến chồng và các con của tôi. Hiện nay chồng tôi
đang làm gì? Mấy đứa con tôi ra sao? Làm sao một người đàn ông không
bao giờ trông nom trẻ nít lại có săn sóc một lúc sáu đứa nhỏ đây? Không
có tôi thì làm sao những đứa bé nghịch ngợm nầy có thể thuận hòa với
nhau được? Không chừng chúng đã bầy đồ chơi bừa ra khắp nhà rồi. Tôi
phải gặp chúng ngay thì mới yên tâm được.
Tôi nhìn ra cửa sổ. Có lẽ tôi phải đi ra ngoài bằng cửa sổ, nhưng
vừa nghĩ đến đó thì tôi đã thấy mình đi xuyên qua cửa sổ rồi. Tự nhiên
tôi hiểu rằng tôi có thể đi xuyên qua mọi vật một cách dễ dàng và tôi có
thể đi bất cứ đâu mà tôi muốn. Tuy nhiên tôi không có thì giờ suy nghĩ
nhiều về cái kinh nghiệm mới mẻ nầy, tôi chỉ nghĩ đến gia đình của mình.
Sao bao năm làm lụng vất vả để gây dựng một mái ấm gia đình, tự nhiên
tôi cảm thấy sợ hãi khi có thể mất đi một cái mà tôi vừa có, cái hạnh
phúc mà tôi đã nhọc sức bao lâu nay để vun vén, săn sóc, tạo dựng nên.
Vừa nghĩ đến nhà thì tôi đã thấy mình đứng trước cửa nhà. Tôi vội vã bước vào phòng khách và thấy chồng tôi đang ngồi đọc báo trên chiếc ghế bành quen thuộc, lũ nhỏ đang đùa nghịch chạy lên chạy xuống cầu thang, la hét ầm ĩ. Quả thật hết chỗ nói! Tôi thường dặn chúng không được chạy nhảy như vậy kia mà. Mẹ vừa vắng nhà một ngày mà lũ nhỏ đã tác oai tác quái rồi. Tôi chăm chú quan sát từng đứa một, và tự hỏi chúng sẽ ra sao khi thiếu người mẹ vẫn thường chăm sóc cho chúng? Không hiểu vì một lý do nào đó, tôi đồng thời ý thức được cuộc đời của mỗi đứa một cách mầu nhiệm. Tôi biết mỗi đứa đều có một nhiệm vụ riêng, một đời sống riêng, và sẽ phải học hỏi để có những kinh nghiệm khác nhau. Thật là một lầm lẫn lớn khi tôi nghĩ rằng chúng là "con của tôi" trong khi thực sự chúng cũng như tôi, đều là những thực thể tâm linh, có cá tính, sự thông minh, hay các nghiệp quả riêng biệt trước khi đầu thai vào cõi sống nầy. Mọi đứa đều có tự do ý chí và sẽ tự chọn một cuộc sống riêng.
Chúng có
đời sống của chúng cũng như tôi có đời sống của riêng tôi. Chúng được
giao phó cho tôi để săn sóc, trông nom và giáo dục trong một thời gian
nhất định nào đó thôi, sau đó chúng sẽ đi con đường riêng mà chúng đã
chọn. Đây là một chương trình được hoạch định bởi những định luật cao
cả, và dĩ nhiên khi chúng ta hoàn tất nhiệm vụ nầy thì đời sống trong
kiếp nầy của chúng ta cũnng sẽ chấm dứt. Tôi nhìn thấy những thử thách
lớn lao và đầy khó khăn mà chúng sẽ phải gặp, nhưng đồng thời cũng biết
rằng những việc nầy là điều cần thiết cho sự phát triển của chúng. Tất
cả đều chì là những phần rất nhỏ trong một chương trình giáo dục lớn
lao, được sắp đặt bởi những quy luật hết sức hoàn hảo.
Tôi thấy mình như trút được gánh nặng rất lớn. Từ trước đến nay
tôi thường quá lo lắng cho chúng. Sức tôi thì yếu ớt, vòng tay tôi thì
bé nhỏ, làm sao có thể lo liệu chu toàn cho mọi thứ? Thế nhưng tôi đã
sắp đặt, hoạch định và mơ ước những điều thật viển vông. Tôi đã thầm mơ
rằng những đứa con tôi sẽ trở nên những người có địa vị trong xã hội,
những nhà bác học, những y sĩ nổi tiếng, hay thương gia giàu có. Quả
thật tôi đã lầm lẫn rất lớn khi nghĩ rằng mình có thể sắp đặt, hoạch
định những chương trình to tát như vậy. Nhưng nay thì mọi việc đã giải
quyết vì cuối cùng thì cuộc đời của chúng cũng đều tốt đẹp cả. Cuộc sống
của gia đình tôi cũng thế, cái hạnh phúc mà tôi hằng lưu tâm trước sau
gì cũng sẽ xảy ra trong một tiến trình tất yếu...
Tôi cảm thấy thoải mái và sung sướng khi kinh nghiệm được các điều
nầy, có lẽ nhờ thế mà tâm hồn tôi trở nên an tĩnh hơn. Những nỗi lo
lắng, sợ hãi dường như tan biến khiến tôi cảm thấy hết sức thoải mái
trong đời sống mới mẻ nầy. Tôi trở lại bệnh viện mà không nhớ mình về
bằng cách nào. Tôi thấy thể xác mình vẫn nằm yên bất động trên giường,
ba người bạn của tôi vẫn đứng đợi cạnh đó. Tôi cảm thấy ngay được tình
thương của họ và cả niềm vui nho nhỏ của họ nữa. Hình như họ biết tôi
vừa trở về nhà và đã kinh nghiệm được điều mà tôi cần phải biết. Tôi
muốn nói với họ nhiều điều nhưng một người cho biết đã đến lúc tôi phải
tiếp tục cuộc hành trình và họ sẽ không cùng đi với tôi.
Khi người ta đứng trước một sức mạnh lớn lao hẳn người ta phải
biết rõ, giờ đây tôi cũng vậy. Dường như có một cái gì kỳ lạ xảy ra, một
sức cuốn hút lớn lao trán ngặp khắp căn phòng khiến tôi không thể cưỡng
lại được. Tôi thấy mình đang bị hút đi bởi một luồng gió lốc cực mạnh
nhưng tôi không hề sợ hãi mà lại kinh nghiệm được một sự bình an, thoải
mái. Tôi nghe có tiếng chuông thánh thót ở đâu vọng lại, âm thanh hết
sức đặc biệt mà tôi không thể quên được. Đột nhiên cảnh vật chung quanh
đều mờ dần và tôi đang thấy mình ở trong một đường hầm tối om, đen như
mực.
Theo lệ thường thì tôi phải sợ hãi lắm, nhưng không hiểu sao nằm
trong một màn đêm dầy đặc như vậy mà tôi vẫn cảm thấy một niềm vui rộn
ràng, một cảm giác bình an như được che chở. Tôi thấy cũng có những
người hay súc vật đang bị lôi cuốn vào cái đường hầm đen tối nầy. Họ ở
cách tôi khá xa nhưng có lẽ tất cả đều kinh nghiệm được sự bình an như
tôi vì tôi không thấy ai có vẻ sợ hãi hoảng hốt cả. Tất cả đều tiến bước
trong đường hầm đen tối đó, nhưng cũng có vài người thơ thẩn không chịu
đi mà cứ la cà từ chỗ nầy đến chỗ kia. Tôi không thấy họ làm phiền ai
nhưng không hiểu sao họ lại không đi cùng với chúng tôi! Chúng tôi tiếp
tục lướt đi với một tốc độ khá nhanh, mặc dù chân không hề bước nhưng
mọi vật chung quanh cứ vun vút trôi đi như mây khói.
Được một lúc tôi cảm thấy có một tình thương mãnh liệt ở đâu trút
xuống, tràn ngập khắp đường hầm đen tối nầy, một tình thương hết sức
thanh tịnh, vô nhiễm, một thứ tình thương không bút mực nào có thể tả
xiết. Ngay lúc đó tôi cảm thấy có một đốm sáng khá xa. Không hiểu sao
tôi bị thu hút bởi điểm sáng đó nên rảo bước về hướng đó, trong khi
những người khác hình như không thấy điểm sáng nên họ vẫn mải miết đi về
một hướng khác. Càng đến gần điểm sáng, tôi càng thấy có một tình
thương hết sức mãnh liệt từ điểm sáng toát ra và sau cùng tôi nhận thấy
đó là một người. Người đó đi đến đâu thì ánh sáng tỏa lan ra đến đó, một
thứ ánh sáng chói lọi, sáng hơn cả mặt trời. Tôi thầm nghĩ với ánh sáng
nầy thì mắt người chắc chắn không thể chịu nổi, nhưng hiện nay tôi
không thể nhìn bằng con mắt thịt nữa mà bằng một thứ nhãn quan khác......
Khi người đó đến gần thì dường như ánh sáng của người đó hòa nhập vào ánh sáng toát ra từ thân tôi như hai ngọn đèn hòa nhập ánh sáng vào làm một. Ngay lúc đó tôi cảm thấy ngây ngất, dường như tôi đang nhập vào người đó và thấy một sức mạnh từ đâu đến tràn ngập khắp thân thể. Đó là một tình thương tuyệt đối, một thứ tình thương vô điều kiện mà chưa bao giờ tôi cảm nhận được. Người đó giơ rộng hai tay ra ôm lấy tôi vào lòng. Ngay lúc đó tôi bỗng òa lên khóc nức nở, và thốt lên "Con đã trở về nhà! Con đã trở về nhà!" Tôi ý thức rõ rằng tôi là một phần của người đó và từ xưa đến nay tôi cũng chưa bao giờ rời xa người đó. Tôi không hề thắc mắc người đó là ai nhưng biết chắc rằng người đó không thể là ai khác hơn Đấng Cứu Thế.
Phải, người đó chính là Thượng Đế, là tình thương, là tất cả, và tôi vẫn
biết đến ngài. Từ thuở xa xưa tôi đã biết ngài, trước khi bắt đầu cuộc
hành trình xuyên qua thời gian, và dù trải qua nhiều hoàn cảnh khác
nhau, nhiều cõi giới khác nhau, nhưng phần tâm linh của tôi vẫn luôn
luôn nhớ đến ngài và không hề rời xa ngài. Suốt đời tôi luôn luôn kính
sợ ngài, giờ đây tôi biết rõ ngài chính là người mà tôi tôn quý nhất.
Tôi biết ngài hiểu được tất cả những tội lỗi mà tôi đã phạm, những sai
lầm mà tôi đã làm, nhưng không hiểu sao tất cả những điều đó giờ đây
không quan trọng nữa. Dường như trong cái biển tình thương vô biên đó,
tất cả đều tan đi một cách nhanh chóng như bọt nước. Tôi ngước nhìn ngài
và cảm thấy ngài muốn chia sẻ tình thương của ngài đối với tôi, và tôi
cũng muốn chia sẻ tình thương của tôi đối với ngài. Ngay lúc đó ngài
nhìn thằng vào mắt tôi và nói: "Con chết chưa đúng số, chưa đúng ngày
giờ". Thật không có lời nói nào lại gây cho tôi một xúc động sâu xa đến
thế.
Trước đây tôi không ý thức rõ mục đích của cuộc đời, tôi cứ tìm
kiếm một cái gì và không biết điều mình làm có đúng không, nhưng giờ đây
chỉ nghe câu nói ấy, tôi biết rõ mình có một sứ mạng nhất định, một mục
đích rõ rệt mà khi xưa tôi không hề hay biết. Lúc đó tôi mới ý thức
thật rõ ràng cuộc đời trần thế của tôi không phải là một cuộc đời vô
nghĩa. Mạng của tôi chưa dứt vì chưa đúng số và chỉ khi nào mục đích và ý
nghĩa của cuộc đời đã hoàn tất thì mới đến lúc từ giã cõi trần. Dù biết
thế nhưng tôi vẫn phản đối: "Không, con không thể xa ngài được", và tự
nhiên tôi hỏi ngài liên tiếp "Ngài là Thượng Đế sao? Là người con vẫn
sùng kính cả đời sao? Ngài quả thật khác xa với những điều con nghĩ".
Cứ
thế tư tưởng của tôi miên man với trăm ngàn câu hỏi. Tôi muốn biết tại
sao tôi chết chưa đúng số, tôi muốn hiểu rõ hơn các tín niệm mà trước đã
học nhưng vẫn còn thắc mắc thật lạ lùng vì câu hỏi chưa thốt ra tôi đã
hiểu ngay câu trả lời. Hình như đứng trong luồng ánh sáng của ngài,
luồng sáng của sự hiểu biết, có một mãnh lực tuôn tràn vào trong trí tôi
tất cả sự thật. Khi đã có lòng tin, đã để luồng ánh sáng đó tràn vào
lòng, thì các câu hỏi đến với tôi thật nhanh chóng và câu trả lời cũng
đến cùng một lúc, nhanh không thể tưởng tượng được.
Ngày trước tôi không biết gì về sự chết cả. Các quan niệm sai lầm
về sự chết nay đã được giảng giải rõ rệt. Nấm mồ chỉ là nơi chứa đựng
thể xác, một bộ quần áo cũ đã hư hỏng, chứ chẳng dính gì đến phần tâm
linh cả. Tôi biết ngài là con Thượng Đế, và cũng chính là Thượng Đế.
Ngài được chọn làm Đấng Cứu Thế khi trái đất nầy chưa được thành lập.
Ngài chính là đấng Tạo Hóa. Tôi hiểu rằng ngài có sứ mạng xuống trần
gian để giảng dạy về tình thương. Tôi hiểu các việc nầy một cách rõ ràng
và chợt ý thức rằng vì một lý do nào đó dường như đã có một tấm màn che
đậy tâm trí tôi lúc mới sinh khiến tôi cứ u mê, sống trong đời mà như
người mê ngủ. Các câu hỏi và câu trả lời cứ thế tuôn trào trong trí óc
tôi. Nhưng Đấng Cứu Thế đã nói: "Cứ từ từ thôi, con sẽ biết tất cả những
điều con muốn biết". Dĩ nhiên tôi muốn biết tất cả mọi chuyện.
Đây là
một tính xấu của tôi. Khi còn nhỏ tính nầy đã làm cha mẹ tôi bực mình,
lúc lập gia đình chồng tôi nhiều lúc đã gắt lên "vừa thôi chứ! Làm sao
cái gì em cũng đòi biết hết vậy?" Nhưng hiện nay tôi thấy lòng ham hiểu
biết là một ân sủng. Tôi sung sướng vì được tự do học hỏi. Sự lĩnh hội
nầy đến một cách nhanh chóng như tôi đang đọc trăm ngàn cuốn sách một
lượt. Tôi chỉ nhìn lướt qua cuốn sách là đã có thể biết được mọi chi
tiết, trước sau, trong ngoài, tất cả sắc thái và nội dung, ngay lập tức.
Hơn thế nữa, khi tôi đã hiểu được một điều thì tất cả những điều liên
quan như hiện ra, xen vào đó như những sợi chỉ đan vào nhau giúp tôi
hiểu trọn vẹn. Danh từ toàn tri chưa bao giờ lại có ý nghĩa đối với tôi
như lúc nầy. Sự hiểu biết thấm nhuần khắp thân tôi. Nó và tôi, và tôi
kinh ngạc trước khả năng có thể hiểu biết các định luật vũ trụ một cách
tốt đẹp như vậy.
Được bao bọc trong biển sáng chói lọi, các câu hỏi mà tôi thắc mắc
từ trước đến nay bỗng dưng được giải đáp trọn vẹn. Khi xưa tôi thường
thắc mắc tại sao thế giới nầy lại có nhiều tôn giáo khác nhau, tại sao
mỗi tôn giáo lại phân chia thành các giáo phái? Tại sao Thượng Đế không
ban cho nhân loại một tôn giáo duy nhất thuần túy mà thôi? Câu trả lời
đến với tôi ngay tức khắc: Mỗi con người đều có những mức độ phát triển
tâm linh khác biệt, do đó phải có những trình độ hướng dẫn khác nhau.
Tất cả mọi tôn giáo trên toàn cầu đều hết sức cần thiết vì nó đáp ứng
những nhu cầu khác biệt nầy.
Không một tôn giáo nào có thể đáp ứng được tất nhu cầu của mọi con người, ở mọi trình độ. Mỗi tôn giáo là một viên đá lót đường để đưa con người tiếp tục đi xa hơn trên con đường dẫn đến Chân Lý. Dĩ nhiên khi một cá nhân đã phát triển, đã nâng cao trình độ hiểu biết về Thượng Đế thì người đó có thể cảm thấy không thỏa mãn với lời dạy bảo của tôn giáo mà người đó đã từng theo đuổi, học hỏi. Hiển nhiên người sẽ đi tìm một tôn giáo hay triết lý khác để bù đắp vào chỗ thiếu sót đó. Khi điều nầy xảy ra thì người đó có thể đạt đến một trình độ hiểu biết khác về Chân Lý, mỗi bước đươ ng đều có những cơ hội để học hỏi thêm về Chân Lý.
Do đó, đã hiểu được điều nầy thì người ta cần biết
rằng chúng ta không có quyền chỉ trích bất cứ một tôn giáo nào, vì tôn
giáo nào cũng đều quan trọng và đáng quý như nhau. Vì con người không
toàn thiện, toàn tri, do đó họ cần học hỏi nhiều. Tùy theo trình độ hiểu
biết và khả năng tâm linh mà họ được giao phó các sứ mạng, đặt vào các
địa vị, trong các quốc gia hay tôn giáo, các môi trường của đời sống, để
có dịp tiếp xúc với những người khác và học hỏi. Đời sống là một môi
trường để thử thách, để học hỏi và muốn hiểu biết đích thực ý nghĩa của
cuộc sống thì người ta phải biết dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ cái ý nghĩ rằng
chính cá nhân có thể biết tất cả, mà phải khiêm tốn hơn, lắng nghe lời
chỉ dẫn thầm lặng của đấng Thiêng Liêng.
Nhưng tại sao đang sống trong tình thương tuyệt diệu của Thượng Đế
mà có những linh hồn lại tự nguyện đầu thai xuống trần để học hỏi khi
họ có thể tìm thấy câu trả lời lại chính nơi đây? Vừa nghĩ đến đó thì
tôi chợt kinh nghiệm ngay được sự tạo lập trái đất như sự kiện nầy đang
diễn ra trước mắt tôi. Có lẽ đây là một điều quan trọng mà Thượng Đế
muốn cho tôi tiếp thu được vì trước mắt tôi cả một diễn tiến của sự tạo
lập trái đất với muôn ngàn tia sáng chói lọi...
Được bao bọc trong biển sáng vô biên nầy, tôi ý thức được rằng tất
cả mọi người đều là các thực thể tâm linh trước thuở khai thiên lập địa
và chính họ đã góp phần vào công việc tạo lập nầy. Chúng ta đích thực
là con của Thượng Đế và chính chúng ta đã phụ giúp vào công việc của
ngài. Thật là một vinh hạnh lớn lao khi con người đươc góp phần vào công
việc cao cả đó. Các tâm linh xuống trần là để phụ giúp việc sắp đặt các
điều kiện cõi trần với các định luật của loài người, các định luật
thuộc về vật lý, các giới hạn của xác thân và các quyền lực tâm linh.
Tất cả mọi sự đều được tạo dựng bằng những chất liệu thiêng liêng trước
khi được cấu tạo bằng các năng lực vật chất. Các tinh tú, mặt trời, mặt
trăng, các hành tinh, các giải thiên hà cũng như các núi non, sông hồ
hay đại dương đều được cấu tạo một cách tương tự.
Tôi hiểu rằng sự tạo
lập bằng những chất liệu thiêng liêng thì rõ, trong khi phần vật chất
chỉ như những âm bản lờ mờ, không rõ. Trái đất chỉ là một cái bóng của
sự mỹ lệ, vinh quang mà thôi. Nó phản ánh những sự tuyệt hảo của cõi tâm
linh nhưng điều quan trọng là nó phải được khám phá và khám phá ra sự
toàn hảo nầy chính là mục đích của đời sống. Đây là căn bản cần thiết
của sự phát triển cá nhân khi họ góp phần vào công cuộc chung của đấng
tạo Hoá. Thật là khôi hài khi những cá nhân tưởng mình đã phát triển ra
điều nầy hay điều nọ. Họ không biết rằng các tư tưởng sáng tạo mà con
người có được chỉ là do các phản ứng vô hình phát sinh từ các cõi trên.
Những phát minh quan trọng hay những phát triển về kỹ thuật đều phát
xuất từ cõi tâm linh. Chính những cá nhân ở cõi đời tiếp nhận được nguồn
cảm hứng nầy rồi mới tạo ra các phát minh. Khi biết vậy thì tôi cũng
hiểu rằng đã có một mối liên hệ sâu xa và linh động nối cõi tâm linh và
cõi trần. Con người cần các rung động sáng tạo của cõi trên để giúp họ
tiến bộ.
Từ ngàn xưa, con người đã lựa chọn sứ mạng xuống trần để góp phần
vào công việc chung, nhưng khi khoác lấy cái vỏ vật chất, họ thường quên
đi mục đích chính của mình. Chỉ khi trải qua các thử thách, các kinh
nghiệm, con người mới hiểu rõ họ là ai và sẽ biết sống thuận theo thiên
ý... Tất cả những thực thể tâm linh xuống trần đều là những thực thể
dũng cảm, dù cho một kẻ kém phát triển ở cõi trần cũng là một thực thể
can đảm và dũng cảm ở cõi tâm linh... Con người cần biết rằng các hành
động của họ quyết định chiều hướng cuộc đời họ, do đó con người có thể
thay đổi hay chuyển hướng cuộc đời họ bất cứ lúc nào. Đây là một điều
quan trọng vì Thượng Đế không can thiệp vào cuộc đời của con người trừ
khi họ yêu cầu ngài. Qua sự toàn tri, ngài sẽ giúp họ đạt được các mong
muốn một cách chính đáng. Nhưng hơn hết, mọi người đều có may mắn là đã
được ban cho một khả năng rất quan trọng, đó là tự do ý chí và họ có thể
sử dụng quyền lực đó, điều nầy cho phép con người chọn lựa niềm phúc
lạc hay nỗi khổ đau, nhưng dù là đau khổ hay hạnh phúc, tất cả đều chỉ
là những kinh nghiệm cần thiết để học hỏi, để nhận thức và ý thức được
sự mầu nhiệm của các định luật tạo hoá...
Được bao bọc trong biển sáng của đấng Vô Cùng, tôi ý thức rằng con
người cần phải biết giúp đỡ nhau, săn sóc nhau, thông cảm nhau và nhất
là biết tha thứ cho nhau. Con người sống là để yêu thương vì yêu thương
chính là tinh hoa của phần tâm linh hằng có trong mỗi người chúng ta.
Hình dáng con người có thể không giống nhau, màu da có thể khác, trình
độ học vấn có thể chênh lệch, nhưng đó chỉ là bề ngoài mà phần phán xét
nhau được. Nằm sâu trong cái vỏ vật chất khác biệt là phần tâm linh cao
cả hay một tình thương vô biên không hề khác biệt. Ai ai cũnng có khả
năng yêu thương vì yêu thương là một năng lực bất tận, càng cho ra bao
nhiêu nó lại càng tràn đầy bấy nhiêu. Dĩ nhiên mọi người đều phát triển
dưới một trình độ nào đó chưa đầy đủ trọn vẹn, nhưng không ai có thể đo
lường mức phát triển nầy. Chỉ có Thượng Đế mới biết và chỉ có ngài mới
có thể phán xét một cách hoàn toàn. Ngài biết rõ phần tâm linh của chúng
ta trong khi phần lớn chúng ta chỉ thấy một vài điểm bất toàn bộc lộ ở
bên ngoài chứ không thể nhìn vào tận bên trong được.
Một điều tôi biết rất rõ là bất cứ việc gì có tính cách biểu lộ
tình thương hay lòng thiện cảm đều là những hành động thuận với thiên ý,
vì Thượng Đế chính là tình thương. Một nụ cười, một lời khích lệ, một
hy sinh nhỏ nhặt để làm vui lòng người khác cũng làm tăng trường khả
năng yêu thương vốn có nơi mọi người. Dĩ nhiên không phải ai chúng ta
gặp cũng đều đáng yêu cả, nhưng khi chúng ta thấy một người thật khó
thương thì thường là họ nhắc nhở cho chúng ta một cái gì đó ở bên trong
chúng ta mà chúng ta không thích. Tôi còn học được rằng, chúng ta phải
biết yêu thương cả kẻ thù, phải biết xả hết mọi giận hờn cay đắng cũng
như tính cố chấp, không tha thứ. Những điều nầy không những đi ngược với
thiên ý mà còn phá hoại phần tâm linh của chúng ta. Con người được đánh
giá qua việc con người ta đối xử với kẻ khác ra sao và giá trị của con
người được Thượng Đế nhìn qua việc họ đã gieo rắc tình thương của ngài
đối với thế gian như thế nào...
Được bao bọc bởi luồng ánh sáng rực rỡ của đấng Sáng Tạo, tôi đã
quan sát sự tạo lập vũ trụ, chiêm ngưỡng việc những thực thể tâm linh
mang lấy xác thân vật chất để kinh nghiệm sự sáng tạo, chiêm ngưỡng công
trình của đấng Sáng Tạo... Tôi đã thấy những người tiên phong khai phá
lục địa Mỹ Châu, họ đã trải qua những khó nhọc khi vượt đại dương như
thế nào, đã phải chiến đấu và khắc phục các trở ngại ra sao để hoàn tất
sứ mạng được giao phó. Tôi biết rằng chỉ có những người cần kinh nghiệm
nầy mới được giao phó công việc đó. Tôi còn thấy các đấng thiên thần vui
mừng cho những người đã vượt được trở ngại để thành công, và buồn rầu
khi thấy có những người không vượt qua được các trở ngại nầy. Dĩ nhiên
có người thất bại vì sự yếu kém của chính họ, nhưng cũng có khi là do sự
yếu kém của kẻ khác. Nhưng dù thành công hay thất bại, tất cả đều là
những kinh nghiệm cần thiết cho sự hiểu biết và phát triển cá nhân...
Được bao bọc trong luồng ánh sáng của ngài, tôi ý thức được rằng
tất cả chúng ta đều xuống trần vì sự tự nguyện, và chúng ta luôn luôn
nhận được những sự trợ giúp nhiều hơn điều chúng ta biết. Tôi nhìn thấy
tình thương biên của Thượng Đế tỏa ra khắp nơi, ban phát cho tất cả các
con của ngài. Tôi cũng thấy các thiên thần đứng quanh chúng ta, sẵn sàng
trợ giúp và chia vui với chúng ta hoàn tất được công việc giao phó. Tôi
thấy rõ ánh sáng chói lọi của đấng Cứu Thế đang ban rải khắp nơi. Toàn
thân tôi như tan biến trong vòng tay của ngài. Ngài đã cho tôi thấy tất
cả những gì tôi nhìn thấy và giúp tôi hiểu được những gì tôi cần biết.
Các câu hỏi vẫn liên tiếp xảy ra trong trí tôi, và những câu trả
lời cũng không ngớt tuôn trào cho đến khi nó bao trùm lên tất cả mọi
phương diện về đời sống. Trí óc tôi quay về các định luật cai quản đời
sống trái đất như các định luật thiên nhiên. Phần lớn con người chỉ biết
đến các định luật nầy một cách qua loa mơ hồ, qua các giả thuyết hay
chứng minh khoa học, nhưng đó chỉ là những mảnh vụn rất nhỏ. Các định
luật được tạo ra để hoàn thành một mục đích nhất định và chúng bổ khuyết
lẫn nhau cho mục đích cao cả chung. Khi con người nhận thức được các
định luật nầy, học được cách sử dụng các năng lượng của chúng thì con
người sẽ vượt lên sự hiểu biết thông thường để đạt đến được những hiểu
biết lớn lao và dần dần sẽ hiểu được các định luật của vũ trụ.
Tất cả mọi vật đều do quyền lực thiêng liêng tạo ra, mọi yếu tố,
mọi phần tử đều có sự sống riêng, có phần tinh thần cũng như vật chất và
nhờ thế tất cả đều có thể kinh nghiệm được sự sáng tạo. Mọi yếu tố có
thể hành động độc lập theo khả năng của nó để đáp ứng với các định luật
và mãnh lực chung quanh. Tất cả đều góp phần vào một diễn tiến chung và
chính bằng các quyền lực tự nhiên và các định luật sáng tạo mà đấng Hóa
Công đã tạo ra trái đất nầy. Do đó, nhờ biết sống đúng với các định luật
thiên nhiên, ta sẽ gặp các hậu quả do sự thiếu hiểu biết các định luật
nầy. Nếu chúng ta gây ô nhiễm cho môi trường chúng ta sống thì đó là vi
phạm các định luật thiên nhiên và luật sinh tồn. Hậu quả có thể mang lại
sự ốm đau, bệnh tật hay tử vong. Nếu chúng ta phí phạm xác thân vào các
việc như ăn uống quá độ, ngủ nghĩ quá nhiều hoặc sử dụng các dược chất
gây kích thích các cơ quan khiến suy nhược thể xác thì chúng ta phải
chịu.
Được bao bọc trong luồng ánh sáng của ngài, tôi ý thức được rằng
mọi định luật thiên nhiên đều được đặt ra vào những mục đích nhất định.
Tất cả các thực thể tâm linh được tạo ra để kinh nghiệm sự sáng tạo và
tùy theo khả năng độc lập riêng mà chúng đáp ứng với các định luật nầy
một cách khác nhau. Mỗi tâm linh đều có chủ quyền đối với phần tử vật
chất của nó và đây là một điểm hết sức quan trọng. Vì mọi vật đều được
cấu tạo bằng những chất liệu thiêng liêng trước khi khoát lấy cái vỏ
bằng vật chất nên phần tâm linh bên trong mới thực sự là chính. Nó có
bổn phận kiểm soát, sai khiến cái vỏ vật chất bên ngoài.
Sự sa đọa chẳng qua là việc thiếu ý thức, quên mất cái nguồn gốc thiêng liêng, sống hời hợt, tuân theo dục vọng của cái vỏ vật chất. Đáng lẽ ra mọi hành động hay phản ứng của cái vỏ nầy phải là sự thể hiện hay phản ảnh của yếu tố tâm linh, vốn cấu tạo bằng chất liệu từ đấng Sáng Tạo vì "con người được tạo ra qua hình ảnh của đấng Sáng Tạo" nhưng đa số đã không hiểu rõ việc nầy. Tuy nhiên ảnh hưởng của cái vỏ vật chất tầm thường kia không thể xâm lấn hay ảnh hưởng gì đến phần tâm linh được. Đối với người thiếu ý thức, không có lòng tin thì phần tâm linh sẽ tạm thời tiềm ẩn cho đến khi được thức động bởi một yếu tố hay hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Có lẽ vì thế nên cuộc đời luôn luôn là những thử thách để nhắc nhở con người hãy tỉnh thức quay về với Thượng Đế, quay về với cái quê hương tinh thần lúc nào cũng sáng chói, đầy ân phước, hoàn hảo và tốt đẹp. Muốn sống một cách trọn vẹn, chúng ta phải biết làm sao cho phần tâm linh của chúng ta trở nên tốt đẹp, và không cách nào hữu hiệu hơn việc chân thành cầu nguyện, mở rộng cách cửa tâm hồn cho phần tâm linh được bay bổng, hướng thượng và trở về với cái quê hương tinh thần của nó. Đó là ý nghĩa cao đẹp nhất của sự sống.