Tứ nhiếp pháp. Tiếng Pali gọi là Sangahavattu. Là bốn phương tiện dùng để thu phục nhân tâm hoặc là bốn phép đắc nhân tâm
1- Danā : Biết dùng của.
Chữ này mà dịch là bố thí thì nó nghèo lắm . Chữ này phải dịch là biết dùng vật chất đúng chỗ , đúng mức và đúng cách để cảm hoá người khác . Phải dịch là như vậy , chứ nếu mà dịch là bố thí thì tôi không có cam tâm , không có đành lòng .
2- Piyavaca : Biết dùng lời .
Có nghĩa là ái ngữ biết cách nói để cảm hoá lòng người , khả năng đó không phải là môi miếng đãi bôi , nói dóc , nói dẻo miệng , mà nó phải đi ra từ chân tâm , chân tình thì nó mới có chân ngôn được , còn nếu đối với nhau không thật lòng , thì thời gian ai cũng biết .
3- atthacariyā : Lợi hành .
Có nghĩa là biết nghĩ đến lợi ích của người khác .
Bây giờ tôi kể quí vị nghe một chuyện nhỏ . Mình ở chung một ngôi nhà , khi mình bước ra ngoài cửa , mình thấy đôi dép người ta chiếc Nam chiếc Bắc , mình để lại cho nó gọn gàng . Rồi mình thấy một giẻ lau , không biết sạch dơ , mình thấy nó nằm ngay chỗ kỳ quá , thì mình nhặt nó lên để chỗ cho nó dễ coi . Đó là chuyện nhỏ xíu xiu . Rồi lớn hơn , cao xa hơn , tôi nhớ hoài câu chuyện sư phụ tôi kể về ngài Bổn Sư . Lúc đó sư cậu tôi cũng còn trẻ , chùa làm một ngôi nhà vách ván cũ , ở đó có một cây đinh đã sét , Ngài bổn sư kêu sư cậu tôi nhố đi , bởi vì cây đinh đó nằm ngang trán của người ta , bữa nào ai mà trượt cắm cái trán vô cây đinh sét đó thì phiền lắm.
Nó đã là cây đinh sét , sư cậu nhổ hoài không được , cuối cùng sư lấy cây búa sư đóng vô luôn . Thì lát sau sư gặp ngài hỏi nhổ cây đinh đó chưa ? sư cậu trả lời : Nó sét rồi nhổ ra cũng khó , con đóng vô luôn , Ngài nói : Không được bằng mọi cách phải lấy nó ra , bởi vì sau này cái chùa này nó hư , nó mục , rồi người ta cưa ván trúng cây đinh sẽ làm hư lưỡi cưa của người ta ( năm đó sư cậu mới ngoài 20 tuổi )
Câu chuyện đó , ngày tôi còn bé , tôi nghe tôi cười . Tôi thấy sao một người kỹ quá như vậy , nhưng càng già tôi nghĩ mới thấy thấm . Cái vấn đề không phải là cây đinh , không phải là cái lưỡi cưa , mà cái vấn đề là có người sao mà nghĩ đến thiên hạ , mà thiên hạ nào ngài cũng không biết , thiên hạ của đời sau , của thế hệ nào đó , Ngài cũng không hề thấy , mà cái chuyện đầu tiên là cái tâm tư của Ngài đã nghĩ đến đời sau . Và các vị có biết ở những xứ tiên tiến , khi mà người ta làm cái cầu , đắp đường , xây dựng nhà cửa , người ta đã quy hoạch từ rất lâu cho về sau . Thí dụ người ta đã tính chuyện 100 năm nữa , cái toà nhà này , cái cầu này nếu mà nó còn , nó chưa bị hư , thì nó có làm phiền cho người sau không , có cản trở những công trình những quy hoạch cho đời sau không , chứ không phải đời này mình thích thì mình cứ làm .
Có một ông kiến trúc sư ở Mỹ . Hà Nội mời qua để quy hoạch lại Hà Nội và Sài Gòn . Ông bay trên trực thăng , ông đi một vòng rồi ông phán một câu thế này : " Việt Nam đẹp trong chi tiết mà xấu về tổng thể " . Có nghĩa là lâu lâu gặp được những toà nhà cực đẹp , vị trí đắc địa , nhưng mà chỉ có một mình nó đẹp trong chi tiết , nhưng mà nó xấu trên tổng thể , có nghĩa là mạnh người nào người nấy xây cất , cuối cùng là người này không nghĩ tới người khác , đời này không nghĩ tới đời sau.
Từ chuyện nhỏ trong nhà , trên bàn ăn , phòng khách , nhà tắm cho đến ngoài đường xá , ngoài xã hội , ngoài đất nước , chúng ta rất cần đến những tấm lòng , những tâm hồn biết nghĩ đến người khác , thế hệ này biết nghĩ đến thế hệ sau , thế hệ này sống là nhờ những tấm lòng của thế hệ trước , thì ngoài cái thế hệ này còn nghĩ đến sự trao truyền nữa , thì đất nước đó , dân tộc đó được xem là có văn hoá , có văn minh , và mỗi cá nhân cũng vậy , ở trong kinh gọi trường hợp này là lợi hành .
Và cái tinh thần Bồ Tát cũng vậy , một vị Bồ Tát , một vị hiền trí , cho đến một vị A LA HÁN như Đức Phật , ngài Xá Lợi Phất lúc nào cũng nghĩ lợi ích cho chúng sanh.
Trong kinh nói ngài Xá Lợi Phất là một vị A-La-Hán là vị huynh trưởng của tăng đoàn , mỗi sáng đi khất thực , đợi huynh đệ đi trước , Ngài đi sau . Ngài đi một vòng trong tịnh xá , hoặc là khu vườn huynh đệ ở chung , xem có cần quét rác , hốt lá , hoặc xách nước cho đầy , để huynh đệ đi bát về có nước dùng . Trong kinh có nói Ngài có để ý khách gồm : cư sĩ , ngoại đạo tình cờ họ ghé ngang họ không có trách là mấy ông sư làm biếng . Một vị thánh , Ngài có thần thông , có thể bay về trời , về núi . Nhưng Ngài thì không , sống bình thường như vậy . Ngài xách nước , quét rác v.. v , nghĩ từng lợi ích của chư tăng huynh đệ , đám đông mà ngài đang góp mặt . Đó là lợi hành .
4- Samacariyā : Đồng sự : Có nghĩa là hòa đồng , biết sống hòa đồng.
Có nghĩa là không phân biệt đối xử , mặc dù chúng ta có phân biệt trong trật tự tôn ti, có lễ phép , có kẻ trên người dưới , có phân biệt để giữ trật tự tôn ti , nhưng không phân biệt trong đối xử khinh trọng.
Tôi được biết vài chuyện , chẳng hạn như bên Mỹ trong một cuộc họp , có ông tổng giám đốc chủ tịch hội đồng , manager ( giám đốc ) . Vị trí của họ thì ai cũng biết , nhưng khi lấy cafe , thức ăn , thì tất cả đều xếp hàng . Ai đến trước lấy trước , ai đến sau lấy sau , cái đó gọi là hòa đồng . Từ nhân viên văn phòng , anh tài xế , nhân viên vệ sinh , tạp dịch , cho đến ông tổng giám đốc v....v . Tất thảy đều xếp hàng trật tự . Tức là lúc mọi người gặp ông là sếp , nhưng loay hoay thế nào thì ông xếp hàng sau , thì người ta cứ để ông đứng đằng sau . Cái đó gọi là văn minh , còn trật tự tôn ti là ở chỗ khác .
Có thể người ta hơn mình , có thế bằng mình , có thể kém hơn mình . Nhưng trong chừng mực nào đó , trong một cấp thế nào đó , thì mình duy trì cái nếp sinh hoạt hoà đồng để giữa người này người kia không có sự phân biệt . Mình xúc phạm hoặc làm tổn thương đến người ta cũng không nên .
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta phải biết sống hoà đồng .
Cái này chúng ta gọi chung là Tứ Nhiếp Pháp , hoặc là bốn phép Đắc Nhân Tâm .